Phẩm
CHÚC LỤY
Chúc là phó chúc, là giao phó. Lụy là dặn dò cho nên Chúc lụy là
di chúc, dặn dò hay phó thác cái trách vụ nào đó cho người khác
hay người đời sau để duy trì, bảo tồn cho được dài lâu.
Bất cứ một bộ kinh nào thường được trình bày theo thứ tự là phần
Tựa, phần Chánh tông và sau hết là phần Lưu thông. Cũng giống
như sách vở ngoài đời thì có phần mở đầu, phần thân bài và phần
kết luận. Thế thì phẩm Chúc lụy phải thuộc về phần Lưu thông tức
là phần kết luận của bộ kinh. Nhưng ở đây kinh Pháp Hoa còn có
thêm sáu phẩm nữa vì thế nếu đúng theo thứ tự thì nó phải ở phẩm
cuối hay tối thiểu ở phẩm thứ 27 tức là phẩm kế chót và sau cùng
phẩm sau cùng là phẩm Phổ Hiền Hạnh để nhắc nhở chúng sinh Tri
Hành phải hợp nhất. Như đã trình bày trong phần giới thiệu, có
rất nhiều phẩm của kinh Pháp Hoa được người đời sau thêm vào
chẳng hạn như phẩm Đề Bà Đạt Đa, phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát…cho nên
kinh không còn đúng theo thứ tự như lúc ban đầu.
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, từ pháp toà đứng dậy,
hiện sức thần lớn, dùng tay mặt xoa đầu vô lượng đại Bồ-tát mà
nói rằng:
-Trong
vô lượng trăm ngàn muôn ức A-tăng-kỳ kiếp, ta đã tu tập pháp Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác khó được nầy, nay đem giao cho các
ngươi, các ngươi nên hết lòng truyền bá để đem lại sự ích lợi
cho nhiều người.
Nếu
nói về sự thì đức Phật từ pháp tòa đứng dậy dùng Phật lực lấy
tay xoa đầu các Bồ Tát, thế thì đức Phật xoa được bao nhiêu cái
đầu? Nhưng thâm ý của kinh ở đây là bất cứ Bồ Tát nào cũng đều
có Phật tánh vô lượng vô biên cho nên bất cứ Bồ Tát ở đâu thì
thần lực của đức Phật tức là Phật tánh cũng xuất hiện ngay ở đó
để xoa đầu họ.
Vì
thế trong mỗi chúng sinh đều có sẵn Tri Kiến Phật tức là Như Lai
Viên Giác Diệu Tâm cho nên mỗi chúng sinh phải phụng trì sống
đúng với Tri Kiến Phật đó. Đức Phật từ trong vô lượng kiếp đã tu
tập pháp Vô Thượng Bồ Đề khó kiếm này, nay Ngài đem phó chúc cho
các Bồ Tát để sau này thọ trì đọc tụng tuyên nói pháp này cho
tất cả mọi nguời đều được nghe biết. Đoạn kinh này chứng minh
rằng chính đức Phật cũng phải trải qua vô lượng hằng sa kiếp tu
hành mới thành tựu pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tức là
thành Phật vì thế người đệ tử Phật đừng nghĩ rằng mình sẽ thành
Phật ngay trong đời này. Chính đức Phật nhờ tu pháp này mà thành
Phật nên Ngài khuyên các đệ tử phải một lòng tinh tấn tu tập để
chứng nghiệm như Ngài chớ không phải truyền bá suông thì không
bao giờ biết được hương vị giải thoát. Bởi vì đạo Phật là đạo
thực hành vì có thực hành mới có thực chứng.
Đoạn
kinh trên là dựa theo tư tưởng Đại thừa, nhưng theo Nguyên thủy
thì hành giả có thể chứng đắc quả A la hán ngay trong đời này
bằng chứng là vào thời đức Phật còn tại thế, có hàng vạn vị A la
hán. Đối với Nguyên thủy thì đức Phật là vị A la hán như tất cả
những vị A la hán khác, nhưng danh vị Phật chỉ dành cho đức Thế
Tôn vì Ngài là vị thầy của tất cả các vị A la hán và Ngài là
người chứng quả A la hán đầu tiên.
Đức Phật ba phen xoa đầu các Bồ-tát và ba phen lập lại câu nói
trên.
-Như
Lai có từ bi lớn, không tham tiếc cũng không có điều sợ sệt,
năng cho chúng sanh trí tuệ Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự
nhiên. Như Lai là đại thí chủ của tất cả chúng sanh, các ngươi
nên thọ học theo pháp của Như Lai, chớ nên tham tiếc. Đời sau,
nếu có trai lành gái thiện nào tin trí tuệ Như Lai thì các ngươi
nên vì những người ấy mà diễn nói Kinh Pháp Hoa, để họ nghe biết
tu hành, thành tựu được Phật tuệ. Nếu gặp hạng chúng sanh không
tin lãnh lời kinh, thì nên dùng pháp khác trong các giáo pháp
thâm diệu của Như Lai mà chỉ dạy cho họ được lợi ích vui mừng.
Làm được như thế là các ngươi đã báo ân Phật rồi vậy.
Như
Lai mà kinh nói ở đây là bản thể chân như bao trùm khắp chớ
không phải đơn thuần là đức Phật Thích Ca. Cái bản thể chân như
lúc nào cũng tồn tại hiện hữu suốt cả thời gian và không gian.
Vì sự bao trùm khắp cả nên Như Lai có đại từ bi để ban cho tất
cả chúng sinh sự an lành. Đó chính là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm
lúc nào cũng hiện hữu thường hằng trong tâm của mỗi chúng sinh.
Vì thế khi chúng sinh khởi ý niệm lành để cứu giúp kẻ khác thì
Như Lai đang phát tâm từ bi cứu độ chúng sinh đó. Nói chung Như
Lai bố thí tất cả giúp chúng sinh phát huy Nhất thiết chủng trí,
Tự nhiên trí, Vô sư trí của chính mình để thật sự có an lạc Niết
bàn. Nhưng nếu nói Như Lai là vị đại thí chủ thì Như Lai có bố
thí tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến cho chúng sinh không? Nếu
Như Lai không cho thì làm sao gọi là đại thí chủ? Đối với Như
Lai thì thế gian là thanh tịnh bản nhiên nên không hề có tham,
sân, si, mạn, nghi…tức là không hề có ô nhiễm. Nhiễm là vì chúng
sinh còn mê đến khi sống trong tỉnh thức chánh niệm thì mê biến
giác hiển bày. Tại sao? Bởi vì sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
tự nó là tự tánh thanh tịnh bản nhiên không hề bị ô nhiễm nên
tuy gọi là trần nhưng chúng đâu có ô nhiễm. Nhiễm cấu là vì tâm
chúng sinh còn tham đắm, còn dính mắc nơi sắc, nơi thanh, nơi
hương….còn Như Lai trong ngoài tự tại thì tìm đâu ra ô nhiễm mà
không ô nhiễm thì làm gì còn tham, sân, si. Vì thế căn, trần đều
thanh tịnh thì thế giới sẽ thanh tịnh, phù hợp với Phật tánh
thanh tịnh của vạn pháp, vũ trụ.
Đức
Phật đã ba lần khẳng định rằng Pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác chính là kinh Diệu Pháp Liên Hoa vì thế kinh Pháp Hoa là
kinh đưa người tu thành Phật, là kinh tối thượng thừa. Đó là tại
sao chư Phật xuất hiện trong thế gian này không ngoài mục đích
“khai thị” giúp chúng chúng sinh “ngộ nhập” cái Trí Tuệ Phật,
Trí Tuệ Như Lai, Trí Tuệ tự nhiên vốn đã có sẵn trong mỗi chúng
sinh. Vì lòng từ bi, đức Phật chỉ cho chúng sinh nhận biết Trí
Tuệ Phật của mình mà kinh gọi là “cho” chớ thật ra Ngài không
bao giờ đem trí tuệ cho ai được. Chỉ có kinh Pháp Hoa mới xiễn
dương tình thần bình đẳng là mọi người đều có Trí Tuệ Phật nên
ai cũng có thể tu thành Phật.
Tuy
Tri Kiến Phật là bổn tánh huyền diệu thiêng liêng mà ai cũng có,
tuy nhiên rất nhiều người căn cơ còn thấp không thể lãnh hội
được giáo lý tối thượng thừa của kinh Pháp Hoa thì Phật dạy nên
dùng giáo lý bất liễu nghĩa tức là giáo lý phương tiện để giáo
hóa họ mà mang lại sự lợi ích an lành thì cũng như đền đáp ơn
Phật rồi vậy. Giáo lý Phật Đà có năm thừa vì thế tùy theo căn cơ
sở nguyện chúng sinh có thể tu học bất cứ thừa nào cũng được.
Cái huyền diệu ở đây là phía thực hành cho nên tuy một người chỉ
tu nhân thừa, giữ gìn tam quy ngũ giới trọn vẹn tròn đầy thì
chính họ sẽ có hạnh phúc an lành dựa theo tinh thần nhân thừa
rồi.
Tôn
chỉ của đạo Phật là diệt khổ nghĩa là không làm khổ mình, không
làm khổ người. Vì thế thiên đường thì do ta mà địa ngục thì cũng
do ta cho nên người xưa có câu:
v
Thiên
đường hữu lộ tùng tâm ngộ
v
Địa ngục
vô oan tự tánh hôn.
Nghĩa
là khi tâm tỉnh ngộ thì có cảnh thiên đường rực rở, còn tâm mê
muội thì nhìn đời khác chi là địa ngục A tỳ. Nhưng người học
Phật có thể chuyển địa ngục thành ra thiên đường bởi vì thật
tánh của vô minh là Phật tánh. Thật tánh của phiền não ưu bi là
tự tánh thanh tịnh bản nhiên cho nên mê là địa ngục A tỳ còn
sống trong thức tỉnh chánh niệm là có thiên đường ngay.
Khi nghe Phật nói xong, các Đại Bồ-tát đều cảm thấy sự vui
mừng lan khắp thân thể. Lòng thêm cung kính, các Bồ-tát nghiêng
mình cúi đầu, chấp tay hướng Phật đồng bạch:
-Chúng
con sẽ làm đầy đủ theo lời Thế Tôn dạy, kính xin Thế Tôn đừng lo
nghĩ nữa!
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca truyền cho các phân thân Phật đã
từ mười phương đến, đều trở về nước mình và nói rằng:
-Chư
Phật mỗi vị tuỳ chỗ an trú của mình mà trở về bổn độ tháp
của Phật Đa Bảo hoàn nguyên bản vị.
Trong lúc Phật nói, mười phương vô lượng phân tâm Phật đang ngồi
trên toà sư tử dưới cây báu, cùng Phật Đa Bảo với vô biên vô số
Bồ-tát như Xá-lợi-phất… hàng Thanh Văn, bốn chúng và tất cả
thiên, nhân, a-tu-la, nghe lời Phật nói đều rất vui mừng.
Sau khi nghe lời phó chúc, các vị Bồ Tát nguyện sẽ thực hành
đúng như lời dặn của Thế Tôn. Đến đây thì phần “Thị” và “Ngộ”
Tri Kiến Phật đã xong cho nên đức Phật yêu cầu các phân thân
Phật đến từ mười phương để hợp lực cùng Phật Thích Ca mở tháp Đa
Bảo để cho đại chúng chiêm ngưỡng Phật Đa Bảo có thể trở về bản
xứ để tiếp tục công việc của mình. Và sau cùng xin Phật Đa Bảo
mang bảo tháp về chỗ cũ. Kinh đã dùng một hình ảnh tuyệt diệu để
diễn tả những ý tưởng thâm diệu mà ngoài hình ảnh đó có lẽ ngôn
ngữ của con người không thể nào diễn bày được. Đến đây là chấm
dứt phần Khai, Thị, Ngộ. Phần duy nhất còn lại là “Nhập”
tức là phần thực hành cái Tri Kiến Phật đó. Phần lý thuyết thì
đức Phật đã chỉ bày xong cho nên phần thực hành thì chúng sinh
mỗi người phải tự mình hành trì và sống đúng với những tư tưởng
Khai, Thị, Ngộ để liễu ngộ chân lý.
∆
TOP |
NEXT
|