Phẩm
NHƯ LAI THẦN LỰC
Như
Lai thần lực là sức thần của tâm Như Lai tức là Như Lai Viên
Giác Diệu Tâm. Đó là cái tâm mầu nhiệm của tất cả mọi chúng
sinh.
Nói
về Như Lai là thuộc về thế giới Bổn môn tức là thế giới vượt
thoát khỏi không gian thời gian, thế giới bất sinh bất diệt. Thế
thì Như Lai không phải là một, hay Như Lai không phải ở đây và
lúc này mà Như Lai ở khắp mọi nơi, bao trùm khắp mọi thời gian
và có hằng hà sa số phân thân vì vậy thọ lượng Như Lai là vô
lượng vô biên và dĩ nhiên thần lực Như Lai cũng rộng lớn bất khả
tư nghì. Vì thế trong kinh Kim Cang, Phật dạy rằng : ”Nhược
dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhơn hành tà đạo, Bất
năng kiến Như Lai” nghĩa là: ”Nếu
thấy ta bằng sắc tướng, nghe ta bằng âm thanh, người nầy đi
đường tà, không thấy được Như Lai”.
Vậy
Như Lai ở đây không phải là Phật Thích Ca mà Như Lai chính là
Pháp thân thường trụ và cũng chính là bản thể chân như của vạn
pháp. Do đó vạn pháp hiện hữu trên thế gian vũ trụ là đều do
hiện tượng duyên sanh của bản thể chân như. Nếu hiểu theo hiện
tượng duyên sanh thì Như Lai là đức Phật Thích Ca cho nên Phật
có diệu dụng thần thông mà người thường không thể biết được nên
gọi là thần lực của Như Lai. Nhưng ở đây Như Lai là bản thể chân
như, bất sinh bất diệt, trùm khắp nên thần lực của Như Lai chính
là Tri Kiến Phật nơi chính mình.
Lúc bấy giờ, vô số Bồ-tát đã từ đất vọt lên ở trước Phật, tất cả
đều
nhất tâm chấp tay, chiêm ngưỡng dung nhan Phật mà bạch rằng:
-Thế Tôn ! Sau Phật diệt độ, chúng con sẽ rộng nói kinh Diệu
Pháp Liên Hoa ở xứ nào mà phân thân Phật đã diệt độ hết. Bởi vì
chúng con cũng muốn đọc, tụng, biên chép, giảng nói để cúng
dường “Đại Pháp Chân Tịnh” nầy.
Tâm
là đất cho nên khi tâm thanh tịnh tức là vô minh phiền não đã
sạch thì Tri Kiến Phật hiển hiện ví như từ đất vọt lên không còn
vướng bận những ô trược của thế tình. Tuy Ứng thân Phật có sinh
diệt, nhưng Pháp thân Phật bất sinh bất diệt và có hằng hà sa
phân thân trùm khắp tức là Hóa thân của Phật ở đâu thì Pháp thân
trùm khắp ở đó cho nên bất cứ nơi nào có chúng sinh là nơi đó có
Tri Kiến Phật. Vì thế tinh thần Pháp Hoa, chân lý Tri Kiến Phật
không bao giờ mất nghĩa là thần lực Như Lai quả là bất khả tư
nghì. Nếu chúng sinh sống trong mê mờ bất giác, bị ái dục nhận
chìm không còn thấy ánh sáng chân lý thì người đó sống trong
thời Phật diệt độ. Ngược lại có chúng sinh luôn sống trong tỉnh
thức chánh niệm, biết rõ ràng những biến hành của tâm để kìm chế
nó, không chạy theo tham đắm dục tình khiến tâm được thanh tịnh
nhẹ nhàng thì người đó sống trong thời Phật còn tại thế. Do đó
Phật diệt độ hay Phật còn tại thế là tùy theo con người có khả
năng làm chủ bản tâm của mình hay không thế thôi chứ Phật lúc
nào cũng thường trụ vĩnh hằng trong suốt thời gian và không
gian. Vì vậy Phật ở trong tâm của ta chớ không ở đâu xa. Khi mê
thấy Phật xa cách nghìn trùng nên cầu Phật hướng Đông hướng Tây
đến khi thức tỉnh biết tâm mình là Phật thì có an vui tự tại
Niết bàn.
Lúc ấy, trước mặt Văn Thù Sư Lợi và vô lượng Bồ-tát xưa kia ở
thế giới Ta-bà, cùng các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di và Thiên Long bát bộ, Thế Tôn hiện sức thần thông lớn:
le lưỡi rộng dài tới cõi trời Phạm thế và các lỗ chân lông phóng
ra vô số hào quang đủ màu, khắp soi mười phương thế giới. Các
đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cội cây báu, cũng làm như thế:
le lưỡi rộng dài và phóng ra vô lượng hào quang.
Đức
Phật Thích Ca tu hạnh Bồ Tát trong vô số kiếp nên Ngài có 32
tướng tốt và 80 vẽ đẹp. Nói thế có nghĩa là tướng lưỡi của đức
Phật dài hơn so với người thường. Nhưng ở đây kinh nói lưỡi Phật
dài trùm đến cõi trời Phạm thế. Vậy ý kinh như thế nào? Đây là
lối diễn bày những đức hạnh của Như Lai là:
v
1)Chân
ngữ giả: lời nói của Như Lai là nói lời chân lý.
v
2)Thật
ngữ giả: Như Lai không nói thì thôi còn nói thì chỉ nói lời chân
thật, không bao giờ nói lời xảo trá điêu ngoa, phỉnh phờ, lường
gạt.
v
3)Bất dị
ngữ giả: Trước sau như một không thay đổi. Đã là chân lý thì lúc
nào cũng vậy và Như Lai nói ở đâu cũng thế.
v
4)Bất
cuốn ngữ giả: Lời nói của Như Lai không hề có dối gạt.
Vì
những đức hạnh cao quý đó mà ngay cả hàng trời là những người có
nhiều phước đức trùm khắp mà cũng phải kính phục. Thật vậy, Phật
là thiên nhơn chi đạo sư nghĩa là Phật là thầy của trời, người.
Và tứ sanh chi từ phụ nghĩa là Phật đem lại sự lợi ích cho bốn
loài chúng sinh. Vì thế lời nói của Như Lai có giá trị trùm khắp
cõi trời Phạm thế. Do đó lưỡi dài ở đây chính là lời thuyết
pháp, là âm ba vang dội khắp cõi trời đem lại lợi ích cho tất cả
chúng sinh.
Lỗ
chân lông phóng ra vô số hào quang soi chiếu khắp cả mười
phương. Hào quang kinh nói ở đây là trí tuệ chớ không phải thứ
ánh sáng bình thường mà con người nhận biết. Phật là người hằng
sống với Tri Kiến Phật, với chơn tâm, với Phật tánh nên tâm các
Ngài thường trụ Niết bàn do vậy ngoài lục căn thanh tịnh thì
toàn thân của Phật cũng sáng suốt thanh tịnh có thể soi chiếu
khắp cả mười phương.
Đức Phật Thích Ca và các đức Phật dưới cây báu hiên sức thần
thông mãn trăm ngàn năm, sau đó mới rút lưỡi vô và đồng thời
tằng hắng, cùng chung khảy móng tay. Hai tiếng vang đó lan khắp
mười phương thế giới của chư Phật, Đại địa rung động sáu
cách. Trời, rồng, dạ-xoa… người và loài chẳng phải người,… nhờ
sức thần Phật đều thấy cõi Ta-bà vô lượng vô biên trăm ngàn muôn
ức Phật ngồi trên toà sư tử, dưới những cây báu, thấy Phật Thích
Ca và Đa Bảo Như Lai ngồi trên tòa sư tử trong tháp báu. Lại
thấy vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức Bồ-tát và tứ chúng cung
kính vây quanh đức Phật Thích Ca. Tất cả đều vui mừng như được
cái chưa từng có.
Lưỡi
là nơi phát xuất ra âm thanh, lời nói. Nhưng lời nói của chư
Phật có một giá trị chân thật đem lại sự an lạc thanh tịnh cho
chúng sinh. Bởi vì chư Phật một khi nói thì nói đúng với chân
lý, nói lời chân thật và lời nói trước sau đồng nhất không hề
gian dối. Vì lời nói quá giá trị nên có ảnh hưởng sâu rộng lan
truyền trong dân gian. Còn một thứ âm thanh nữa là Diệu Âm. Khi
ta nghĩ niệm lành thì chính mình nghe rất rõ trong tâm là mình
đang nghĩ niệm lành. Ngược lại nếu chúng sinh phát sinh một ác
niệm để ám hại người thì chính mình cũng nghe rất rõ rằng mình
đang nghĩ niệm ác. Nếu nghe âm thanh thiện thì con người có
khuynh hướng làm việc lành, việc tốt. Ngược lại âm thanh bất
thiện dẫn dắt chúng sinh sa vào tam ác đạo. Vì thế người có
chánh niệm thì sẽ thấy biết rõ ràng đó là loại âm thanh nào, tốt
thì giữ lấy còn xấu thì bỏ ngay. Tỉnh thức giúp chúng sinh sống
sáng suốt và chánh niệm giúp họ ngăn chận những tạp nhiễm không
cho lọt vào tâm để sai sử con người. Nên nhớ không có một người
làm một điều ác nào mà không có âm thanh đó báo trước, nhưng
những vô minh vọng chấp che phủ làm cho họ sống trong mê mờ bất
giác mà tác tạo ra nghiệp. Con người có khổ, có sống chết cũng
vì bả công danh, mùi phú quý cho nên Ôn Gia Hầu có câu:
·
Mồi phú
quý dữ làng xa mã,
·
Bả vinh
hoa lừa gã công khanh
……….
·
Gót danh
lợi bùn pha sắc xám
·
Mặt
phong trần nắng rám mùi dâu
·
Nghĩ
thân phù thế mà đau
·
Bọt
trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
Nhưng
cuối cùng thì:
·
Trăm năm
còn có gì đâu
·
Chẳng
qua một nấm cổ khâu xanh rì.
Vì
thế người có chánh niệm, luôn sống trong tỉnh thức thì có thể
làm chủ tâm mình, không chạy theo những vọng niệm điên đảo thì
cuộc sống mới an vui tự tại được.
Chư
Phật tằng hắng và cùng nhau khảy móng tay cốt là để cho chúng
sinh thâm nhập cái Tri Kiến Phật mà ngôn ngữ con người không thể
nào nói được. Nên nhớ Phật gây âm thanh không phải để chúng sinh
suy nghĩ vì suy nghĩ là vẫn còn lạc vào trong ý thức nên chưa
ngộ được bản thể chân như của chính mình. Phật dùng phương tiện
tạo ra tiếng động vang dội khắp mọi nơi để chúng sinh quán chiếu
cái bất sinh bất diệt, không hình không tướng và bao trùm khắp
mười phương. Khi chúng sinh nhận ra cái chân thật này thì chính
họ kiến đạo tức là ngộ nhập Tri Kiến Phật của chính mình.
Sống
trong thế gian này, người nào biết tu tập, sử dụng được cái sức
thần của tâm Như Lai thì chính họ sẽ thấy rõ mười phương pháp
giới liên kết với nhau, thông đồng không chướng nên pháp giới là
nhất chân tức là bất nhị. Đó là tâm của chúng sinh chạy lên chạy
xuống có lúc thì nhẹ nhàng thanh thoát như những vị trời. Có lúc
tham lam chạy theo sự thèm khát dục vọng như ngạ quỷ, súc sanh.
Có lúc sống trong khổ sở dày vò khác chi là địa ngục.. Nay nhờ
thần lực Như Lai, chúng ta biết rõ lúc nào nó khởi ý niệm của
địa ngục. Lúc nào nó khởi ý niệm xúi giục vào những khát vọng
của ngạ quỷ, súc sanh, hay của người, trời, Thanh Văn, Duyên
giác… Thí dụ thấy tiền nhiều tâm tham liền nổi dậy nên tâm sai
khiến con người làm bất cứ việc gì để chiếm đoạt số tiền đó về
cho mình. Bây giờ nhờ sức thần của Phật (tâm) nên ta biết rõ
những biến hành của tâm mà loại trừ những tà niệm tham đi. Do đó
sức thần Như Lai chính là sự thức tỉnh, chánh niệm để thấu biết
rõ ràng những biến đổi hình thành của tâm ở bất cứ thời điểm nào
và từ đó mới kiềm chế, làm chủ nó được. Vì thế sự an vui tự tại
của chúng sinh tùy thuộc vào cường độ tiêu diệt những khác vọng
của ái dục cho nên người nào xa lìa ái dục càng nhiều, dám từ bỏ
những tham đắm của thế trần thì người đó càng có nhiều an lạc.
Ngược lại người nào càng chạy theo sắc dục thì chính họ sẽ bị
nhận chìm trong biển khổ trầm luân, tuy có nhiều tiền, sự nghiệp
to lớn, công danh vinh hiển, nhưng không bao giờ có được những
giây phút an lạc trong tâm hồn. Nói cách
khác,
giải thoát giác ngộ của đạo Phật không bao giờ xuất hiện trong
tâm hồn của những ai có công danh lớn, sự nghiệp to, đời sống
đầy uy quyền và tham vọng bởi vì trong tâm của họ chất đầy phiền
não tính toán lo âu nên không còn không gian để trở về sống
thanh tịnh với chơn tánh của mình.
Khi
sống với Tri Kiến Phật thì không bị giới hạn bởi thời gian hay
không gian cho nên nhìn thế gian vũ trụ là nhất chân pháp giới
nghĩa là mười phương là một và một chính là mười phương, không
sai khác.
Nếu
chúng sinh biết sống đúng với Tri Kiến Phật thì đây chính là sức
thần Như Lai thì họ sẽ thấy vô lượng vô biên chư Phật và hằng hà
vô số chư Bồ Tát. Vậy Phật đó và Bồ Tát đó ở đâu mà nhiều thế?
Đó là do tự tâm của chúng ta mà có. Tại sao? Bởi vì khi đã sống
với Tri Kiến Phật tức là sống với chơn tâm, Phật tánh của mình
thì lục căn thanh tịnh cho nên nhìn ai cũng thấy Phật tâm, Phật
tánh và Bồ Tát tâm, Bồ Tát tánh vì thế bất cứ ở đâu và thời điểm
nào cũng có vô số chúng sinh tức là vô số Phật (tánh) đó. Vì
nhận thức như thế nên Thường Bất Khinh Bồ Tát gặp ai cũng đều
cung kính nói rằng “ông, bà sẽ thành Phật” là vậy. Thật vậy, khi
tâm được an vui thanh tịnh thì nhìn đâu cũng nhẹ nhàng thánh
thoát, thấy ai cũng đáng kính đáng yêu. Ngược lại khi tâm đang
bực bội, ưu phiền thì nhìn cảnh gì cũng thấy khó chịu, nhìn ai
cũng thấy không hài lòng cho nên không bao giờ thấy Phật hay Bồ
Tát được.
Ngay lúc ấy, chư thiên trong hư không lớn tiếng xướng lên: “Cách
đây vô lượng thế giới, có nước tên là Ta-bà, nơi ấy có phật hiệu
Thích Ca, hiện đang vì các Đại Bồ-tát nói kinh Đại Thừa tên Diệu
Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Các ngươi nên
vui theo trong thâm tâm, cũng nên lễ bái cúng dường Phật Thích
Ca”.
Không
nhất thiết âm thanh xướng lên trong hư không là của chư Thiên mà
thật ra khi một người hướng về giải thoát giác ngộ sống với chơn
tâm, Tri Kiến Phật của chính mình thì họ nghe rất rõ vô số
những âm thanh, bài pháp nhắc nhở khuyến khích họ trên con đường
học đạo và hành đạo. Đối với người có chánh kiến, chánh niệm,
chánh tư duy thì nghe rất rõ còn người ngồi kế bên bị phiền não
vô mình che lấp tâm trí thì không hề hay biết. Khi tâm an tịnh
thì họ sẽ nghe rất nhiều tiếng nói của chư thiên, nhưng thật ra
đó là tiếng lòng tức là Diệu âm của chính mình làm cho tâm hồn
thanh thoát vô cùng. Từ đó họ sẽ nghe Chánh pháp rất vi diệu,
nghe thấu suốt Bát Chánh Đạo, Thất Giác Chi… khiến tâm càng thêm
thanh tịnh an nhàn.
Nếu
chúng sinh có được những giây phút thanh tịnh quay về để nghe rõ
tiếng Diệu Âm và sống được với tiếng nói huyền diệu của tâm mình
thì thời điểm đó họ được vãng sanh tương ứng với những niệm
thanh tịnh đó nghĩa là “nhất niệm tương ưng nhất niệm sanh”. Còn
những vị tu hành cao hơn, công phu lớn mỗi mỗi niệm liên tục
thanh tịnh không dứt tức là “niệm niệm tương ưng niệm niệm sanh”
thì người đó sẽ ở vĩnh viễn ở thế giới cực lạc tức là cõi Tịnh
độ vậy. Thế thì Tịnh độ là đây, cực lạc là đây thậm chí địa
ngục, ngạ quỷ, súc sinh cũng là đây không ra ngoài cái bản tâm
của con người. Vì thế Phật dạy rằng: “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật
độ tịnh. Dục tịnh Phật độ tiên tịnh kỳ tâm” nghĩa là khi tâm
mình thanh tịnh thì thế giới sẽ an bình thanh tịnh. Mà muốn có
cõi Phật thanh tịnh (Tịnh độ) thì tâm mình phải thanh tịnh
trước. Ngược lại tâm mình không thanh tịnh, chất đầy phiền não
vô minh mà muốn dời cõi Phật nào đó về đây hay về cõi Phật nào
đó là chuyện không bao giờ có, sống trong ảo tưởng tức là tưởng
tri. Đạo Phật là đạo phát triển trí tuệ để tự mình trực nhận
chân lý tức là tuệ tri.
Chúng sanh nghe tiếng hư không ấy rồi bèn chấp tay quay về cõi
Ta-bà, cử thanh niệm:
“
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật!”
Rồi dùng các món hoa, hương, chuỗi ngọc, cờ, lọng, xa rải xuống
thế giới Ta-bà. Các vật rải đó, từ mười phương đến ví như mây
đùn, biến thành một bức màn báu trùm khắp không gian, phía trên
chư Phật. Bấy giờ, thế giới mười phương thông suốt với nhau,
không gì ngăn ngại, quốc độ chư Phật trở thành “Pháp giới không
hai”.
Khi
chúng sinh có tâm thanh tịnh thì thế giới mười phương thông suốt
với nhau, không còn ngăn ngại nghĩa là pháp giới nhất chơn cho
nên đối với những thế giới xa xôi và thế giới Ta Bà này không
còn xa xôi, ngăn cách nữa cho nên những việc làm ở cõi Ta Bà thì
các thế giới khác đều thấy biết rõ ràng coi như gần một bên vậy.
Thí
dụ có người vừa giải quyết xong một vấn đề khó khăn nào đó nên
lòng thư thái tự tại. Tại thời điểm đó anh ta nhìn cái gì cũng
dễ chịu, thấy ai cũng thích, cũng hòa khí. Ngược lại một người
trong nhà vừa xảy ra một biến cố nên lòng ưu tư, lo lắng, buồn
phiền vì thế cuộc đời đối với anh ta lúc này chẳng có gì thích
thú chẳng khác chi một màu đen ảm đạm. Thế thì cuộc đời đâu có
vui, đâu có buồn mà nó là như vậy tức là “Như Thị” cho nên người
biết làm chủ tâm mình thì thế giới này sẽ trở thành thanh tịnh
cực lạc Niết bàn. Ngược lại nếu thế giới bên ngoài làm chủ tâm
mình thì phải trôi nổi trong biển sinh tử trầm luân, không có
lối thoát. Do đó thế giới là bất nhị tức là Ta Bà là Tịnh độ và
Tịnh độ là Ta Bà nghĩa là tâm tịnh thì có cõi Tịnh độ ngược lại
tâm đau khổ ưu phiền thì Tịnh độ biến mất, Ta Bà xuất hiện. Cũng
như mê giác là một nghĩa là hết mê thì giác hiển hiện chớ không
thể ngoài mê tìm giác được. Thế thì tâm con người là Nhất chân
pháp giới bằng chứng là khi chúng sinh biết thức tỉnh sống đúng
chánh niệm, gát bỏ hết danh vọng, tiền tài, thương ghét, ham
muốn, hờn giận…thì lúc đó tâm trở thành thanh tịnh tức là mình
đang sống trong cõi Tịnh độ. Lúc nào thanh thoảng thì tâm ta là
trời, là Thanh Văn, Duyên Giác. Ngược lại nếu tâm chúng sinh cực
ác thì ta đang sống trong địa ngục. Còn nếu bất chấp luân thường
đạo lý, sống thát loạn thì chẳng khác chi loài ngạ quỷ súc sanh.
Nhắc
lại sau khi thành đạo đức Phật trở về cung thành Ca tỳ la vệ
thăm lại phụ thân và gia đình. Thấy con mình bây giờ là người
khất sĩ tức là người ăn xin, vua Tịnh Phạn thấy đau nhói trong
lòng nên bảo đức Phật trở về làm vua. Đức Phật chối từ mà trả
lời rằng “Con thấy cuộc đời không có gì là an lạc, ngay cả Phụ
vương có quyền uy thế lực thế đó mà Phụ hoàng đâu có giây phút
an vui thực sự. Trong triều đình có biết bao người tranh chấp,
ngoài biên cương phải lo chống đở giặc ngoại xâm đó là chưa kể
làm thế nào để có quốc thái dân an. Vì vậy buông xả, không dính
mắc thì đây mới là hạnh phúc chân thật, là sự an lạc mà thế giới
vật chất không bao giờ đem lại cho mình được”.
Tóm
lại, trong thế giới vũ trụ này không có nơi nào là xấu, là ô uế
hay làm toàn bằng vàng bạc kim cương cả mà chỉ tại tâm con người
cho nên tâm tịnh thì thế giới trở thành cực lạc. Ngược lại tâm
bất tịnh, buồn phiền đau khổ thì cũng thế giới này bây giờ trở
thành âm u đen tối, địa ngục A tỳ. Kinh điển Đại thừa thường hay
dùng ẩn dụ để chỉ cho những biến hành của tâm. Thí dụ khi thấy
thế giới toàn là sỏi đá, lồi lỏm tức là ám chỉ cho tâm chất đầy
phiền não, đau thương. Ngược lại thế giới bằng phẳng, làm bằng
pha lê, kim cương, cẩm thạch là ám chỉ cho tâm thanh tịnh nên
trong sáng như pha lê.
Lúc bấy giờ, Phật bảo các hàng Bồ-tát bậc thượng hạnh rằng:
-Sức
thần thông của chư Phật vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn như
thế. Nếu ta dùng sức thần thông ấy mà nói bày công đức của kinh
Diệu Pháp Liên Hoa để lưu truyền về sau, thì dầu có trải qua vô
lượng vô biên trăm ngàn muôn ức kiếp cũng chẳng nói hết. Tóm lại
tất cả pháp của Như Lai, tất cả thần lực tự tại của Như Lai, tất
cả kho tàng bí yếu của Như Lai, tất cả những điều hết sức thâm
sâu của Như Lai đều được tuyên bố, bày giải, nói rõ trong Diệu
Pháp Liên Hoa. Cho nên, sau Như Lai diệt độ, các người phải một
lòng thọ trì, đọc tụng biên chép, giảng nói và tu hành đúng theo
lời nói trong kinh. Nơi nước nào mà có người thọ trì, đọc tụng,
biên chép, giảng nói, tu hành đúng theo lời kinh, hoặc chỗ nào
có quyển kinh Pháp Hoa, bất luận nơi đó là: vườn, rừng, dưới cội
cây, phòng chư tăng, nhà người thế tục, chỗ thờ Phật, núi hoang,
đồng trống thì nên dựng tháp cúng dường. Phải biết chỗ có kinh
đó là: đạo tràng, là nơi chư Phật được Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, là nơi chư Phật chuyển Pháp luân, là nơi chư Phật
nhập Niết Bàn.
Để lập lại nghĩa vừa nói, Thế Tôn nói một bài kệ.
Thần lực Như Lai thì vô lượng vô biên. Nhờ thần lực Như Lai làm
cho pháp giới trở thành nhất chân tức là bất nhị nhờ đó tất cả
thế giới thông đồng nhau không hề ngăn ngại. Từ đó một người từ
thế giới khác có thể thấy biết rõ ràng những gì xảy ra ở thế
giới này hay người từ thế giới Ta Bà có thể thấy biết mười
phương quốc độ mà không hề có cách ngăn. Nhờ sức thần Như Lai mà
con người nghe được những tiếng âm ba thanh tịnh nhẹ nhàng phát
xuất từ trong tâm hồn của mình.
Thần lực Như Lai mà kinh nói ở đây chính là Tri Kiến Phật, là
cái thể bao hàm tất cả thần thông diệu dụng. Vì thế nếu chúng
sinh quay về sống với Tri Kiến Phật của chính mình thì lục căn
thanh tịnh, tâm trí bừng sáng mọi diệu dụng theo đó mà có, nghĩa
là không cầu thần thông mà vẫn có thần thông bởi vì thần thông
là từ bản thể chân như mà phát ra. Đối với Phật giáo, thần thông
không có gì quan trọng bởi vì hành giả đi sâu và sống đúng với
Tri Kiến Phật thì sẽ có thần thông trong khi đó ngoại đạo nhờ
sức tu luyện cũng có thần thông, nhưng khi không còn tu luyện
nữa thì thần thông tan biến.
Thần lực Như Lai nghĩa là sức thần Như Lai là sức nhiệm mầu
huyền diệu sự giác ngộ chân lý đến chỗ tận cùng và sức mạnh
huyền diệu của nội tâm đưa con người đạt đến cứu cánh giải thoát
của đỉnh cao trí tuệ. Thần lực Như Lai không phải là Thần lực
của Như Lai bởi vì Thần lực của Như Lai là sức thần thông diệu
dụng của một vị Phật chẳng hạn như đức Phật Thích Ca. Trong khi
Thần lực Như Lai là sức mạnh thần diệu của bản tâm của mình tức
là Phật tánh, là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm.
Tóm lại, bản nguyện của chư Phật là muốn chúng sinh “khai,
thị,
ngộ,
nhập Phật tri kiến”nghĩa
là đức Phật muốn
khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm
nhập cái thấy biết của Phật và cũng chính là cái
thấy biết của Pháp Hoa vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng
sinh.
Đó là trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng có đầy đủ Tri kiến
Phật, là trí tuệ bổn lai đều giống như Phật. Vậy Phật tri kiến
mà đức Phật muốn nói ở đây chính là chơn tâm, là Phật tánh
thường có vĩnh hằng, nhưng vì bị vô minh che lấp nên con người
không thấy biết chơn tánh hằng giác của mình.Vì thế chúng sinh
tuy có thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa là chỉ biết Pháp Hoa bằng
văn tự, nhưng thật ra muốn tỏ ngộ và thâm nhập Pháp Hoa thì
chúng sinh phải biết kinh Pháp Hoa Vô Tự tức là biết được cái
Tri Kiến Phật của chính mình. Do vậy người nào thâm ngộ được Tri
Kiến Phật thì tâm họ có Phật xuất hiện và nơi nào có người thâm
ngộ Tri Kiến Phật thì nơi ấy có Phật hiển hiện. Sau cùng, nơi
nào có kinh Pháp Hoa là nơi ấy chư Phật thành tựu Vô thượng Bồ
Đề, chuyển Pháp luân và nhập Niết bàn.
∆ TOP |
NEXT
|