Phẩm ĐỀ BÀ ĐẠT
ĐA
Các nhà khảo cứu Phật học trong những năm gần đây đã đưa là
lời giải thích rằng những phẩm thứ 12, phẩm thứ 13 và phẩm thứ
14 đã được người đời sau thêm vào tương đối trễ trong lịch sử
hình thành kinh Pháp Hoa vì những phẩm này không thuộc về phần
Bổn môn. Nếu dựa theo tinh thần phân tích Tích môn và Bổn môn
của Thiên Thai tông thì ba phẩm trên thuộc về phần Tích môn cho
nên nếu nói theo thứ tự thì nó phải đứng trước phẩm Hiện Bảo
Tháp.
Đề Bà Đạt Đa không ai xa lạ mà chính là anh em chú bác với
đức Phật. Ông là con của Bạch Phạn Vương (Amitodana) là em của
vua Tịnh Phạn. Thưở nhỏ, ông cùng Thái tử Tất Đạt Đa học tập, vì
tài năng không xuất sắc nên tuy thường tranh tài với Thái tử
nhưng không thắng được nên ôm lòng căm hận.
Sau khi thành đạo, đức Phật về lại cung thành Ca Tỳ La Vệ
thăm lại gia đình và cảm hóa và khuyến khích những người trong
dòng họ Thích Ca xuất gia tu đạo. Khi nhân duyên đã đến, Đề
Bà cùng em ruột là A Nan và năm vị vương tử khác là A Na Luật,
Kiếp Tân Na, Bà Sa, Bạt Đề, Nan Đề đồng lén bỏ nhà xuất
gia theo Phật.
Trong khoảng 12 năm đầu, ông siêng năng tu hành, nhưng không
đạt được thánh quả nên thối tâm sinh lòng muốn học thần thông để
được lợi dưỡng và thích khoe những điều kỳ lạ để lòe người. Tuy
là anh em ruột, nhưng tánh tình mỗi người mỗi khác. A Nan thì
hiền hòa nhân hậu còn Đề Bà thì nham hiểm, tính toán và không an
phận thủ thường. Chính đức phật đã nhiều lần khuyên ông nên hoàn
tục làm cư sĩ chớ không nên ở trong Tăng đoàn để gây thêm nghiệp
chướng, nhưng ông không nghe. Vì ham thích sự kỳ bí nên ông ta
yêu cầu Phật dạy về pháp môn thần thông, nhưng Phật bảo ông
trước hết phải lo tu tập cho thân tâm thanh tịnh mà đừng tham
cầu phép lạ. Lý do là thần thông và phép lạ không đủ tiêu biểu
cho đức hạnh. Sau khi nghe Phật từ chối, ông rất tức giận bèn
đến nài nỉ hai Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Các vị nầy
thừa biết tánh hung ác của ông nên đều từ chối. Ngược lại các vị
chỉ dạy cho ông tu quán đạo lý khổ, ý nghĩa chữ không, pháp vô
thường và vô ngã mà thôi. Do đó, Đề Bà Đạt Đa ôm lòng phản
nghịch. Ông nghĩ rằng nếu không tiêu diệt đức Phật thì ông ta
không thể tự do tung hoành và thề rằng đức Phật là kẻ thù không
đội trời chung.
Sau đó, Đề Bà dẫn 500 đồ chúng thoát ly tăng đoàn, tự xưng là
Đại sư, lập ra 5 tà pháp, cho đó là con đường phạm hạnh dẫn đến
Niết bàn: 1)Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni suốt đời đi khất thực chớ
không được vào nhà thí chủ thọ trai. Phật
bát bỏ bởi vì ngày xưa có những vị trưởng giả hay vua chúa
thường thỉnh Phật và chư tăng vào cung để cúng dường và nghe
pháp.2)Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni phải mặc y phấn tảo tức
là chỉ mặc y lượm được ở nghĩa địa đem giặt sạch để may y chớ
không được nhận y cúng dường từ thí chủ.
Đức Phật không chấp nhận mà cho phép
Tăng Ni được nhận tối đa là 3 y.
3)Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni không được ăn thịt, cá.
Đức Phật cũng không chấp thuận bởi
vì Tăng chúng đi khất thực ngày một bửa nếu thí chủ cúng dường
vật thực gì thì cứ ăn, không có chọn lựa. Vì thế vào thời
đức Phật, Tăng đoàn không có ăn chay cho nên Phật giáo Nguyên
thủy gọi lối ăn chay của Phật giáo Đại thừa là đệ tử của Đề Bà.
Vì thế trong 250 Tỳ kheo giới không
hề có giới ăn chay. Đệ tử Phật sau giờ Ngọ không ăn, còn
pháp của Đề Bà thì ăn giờ nào cũng được. Phật không cho ăn
bất tịnh nhục là không thấy, không nghe, không
biết, không bảo ai giết và không tự mình giết con vật đó cho
mình ăn, nhưng Phật cho ăn tịnh nhục tức là
được ăn thịt, cá đã chết. Từ khi hình ảnh Bồ Tát xuất hiện trong
kinh điển Đại thừa thì họ chủ trương và áp dụng lối thực hành
của Ấn Độ giáo mà ăn chay là một biểu tượng của lòng từ bi. Ấn
Độ giáo lý luận rằng Bồ Tát sao lại nở ăn thịt chúng sinh cho
nên ngày nay người tu theo Ấn Độ giáo chẳng những không ăn thịt
cá mà họ còn không ăn uống những gì làm bằng bơ, sửa nữa.
Vegetarian tức là người không ăn thịt, cá. Còn
vegan là người không ăn thịt, cá, bơ, sửa
4)Chư Tăng Ni chỉ được ở trong rừng chớ không được vào thành
thị, xóm làng. Phật cũng không chấp
thuận vì đạo Phật là đạo tùy duyên, không cố chấp. Ai
muốn vào rừng thanh vắng để tu cũng được mà người nào muốn vào
phố thị để hóa duyên thì Phật cũng không cấm
5)Chư Tăng Ni chỉ được ngủ ở dưới gốc cây. Phật cũng không chịu
bởi vì nếu chư tăng muốn ngủ dưới gốc cây cũng được hoặc ngủ ở
trong tịnh xá cũng được, tùy duyên chớ Phật không ép chế.
Đề Bà vọng lập 5 pháp như thế để mê hoặc đại chúng, lấy phi pháp
làm chánh pháp, cho pháp là phi pháp, lấy phi pháp làm luật, cho
luật là phi luật nên gọi là Tà pháp.
Tại thành Vương Xá, Đề Bà thành lập giáo đoàn riêng rẽ độc lập
chống lại đức Phật. Với sự đãi ngộ của vua A Xà Thế, con vua Tần
Bà Xa La, thế lực của Đề Bà dần dần rộng lớn. Về sau, Đề Bà xúi
giục Thái tử A Xà Thế giết cha để đoạt ngôi. Rồi ông dựa vào uy
quyền của vua A Xà Thế mà mưu toan lãnh đạo Tăng đoàn.
Đề Bà muốn hãm hại đức Phật nên sai 500 người xô đá và dùng khí
giới để giết Phật, nhưng chỉ có một mảnh đá nhỏ văng ra làm
trúng chân Phật chảy máu. Một lần nữa, thừa lúc Phật vào thành
Vương Xá, Đề Bà cho thả voi điên để sát hại Phật, nhưng vừa gặp
Phật voi liền quy phục nên việc cũng không thành. Ác tâm của Đề
Bà không dừng ở đây, ông ta còn đánh đập Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc
đến chết. Sau đó, Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên khuyến dụ
đồ chúng của Đề Bà trở lại với Tăng đoàn của đức Phật. Ngay cả
vua A Xà Thế cũng được đức Phật giáo hóa bèn sám hối quy y và về
sau nhà vua là một đại thí chú cho Phật giáo. Tâm cùng trí quẩn,
Đề Bà nhét chất độc vào trong mười móng tay của mình, định thừa
dịp lễ lạy để cào vào hai bàn chân mà hại Phật, nhưng chân đức
Phật lúc đó cứng như đá nên không bị chất độc hãm hại. Ngược
lại, 10 ngón tay của Đề Bà bị xây xát khiến chất độc ngấm vào
máu, chết tức thì.
Trong bộ TỨ PHẦN LUẬT, đức Phật có câu chuyện giải thích về tội
phá hoại tăng đoàn của Đề Bà Đạt Đa như sau:
Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật rằng:
-Tất cả người phá Tăng đều đọa địa ngục một kiếp để thọ khổ phải
không?
Đức Phật nói với Ưu-ba-ly rằng:
-Tất cả những người phá Tăng không phải chỉ đọa địa ngục để thọ
khổ một kiếp mà hết đâu.
Trong cuốn Đại Đường Tây Vực Ký của ngài Huyền Trang (602-664TL)
và cuốn Cao Tăng Pháp Hiển Truyện của ngài Pháp Hiển, sinh vào
đời Đông Tấn năm 340TL, có nói rằng khi hai ngài Huyền Trang và
Pháp Hiển du học ở Ấn Độ mà vẫn còn có người tuân hành theo di
huấn của Đề Bà Đạt Đa.
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại Kỳ-viên-tự, nước Xá-vệ, trong
một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến chuyện Đề-bà-đạt-đa mặc áo
cà-sa.
Vào độ ấy, hai vị đại-đệ-tử của đức Phật là các Tôn-giả
Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên, từ Xá-vệ đến thành Vương-xá,
để giảng đạo. Dân-chúng ở thành Vương-xá tổ-chức một lễ
cúng-dường, dưng thực-phẩm lên hai vị Tôn-giả và chư Tăng
tháp-tùng. Có một người tín-chủ, nhơn dịp nầy, đem một khúc vải
quí, giá đáng ngàn vàng, trao cho ban tổ-chức, với lời dặn: đem
bán đi để lấy tiền sung vào quỹ, nếu quỹ còn thiếu, bằng không
thì đem vải dưng cho vị tỳ-kheo nào mà ban tổ-chức nhận thấy
xứng đáng mặc vải ấy. Vì quỹ còn dư tiền, nên ban tổ-chức đem
dưng cho một vị tỳ-kheo. Hai tôn-giả Xá-lợi-phất và Đại
Mục-kiền-liên sau đó rời Vương-xá trở về Xá-vệ, nên ban tổ-chức
mới đem trao cho Tôn-giả Đề-ba-đạt-đa là người thường-trú ở
thành Vương-xá. Tôn-giả Đề-bà-đạt-đa liền đem cắt may thành áo
cà-sa, và khoác lên đi đó đây với niềm hãnh-diện.
Có một vị Tăng ở Vương-xá nhìn thấy Tôn-giả Đề-bà-đạt-đa có vẻ
khoe-khoang về chiếc áo quí, khi đến đảnh-lễ Phật, mới bạch cùng
Đức Phật. Đức Phật bảo, đấy chẳng phải là lần thứ nhứt
Đề-bà-đạt-đa mặc chiếc áo cà-sa mà mình chẳng xứng đáng mặc. Rồi
đức Phật mới kể lại câu chuyện xưa về Đề-bà-đạt-đa như sau:
Vào một thời xa xưa, Đề-bà-đạt-đa là một người thợ săn voi trong
rừng. Trong khu rừng ấy có một đàn voi đông-đảo, mỗi khi thấy
một vị Bích-chi Phật đi ngang qua, chúng liền qùi xuống đảnh-lễ.
Đề-bà-đạt-đa núp trong lùm cây, thấy thế, liền nghĩ ra một
mưu-kế để săn voi. Nhơn lúc vị Bích-chi-Phật cổi áo ra tắm bên
bờ suối, Đề-bà-đạt-đa liền lấy trộm chiếc áo cà-sa. Hôm sau, y
lấy áo cà-sa khoác lên mình, dấu mũi chĩa nhọn bên trong, đi vào
rừng. Đàn voi ngỡ là vị Bích-chi-Phật đi đến, liền quì xuống.
Đề-bà-đạt-đa dễ-dàng phóng chĩa ra giết thú. Ngày qua ngày, đàn
voi càng thưa lần vì số voi bị giết, khiến cho con voi đầu-đàn
ngạc-nhiên, và theo trông chừng mỗi khi có người vào rừng. Khi
thấy voi cùng đàn bị phóng chĩa, voi đầu-đàn vượt lên trước,
dùng vòi quật ngã... người thợ săn gian-trá. Nhìn thấy chiếc áo
cà-sa trên mình người thợ săn, voi đầu-đàn ngừng lại, tha chết
cho y.
Kể đến đây, đức Phật cho biết, vào thời ấy, con voi đầu-đàn đó
chính là tiền-thân của đức Phật, và ngày nay Đề-bà-đạt-đa
khoe-khoang chiếc áo cà-sa, đó chẳng phải là lần thứ nhứt mà một
người chưa xứng đáng lại lạm-dụng y-phục của nhà tu-hành
chơn-chánh.Rồi đức Phật mới đọc lên hai bài kệ sau đây:
Kẻ nào tâm vướng điều phiền-não,
Khoác lên thân chiếc áo cà-sa,
Thiếu kềm-chế, chẳng thật-thà,
Còn chưa đáng mặc cà-sa áo vàng.
(Kệ số 009-kinh Pháp Cú)Kẻ nào tâm sạch điều phiền-não,
Thân vững-vàng, đạo-hạnh cao-xa,
Biết kềm-chế, lại thật-thà,
Là người xứng đáng cà-sa mặc vào.
(Kệ số 010-kinh Pháp Cú)
Như thế, dưới nhãn thức của phàm nhân hay hàng Thanh Văn thì Đề
Bà là người đầy tội lỗi, là hạng Nhất xiễn đề, phạm tội ngũ
nghịch tất phải bị đọa vào địa ngục như bộ TỨ PHẦN LUẬT đã nói ở
trên. Nhưng ở đây, giáo lý Đại thừa thì Đề Bà là bậc thiện tri
thức của đức Phật. Tại sao? Bởi vì nhờ Đề Bà mà đức Phật mới
được viên mãn công hạnh Bồ Tát rồi thành Phật. Đại thừa cho rằng
trong mỗi chúng sinh đã có sẵn Tri Kiến Phật cho nên người đó
dầu có tạo tác tội nghiệp gì đi chăng nữa thì cái Tri Kiến Phật
vẫn nguyên vẹn tức là những tội ác đó vẫn không làm mất đi cái
hạt giống, cái khả năng thành Phật trong tâm của người phạm tội,
vì vậy trong họ đã có Phật nhân thì chắc chắn họ sẽ đắc thành
Phật quả. Đây có lẽ là trường hợp “khó khăn nhất” để chứng minh
rằng trong tất cả mỗi chúng sinh cho dù là bạc địa phàm phu vẫn
có sẵn Phật tánh. Vì thế hai quan điểm của Đại thừa và Nguyên
thủy rất khác biệt ở chỗ này.Lúc bấy giờ Phật bảo các Bồ-Tát và bốn chúng:
-Trong quá khứ vô lượng kiếp, ta đã tìm cầu kinh Pháp
Hoa không hề biếng trễ. Nhiều kiếp tu thường làm vua phát
nguyện cầu đạo Bồ-đề lòng không thối chuyển vì muốn đầy đủ 6
pháp Ba-la-mật, ta siêng làm việc bố thí lòng không luyến tiếc
một vật gì, dù đó là tiền bạc, châu báu, đất đai, vợ con, tôi tớ
hay thân thể của ta. Vì lòng mến chánh pháp, ta nhường ngôi cho
Thái tử và truyền rao trong dân chúng, rằng ai nói được pháp Đại
Thừa cho ta nghe, ta sẽ trọn đời hiến thân làm tôi tớ hầu hạ.
Bấy giờ có vị Tiên, nhận tuyên nói kinh Đại Thừa Diệu
Pháp Liên Hoa, nếu nhà vua không trái ý ông. Vua chịu theo
và hầu hạ vị Tiên làm đủ mọi việc, trải một ngàn năm hết lòng
siêng năng vì trọng pháp.
Phẩm này cũng giống như phẩm Hiện Bảo Tháp ở phần trước có vẻ
huyền bí mơ hồ, nhưng đây là lối kinh nói theo thể Vị Tằng Hữu
nghĩa là dùng những ẩn dụ để nói về những việc làm ít có của
Phật và các đệ tử chớ đừng hiểu theo lẽ thông thường mà sinh ra
mê tín. Đức Phật trong những đời quá khứ đã từng làm quốc vương,
nhưng vì muốn cầu đạo Bồ Đề Ngài đã thực hành rốt ráo lục độ Ba
la mật. Ngài bố thí từ ngoại tài như tiền bạc, châu báu, đất đai
từ bỏ ngay cả vợ đẹp con xinh và nội tài như thân thể và tánh
mạng của mình. Ngài bố thí tất cả, nhường uy quyền lại cho Thái
tử, quyết chí xả thân cầu pháp. Đoạn kinh này diễn tả một lý
tưởng quá tuyệt vời. Đó là trước khi muốn thu nhận một tư tưởng
giải thoát thì trước nhất con người phải có ý chí để dọn sạch
những tư tưởng bất thiện đã huân tập từ bao nhiêu đời bao
nhiêu kiếp trong tâm của chúng ta. Thí dụ nếu muốn đổ
nước thơm tinh khiết vào cái bình thì trước hết phải đổ cho hết
những nước dơ, cũ trong bình thì cái bình bây giờ mới có thể
chứa được nước mới, nước thơm tho. Đạo Phật là đạo buông xả vì
thế ngày xưa đức Phật khi xuất gia thì Ngài cũng bố thí tất cả,
bỏ lại cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, quyền cao danh vọng
vì đây là những món trong thập triền thập sử, là những sợi dây
vô hình cột chặt con người vào chốn trầm luân. Vì thế đạo Phật
mới gọi là đạo giải thoát. Giải là cởi mở nghĩa là cởi mở những
trói buộc để thoát ra khỏi mọi hình thức đau khổ của cuộc đời.
Lúc đó, có vị tiên nhân đến nói với nhà vua rằng “Ta có bộ kinh
tên là Diệu Pháp Liên Hoa, nếu nhà vua không trái lời ta dạy thì
ta sẽ vì nhà vua mà nói. Nhà vua hài lòng bèn đi theo vị tiên
nhân, cung phụng những gì ông ta cần, lại đến núi hái trái cây,
gánh nước, nhặt củi, nấu cơm, ngay cả dùng thân của mình làm
giường cho vị tiên nằm. Vì kiên tâm cầu pháp nên nhà vua không
bao giờ giải đãi, cung cấp, phục vụ cho vị tiên chẳng thiếu món
gì.
1)Bố thí ba la mật: Mục đích tu hạnh bố thí là muốn giải trừ tâm
tham của mình. Có cho bớt cho đời, có san sẽ lại với đời thì
lòng tham mới giảm cho ngược lại cái gì củng muốn đem về cho
mình, cho gia đình mình thì lòng tham sẽ tăng, không giảm. Có bố
thí thì tâm mới nhẹ nhàng, thanh thoát, vừa lợi cho người vừa
lợi cho mình và đây là cách vun bồi phước đức cho đời sau. Có
như thế thì tự tánh Bồ đề mới có thể phát triển để hiển bày.2)Trì giới ba la mật: Thật ra trong thế gian này không có cái gì
là giới luật nếu con người làm đúng với chơn tánh của mình. Vì
thế trì giới là để nhắc nhở chúng sinh:
o
Chư
ác mạc tác
o
Chúng thiện phụng hành
o
Tự tịnh kỳ ý
Tức là nên làm tất cả
các việc lành, lánh xa các việc ác cho dù là một việc ác nhỏ và
nên vun bồi tư tưởng cho được trong sạch. Đó là giữ giới rồi
vậy. Vì vậy giới là biệt biệt giải thoát tức là giữ được một
phần giới thì tâm có được một phần thanh tịnh cho đến khi giữ
gìn giới hoàn toàn tức là sống đúng với chơn tánh của mình thì
sẽ có giải thoát giác ngộ ngay.
Lục Tổ Huệ Năng dạy
trong kinh Pháp Bảo Đàn là chúng sinh muốn có tâm thanh tịnh thì
phải áp dụng ba cái Vô :
1.Vô niệm vi
tông : Phàm là con người thì lục căn lúc nào cũng có
thể tiếp xúc với sáu trần, nhưng nếu muốn tâm đừng phát sinh
vọng tưởng thì cho dù mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi
hương vị, lưỡi nếm mùi vị, thân cảm xúc nóng lạnh hay ý có suy
nghĩ gì mà tâm không khởi vọng niệm chạy theo. Nói cách khác
thấy thì cái gì cũng thấy mà không thấy cái gì hết, nghe thì
nghe tất cả mà như không nghe gì cả…Cảnh vật, âm thanh…cũng như
gió thoảng, mây bay có đến rồi lại đi, đừng chấp thủ, giữ lại
trong lòng. Con người làm chủ tâm mình thì có an lạc, thanh tịnh
Niết bàn, ngược lại nếu tâm làm chủ thì con người làm nô lệ cho
vô minh phiền não, thế
thôi.
2.Vô tướng vi
thể : Tất cả vạn pháp trong thế gian này là từ nhân
duyên kết hợp nên chúng không có tự thể nghĩa là vô ngã tức là
Không. Khi đã thấu hiểu vạn pháp là giả dối, không thật, nay có
mai không thì con người đừng chạy theo sắc trần một các mù quáng
làm tâm bất tịnh. Chỉ khi nào chúng sinh quán tưởng để thấy biết
bằng trí thật tướng của vạn pháp thì cái thấy biết này mới là
chân lý.
3.Vô trụ vi
bổn : Vô trụ là không dính mắc. Vậy không dính mắc cái
gì? Sáu trần là những cục nam châm có sức hút rất mãnh liệt làm
cho sáu căn mê muội khiến tâm phát sinh vọng tưởng sai lầm làm
cho con người sống trong điên đảo khổ đau. Vậy muốn có cuộc sống
tự tại an nhàn thì từng giây, từng phút, từng giờ, từng hơi thở
con người nên giữ chánh niệm, sống trong tỉnh thức, đừng để tâm
buông lung chạy theo tham đắm dục tình.
3)Nhẫn nhục ba la mật:
Đây là đức tính cao quý nhất để giúp hành giả thành tựu trí tuệ
Bồ đề bởi vì con người có nhẫn nhục, có sức chịu đựng thì mới có
thể vượt qua những thử thách lớn lao mà có thành công vĩ đại. Vì
thế trong chốn tùng lâm (thiền gia) các bậc đạo cao đức trọng,
tu chứng thì gọi là bậc long tượng bởi vì chỉ có voi hay rồng
mới chịu nổi bảo táp phong ba chốn bụi trần.
4)Tinh tấn ba la
mật: Bất cứ việc làm nào trên thế gian mà muốn có kết quả tốt
đẹp thì người thực hành phải có niềm vui trong việc làm đó chớ
không thể làm lấy lệ hay giải đãi mà thành công được. Vì thế
tinh tấn là năng lực để giúp hành giả cất bước tiến nhanh tiến
mạnh về mục tiêu mình mong muốn.
5)Thiền định ba la
mật: Trong tâm của chúng sinh dấy khởi biết bao vọng niệm từng
giây, từng phút. Nhưng nói chung tất cả vọng niệm cũng không ra
ngoài phạm trù của chấp ngã, của sự so sánh phân biệt đối đãi
giữa ta và người, giữa cái của ta và thế giới bên ngoài. Vì thế
thiền định là phương pháp quay về với tự tâm của mình để làm
ngưng lại và giết chết những tư tưởng này.
Tu tập Thiền định dẫn
con người đến những kết quả mỹ mãn như sau:
Ø
Khi tu thiền một thời
gian dài lâu thì ngũ căn được tịch tịnh và chánh định sẽ phát
khởi.
Ø
Nhờ Thiền định mà tâm
Từ bi được phát triển để thương yêu tất cả chúng sinh và muốn
cho tất cả được an vui hạnh phúc.
Ø
Nhờ năng lực Thiền
định mà các phiền não Tham-Sân-Si không còn phát sinh nữa.
Ø
Khi tâm đã định thì
lục trần là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp không còn lay động.
Ø
Tìm lại an lạc thanh
tịnh trong tâm hồn.
Ø
Một khi tâm niệm đã
lắng yên thì ái dục không còn phát sinh làm tâm không còn ô
nhiễm.
Ø
Điều quan trọng của kẻ
tu thiền là tuy chứng được chân không nhưng không bao giờ bị rơi
vào chỗ hư vô.
Ø
Tận diệt tất cả những
sự trói buộc để được phát khai trí tuệ, giải thoát và chứng ngộ
Niết bàn.
6)Trí tuệ ba la mật:
Trí tuệ là điều kiện tối hậu để phá vô minh mà thấu triệt chân
lý. Trong tam vô lậu học thì Giới và Định chỉ có mục đích mở
đường cho sự rèn luyện Trí tuệ. Giới có thể làm cho thân và khẩu
được thanh tịnh và Định giúp tâm được an trụ, thanh tịnh
và chân chính. Huệ tức là trí tuệ sẽ phát huy phần tâm linh quan
trọng nhất của con người là trí năng để đạt đến cứu cánh giải
thoát. Trong Phạn ngữ có rất nhiều danh từ được dịch là trí tuệ,
nhưng ý nghĩa của chúng đôi khi cũng có ít nhiều sai biệt. Đó
là:
Ø
Panna
là biện tướng trí tức là trí tuệ phân biệt được chân
tướng vô ngã, vô thường, khổ não của hiện tượng giới.
Ø
Patisambhida
là minh giải trí tức là trí tuệ giúp phân tích và biện
giải các pháp một cách minh bạch rõ ràng.
Ø
Nana
là
phá tướng trí tức là trí tuệ trực nhận chân lý và phá chấp
tướng của vạn hữu. Đây chính là trí tuệ của chư Phật và chư Bồ
Tát bất thối.
Ø
Bodhi
hay
Bồ-đề tức là trí giác ngộ. Đây là trí tuệ của các bậc
huyền thông đạo lý để dứt trừ phiền não, vọng chấp.
Tuy được dịch từ nhiều
danh từ Phạn ngữ có nghĩa sai khác, nhưng tựu
trung đạo Phật chia trí tuệ ra làm hai loại là Căn bản trí và
Hậu đắc trí.
1) Căn bản trí:
là giác tánh minh diệu mà mỗi chúng sinh vốn đã có sẵn nhưng vì
bị vô minh phiền não che lấp nên chưa phát chiếu ra được. Có thể
ví căn bản trí như chất vàng còn nằm trong quặng lẫn lộn với
đất, cát, sỏi, đá. Trong Phật giáo Đại thừa, Bồ Tát Văn Thù là
biểu tượng cho Căn Bản Trí.
2) Hậu đắc trí:
là trí
tuệ có được nhờ công phu tu tập như trì giới, thiền định…
Phật nói tiếp:
-Nhà vua thuở
ấy nay là ta, còn vị Tiên nay là Đề-Bà Đạt-Đa đấy. Ta nay thành
Phật là nhờ vị thiện tri thức đó. Trong vô lượng kiếp về sau,
Đề-bà Đạt-đa sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương, nước của Phật là
Thiên Đạo. Phật Thiên Vương trụ ở đời 20 trung kiếp, hằng hà
chúng sanh nhờ pháp nhiệm mầu của Phật mà được quả A-la-hán, quả
Bích-chi-Phật và phát tâm Vô Thượng Bồ Đề được Vô-sanh pháp nhẫn
đến bậc bất-thối-chuyển.
Sau khi Phật Thiên
Vương nhập Niết Bàn, chánh pháp trụ ở đời 20 trung kiếp. Nhờ
cúng dường tháp bảy báu đựng toàn thân Xá lợi của Phật Thiên
Vương mà chúng sanh được quả A-la-hán, Bích-chi Phật và phát tâm
Vô thượng Bồ đề.
Bây giờ đức Phật mới
bật mí cho đại chúng biết rằng vị tiên nhân trong đời quá khứ đó
không ai khác hơn là Đề Bà Đạt Đa và vị quốc vương cầu đạo đó
chính là đức Phật. Thế thì trong đời quá khứ, Đề Bà là bậc thiện
tri thức và cũng là bậc thầy của đức Phật. Nhờ thiện tri thức Đề
Bà mà vị quốc vương đó có cơ hội thực hành rốt ráo lục độ ba la
mật, tu hành viên mãn từ, bi, hỷ, xả, có đầy đủ công đức và phát
triển trí tuệ mà thành Phật. Tiếng Phạn chữ Đề Bà dịch là
“Thiện” tức là bậc thiện tri thức. Tuy Đề Bà trong đời này có
phạm tội ngũ nghịch, nhưng tinh phần Phật giáo là nhân quả vì
thế những nhân thiện Đề Bà đã gieo trong những đời quá khứ có
thể giúp cho ông cải tà quy chánh, quay trở về sống đúng với
chánh pháp thì ông cũng như tất cả chúng sinh trước sau sẽ thành
Phật. Ở đây đức Phật Thích Ca thọ ký cho ông trong vô lượng kiếp
về sau sẽ thành Phật có nghĩa là sẽ có biết bao kiếp về sau,
chính ông sẽ phải trả cho hết tất cả những nghiệp bất thiện mà
ông đã gây ra trong đời này trước khi thành Phật. Luật nhân quả
rất công bằng hợp lý vì mình ăn mặn thì chính mình phải uống
nước chớ không có phép mầu gì ở đây cả. Vì thế đừng nghĩ rằng
những tội ngũ nghịch mà ông tác tạo tự nhiên biến mất mà ung
dung thành Phật được. Lý do mà Phật thọ ký cho ông cũng như cho
tất cả chúng sinh là vì trong mỗi chúng ta đều có sẵn Tri Kiến
Phật cho nên nếu biết vun bồi trí tuệ, kiến tạo phước đức công
đức thì sẽ thành Phật chớ không thể nghiễm nhiên thành Phật. Nói
cách khác thọ ký chẳng qua là lời khuyến khích để chúng sinh tin
tưởng vào mình, vào khả năng giải thoát giác ngộ của mình để cất
bước lên đường chớ thật ra Phật không cho ai bất cứ cái gì ngay
cả Tri Kiến Phật.
Khi tu chứng thì Đề Bà
sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai và cõi Phật là Thiên
Đạo. Thọ mạng của Phật Thiên Vương và cõi Phật Thiên Đạo cũng
giống như tất cả các cõi Phật khác của các Tôn giả ở những phẩm
trước. Vì Phật Thích Ca nói Phật là Như Lai nên đừng hiểu rằng
có ông Phật nào sống trên mấy chục triệu năm hoặc cõi ấy làm
toàn bằng vàng bạc hay kim cương chẳng những phản khoa học mà
còn lún sâu vào mê tín, tăng trưởng lòng tham đắm si mê. Như Lai
là Pháp thân, là bản thể chân như mà trong thế giới bản thể
không có khái niệm của thời gian và không gian nên không có vấn
đề tuổi thọ hay hình sắc. Vì đã là chân không nên nói sao cũng
được, nói gì cũng trúng mà nói gì cũng sai, chỉ là khái niệm chứ
không phải là thực thể.
Đức Phật bảo các
Tỳ-kheo:
-Trong vị lai
thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe phẩm Đề-bà Đạt-đa mà sanh
lòng trong sáng, kính tin không nghi ngờ thì những thiện nam tử,
thiện nữ nhân ấy không đoạ vào ba đường ác, được sanh nơi
các nước Phật và chỗ người đó sanh thường được nghe Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa. Nếu sanh vào cõi nhân thiên thì hưởng sự vui
sướng tột cùng. Nếu sanh ở trước mặt Phật thì từ hoa sen
hoá sanh.
Tại sao nghe phẩm Đề
Bà mà kính tin thì người đó sẽ không bị đọa vào ba đường ác và
được hưởng phước lạc?
Đề Bà là hạng Nhất
Xiễn Đề tức là người xấu xa nhất dựa theo tinh thần Phật giáo.
Thế mà vẫn được Phật thọ ký huống hồ chúng ta những người bình
thường thì chắc chắn chúng ta sẽ thành Phật.
“Tin”
mà kinh nói ở đây không có nghĩa là người đọc phải lễ bái phẩm
kinh này. Mà tin vào sự thọ ký của Phật cho Đề Bà sẽ thành Phật
tức là tự tin rằng trong mỗi chúng ta cũng đã có sẵn Tri Kiến
Phật. Mà một khi biết mình đã có Tri Kiến Phật tức là chất Phật, thì mình sẽ không còn
dấn thân làm những việc tội lỗi xấu xa cho nên kết quả là không
bao giờ sợ bị đọa vào tam ác đạo được. Cốt tủy của kinh Pháp Hoa
là muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều có Tri Kiến Phật vì thế Tri
Kiến Phật là Phật nhân giúp con người làm căn bản tu hành. Nếu
biết tu thập thiện thì sẽ sanh lên cõi trời. Còn nếu xa hơn nữa
có thể hóa giải hết Kiến Hoặc và Tư Hoặc thì chứng đắc A la hán
quả. Sau cùng nếu biết hóa giải hết Vô Minh Hoặc và Trần Sa Hoặc
thì tiến thẳng về Phật quả.
Chẳng những thế, người
tin vào phẩm này còn có thể sanh vào cõi Phật. Vậy cõi Phật đó ở
đâu? Nên nhớ rằng tất cả những phiền não vô minh như tham, sân,
si, mạn, nghi, phẫn, hận, phú, não…những thứ như vui mừng,
thương ghét, tốt xấu, thân sơ…không phải là những thứ của mình,
thuộc về mình, nhưng vì bị vô minh che lấp nên mình mới chấp nó
là của mình, thuộc về mình nên khổ lụy cả đời. Bây giờ tự tin
rằng mình có Tri Kiến Phật, có chất Phật thì chính mình
bây giờ quay trở lại sống với Tri Kiến Phật, với tâm thanh tịnh
hằng sáng của mình thì mình sống ở đâu tức thì nơi đó là
cõi Phật thanh tịnh chớ còn tìm cõi Phật đâu nữa. Bằng chứng là
ngày xưa đức Phật cũng sống trong thế giới Ta Bà này mà đối với
Ngài thì đây là cõi Phật thanh tịnh đấy chứ, trong khi tâm chúng
sinh chất đầy vô minh, phiền não, tranh chấp thì nhìn đâu cũng
thấy phiền não, bất toại ý. Vậy cõi Phật là cõi của người tỉnh
thức, chánh niệm, không hề bị vô minh tác động hoành hành, không
hề bị dục vọng sai sử, bị ái dục lôi cuốn và lúc nào cũng làm
chủ tâm mình nên lúc nào cũng sống với tâm thanh tịnh đó.
Lúc bấy giờ Bồ-tát
Trí-Tích thị giả của Phật Đa Bảo bạch xin phép Phật Đa Bảo trở
về nước. Đức Phật Thích Ca mới bảo Bồ-tát Trí-tích: Thiện nam
tử! hãy chờ giây lát ở đây có Bồ-tát Văn Thù và ông cùng Văn Thù
có thể cùng nhau ra mắt mà luận nói pháp mầu, xong rồi sẽ về.
Phật Đa Bảo là Pháp
thân, là Bổn Phật là Chân Không thì làm gì có thị giả, nhưng ở
đây kinh nói có thị giả tên là Trí Tích. Một lần nữa, nhắc lại
đây là lối diễn xuất dựa theo thể loại Vị Tằng Hữu để diễn tả
một triết lý nhiệm mầu bên trong chớ không phải là cảnh thật.
Tích là gom chứa lại và Trí là trí tuệ. Vì thế Trí Tích là tích
lủy, gom chứa tất cả trí tuệ lại. Thế thì cái trí tuệ này chính
là Hậu Đắc Trí tức là cái trí tuệ đạt được nhờ tu chứng sau này.
Kinh Pháp Hoa còn có một danh từ khác để chỉ cho Hậu Đắc Trí là
Hữu Sư Trí nghĩa là trí tuệ có được là nhờ thầy dạy. Do đó câu
“thị giả Trí Tích bạch Phật Đa Bảo trở về nước” có nghĩa là nhắc
nhở chúng sinh hướng về Căn Bản Trí tức là trí tuệ vốn đã có sẵn
trong mỗi chúng sinh mà Đại Trí Văn Thù là đại biểu cho căn bản
trí này. Do đó tu hành dựa theo tinh thần Phật giáo Đại thừa là
trở về với Căn Bản Trí tức là Phật tánh vốn đã có sẵn trong ta
chớ không có thành đạt cái gì cả nên không có chứng đắc là ở chỗ
này. Câu “hai ông Trí Tích và Văn Thù gặp nhau mà nói pháp màu…”
rất hay và dễ bị hiểu lầm. Hai ông Bồ tát chỉ là biểu tượng chớ
đâu phải là người thật thì làm sao gặp nhau? Nếu gặp nhau thì
gặp ở chỗ nào? Bồ tát Trí Tích là biểu tượng cho Hữu Sư Trí tức
là trí tuệ do huân tu mà có. Còn Bồ tát Văn Thù là tượng trưng
cho Căn Bản Trí nghĩa là trí tuệ vốn có sẵn trong mỗi chúng sinh
cũng như vàng nguyên chất còn trộn với sỏi đá. Do đó khi Hữu Sư
Trí gặp Căn Bản Trí nghĩa là Hữu Sư Trí bây giờ trở về với cái
trí tuệ hằng hữu trong sáng ban đầu thì lúc đó vàng trở thành
vàng ròng nguyên chất không còn sỏi đá lẩn lộn tức là thành
Phật. Vì thế câu nói “xong rồi sẽ về” ám chỉ hai thứ trí tuệ
trên hòa nhập với nhau thì người đó sẽ thành Phật tức là Thỉ
giác thể nhập với Bổn giác vậy.
Bồ Tát Trí Tích là đại
diện cho Hậu Đắc Trí tức là cái trí mới tu, mới học, mới bồi
dưỡng mà thành cái trí tuệ này mà thường gọi là Sai Biệt Trí.
Trong khi đó Bồ Tát Văn Thù là đại biểu cho Căn Bản Trí cũng gọi
là Vô Phân Biệt Trí. Do đó với Căn Bản Trí, ngài Văn Thù nhìn sự
vật hiện tượng bằng thật tướng của sự vật, bằng đệ nhất sát na
tức là cái thấy biết chưa có sự phân biệt mà Duy Thức gọi là
Hiện lượng. Còn Bồ Tát Trí Tích thì nhìn sự vật hiện tượng bằng
sự phân biệt tức là cái thấy biết bằng đệ nhị sát na mà Duy Thức
gọi là Tỷ lượng nên không thấy rõ bản chất thật của nó. Thí dụ
khi Bồ Tát Trí Tích nhìn một đóa hoa thì ngài cho đó là loại hoa
gì, màu sắc ra sao, đẹp xấu thế nào…nghĩa là cái nhìn của ngài
là cái nhìn dựa theo sự biến hoại của sự vật hiện tượng. Cái hoa
tự nó là hoa chớ đâu cần con người đặt cho nó tên này hay tên
khác. Một người có thể gọi là hoa này, nhưng người khác lại gọi
là hoa khác. Vậy tên nào là tên thật? Vì thế Hậu Đắc Trí là trí
còn phân biệt tức là còn chấp nơi ngã và những đối tượng ngoài
ngã nên cái trí tuệ này không chân thật, dễ bị sai lầm. Ngược
lại, Căn Bản Trí của Bồ Tát Văn Thù là thứ trí tuệ vốn có sẵn
trong mỗi chúng sinh. Thí dụ như nhìn đóa hoa ở trên thì bản
chất nó thế nào thì Bồ Tát Văn Thù thấy biết nó như thế đó,
không thêm không bớt, không đặt tên đặt tuổi chi cả. Chẳng những
thế Văn Thù còn nhìn sâu vào thật tướng của đóa hoa, tánh duyên
khởi của nó chớ không phải chỉ là sự hình thành hoại diệt của
hoa mà thôi. Đó là ngài nhìn trong đóa hoa có trùng trùng duyên
khởi như ánh sáng mặt trời, nước, gió, phân bón, hạt giống…cho
nên đối với ngài sự sinh chẳng phải là thật sinh và khi hoa tàn
thì cũng không phải là thật diệt. Do đó ngài Văn Thù nhìn đóa
hoa thì thấy tướng như vậy, tánh như vậy, thể chất như vậy, tác
dụng như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả báo như vậy chớ
không có cái gì là hoa cả. Vì vậy khi đặt cho đóa hoa đó một cái
tên thì thuộc về phân biệt trí chớ không còn là căn bản trí nữa
vì có phân biệt đối đãi giữa chủ thể và đối tượng. Thí dụ đặt
tên đóa hoa là hoa lài thì hoa lài phải khác với hoa cúc, hoa
sen, hoa hồng. Từ sự phân biệt này dẫn đến biết bao sự phân biệt
khác, nào là hoa này đẹp hơn hoa kia nên tôi thích hoa này hơn
hoa kia, nào là hoa này thơm hơn nên tôi thích hoa này hơn từ đó
trong tâm chất đầy phiền não, ưu bi. Do đó hằng ngày con người
sống bằng phân biệt trí nên không nhìn thấu triệt nguồn gốc của
vạn pháp nên sinh ra biết bao phiền não, đau sầu. Còn nếu biết
sống với căn bản trí thì nhìn thấu suốt thật tướng của vạn pháp,
không cộng ngã kiến vào sự vật hiện tượng nên cái thấy biết đó
không bao giờ lầm lẫn, rất chân thật nên tâm lúc nào cũng thanh
tịnh.
Lúc bấy giờ Bồ-tát Văn
Thù và các bồ tát tùy tùng ngồi trên hoa sen lớn từ nơi cung
rồng Ta-kiệt-la trong biển lớn vọt lên trụ trong hư không, đến
núi Linh-thứu từ hoa sen bước xuống làm lễ đức Phật Đa Bảo và
Phật Thích Ca. Kế đến hỏi thăm Bồ tát Trí-tích rồi quay qua một
bên.
Bây giờ Bồ Tát Văn Thù
và các Bồ Tát từ dưới biển Ta-kiệt-la vọt lên trụ trong hư
không. Kinh diễn tả cảnh giới quá nhiệm mầu, nhưng một lần nữa
đây là thể loại Vị Tằng Hữu chớ không phải thật. Trong thế gian
này không có chỗ nào là biển Ta-kiệt-la cả. Nếu không phải là
biển thật thì kinh nói ở đây là biển gì? Có phải biển ái sông mê
mà chúng sinh đang lặn hụp chăng? Hằng ngày con người bập bền
trong những đợt sóng tham đắm dục tình, trôi nổi bềnh bồng trong
biển ái si mê chớ chúng sinh đâu có sống trên đất liền, bình an
thanh thoát. Đây mới chính là biển ái mà Đại Trí Văn Thù vọt lên
và trụ trong hư không. Lối diễn xuất sống động tuyệt vời của
kinh là dựa theo thể Vị Tằng Hữu, là một trong 12 thể loại kinh
của Phật giáo Đại thừa. Đó là diễn tả những chuyện lạ lùng, chưa
từng có để chứa đựng một triết lý sâu thẳm tức là văn dĩ tải đạo
chớ đừng chấp có thật một cung rồng nguy nga lộng lẫy và Đại Trí
Văn Thù có thần thông nên vọt từ lòng biển bay lên hư không mà
sống trong ảo tưởng hoang đường, không đúng ý kinh.
Vậy ý kinh như thế
nào?
Phải chăng tất cả
chúng sinh hiện đang sống trong biển ái? nhưng nhờ Đại Trí Văn
Thù giáo hóa nên phát sinh trí tuệ mà vượt thoát khỏi ái hà. Khi
họ sống trong tỉnh thức, chánh niệm, tâm hằng thanh tịnh thì họ
đang vọt lên trong hư không. Khi tâm không còn dính mắc thì tâm
trụ nơi vô trụ tức là hư không chớ không phải dùng thần thông
khiến cho mọi người lơ lửng trên không. Do đó nếu chúng sinh học
theo Căn Bản Trí của Đại Trí Văn Thù thì con người cũng có thể
vọt lên khỏi biển ái và trụ nơi hư không nghĩa là tâm lúc ấy
không còn dính mắc trong tài, sắc, danh, lợi, ăn, uống, ngủ, mặc
nữa, tâm trụ nơi vô trụ cũng như Đại Trí Văn thù và chư Bồ Tát
khác. Ngày nào chúng sinh còn trụ tức là tâm còn dính mắc, trụ
nơi ngã chấp, còn thấy mình là ngã và đối tượng là người và vạn
pháp. Hễ mình còn nặng về tướng ngã của mình thì mình thấy người
khác ngoài mình, không phải mình thì lúc ấy những ý niệm cạnh
tranh, so sánh, đánh giá hơn thua về giàu nghèo, tốt xấu, địa
vị, danh vọng, tài sản, con cái khởi dậy liên miên không ngừng
nghĩ. Khi đã quý trọng bản ngã thì con người sẽ tham đắm thọ
mệnh, không muốn nó già đi hay chết vì thế khi thấy mình càng
ngày càng già đi thì làm sao họ an vui được. Do đó chủ yếu của
kinh Kim Cang là phá cho được bốn chấp tướng là: ngã, nhân,
chúng sinh và thọ giả. Phá được chấp ngã thì biết rằng mình là
không tức là không có chủ thể để so sánh. Mình là không thì dĩ
nhiên người cũng là không và chúng sinh cũng là không tức là đối
tượng chấm dứt, hết còn đối đãi phân biệt, tâm sẽ được an vui tự
tại.
Phật giáo Đại thừa chủ
trương rằng Sắc tức là Không và Không chính là Sắc cho nên cái
sinh ngày nay không phải là mới sinh mà thực ra con người đã có
mặt trên quả địa cầu này từ vô lượng kiếp rồi và cái sinh hiện
hữu ngày nay chỉ là cái sinh mới nhất đó thôi. Ví cũng như những
đợt sóng ngoài biển mà chúng ta thấy được không phải chỉ có ngày
hôm nay mà bất cứ lúc nào từ khi khai thiên lập địa trải qua
biết bao triệu triệu năm hễ có gió, có nước là có sóng. Khi
không có gió thì sóng tan, biển lặng, nhưng khi duyên hợp tức là
gió khởi thì sóng liền nhấp nhô trở lại, không mất cái gì cả. Vì
thế người học Phật không hề chấp vào tướng thọ giả vì chẳng có
ai thật mất hay thật sinh, chẳng qua khi duyên hợp thì gọi là
sinh và khi duyên tan rã thì gọi là chết, nhưng chết không phải
là mất hẳn vì khi duyên mới kết trở lại thì sẽ tái sinh. Nhận
thức được chân lý này thì tỏ ngộ được “Vô sanh pháp nhẫn” rồi
vậy nghĩa là thấy được bản thể của vạn pháp là không sanh không
diệt nghĩa là sanh không thật sanh nên lúc nó diệt thì cũng
không thật diệt. Người học Phật nếu tỏ ngộ chân lý này thì chắc
chắn sống không tham đắm và xem thường sự chết nên chắc chắn có
cuộc sống nhẹ nhàng thanh thoát, an vui tự tại ngay trong cái
cõi đời có tan có hợp này. Có phải một người chết là mất hẳn
không? Phật giáo chủ trương rằng người chết thật ra không mất
một cái gì hết. Hãy nhìn lại, có phải trong dáng dấp của con,
của cháu, của nội, của ngoại có hình bóng của ông bà trong đó
chứ. Nếu không thì làm sao có người nói đứa bé này giống cha,
giống mẹ, giống ông nội, bà ngoại…Tâm thân thất đại thì trả về
với những nguyên tố nguyên thủy của nó. Thí dụ đất, nước, gió,
lửa thì trở lại với đất, nước, gió, lửa chớ có mất cái gì. Còn
không, kiến và thức đại thì trở về với hư không. Khi duyên kết
đủ thì từ hư không kiến và thức đại duyên với đất, nước,
gió, lửa mà tạo thành hình hài mới, con người mới thế thôi.
Tóm lại, tuy chúng
sinh còn lặn hụp trong biển ái, nhưng nếu biết bồi dưỡng trí
tuệ, nhận chân được chân lý, quay về với Căn Bản Trí của mình
thì chính mình cũng có thể vượt thoát ra khỏi biển ái sông mê mà
trụ trên hư không giống như Bồ Tát Văn Thù vậy. Chẳng những trụ
trên hư không mà người tu Phật còn có thể đến núi Linh Thứu để
gặp Phật. Gặp Phật mà kinh nói ở đây không nhất thiết là phải
thấy cho được đức Phật Thích Ca mà lên núi gặp Phật là hướng về
nội tâm của mình để thấy được Phật tánh tức là Bổn Phật của
chính mình.
Bồ-tát Trí-tích hỏi bồ
tát Văn Thù:
-Ngài qua cung
rồng hoá độ được bao nhiêu chúng sanh?
Bồ-tát Văn Thù đáp:
-Vô Lượng. Trong giây
lát Ngài sẽ tự chứng biết.
Văn Thù nói chưa dứt
lời, vô số Bồ-tát ngồi hoa sen từ biển vọt lên, đến núi
Linh-thứu, trụ trong hư không. Tất cả đều do Bồ tát Văn Thù hoá
độ.
Bồ-tát Trí-tích thấy
vậy bèn nói một bài kệ tán thán:
Đức của Đại-trí thật
mạnh mẽ
Hoá độ được vô lượng
chúng sanh
Nay trong đại hội nầy
Tất cả nhận thấy rõ
Đại trí nói nghĩa “
Thật-tướng”
Mở bày pháp “
Nhất-thừa”
Rộng độ các chúng sanh
Khiến mau thành Chánh
giác.
Thật tướng mà Bồ Tát
Trí Tích nói ở đây là Vô tướng nghĩa là vạn pháp không hề có tự
ngã tức là Không tướng. Thí dụ chúng ta gọi chiếc xe là vì con
người đặt cho nó cái tên để phân biệt nó với những sự vật khác
chớ thật sự trong chiếc xe không có cái gì thật sự là xe cả. Bốn
cái bánh là chiếc xe ư? Cũng không đúng. Cái máy hay hộp số là
chiếc xe ư? Cũng không đúng. Cái xe chẳng qua là do duyên hợp từ
biết bao thành phần mà tạo thành chớ không có cái gì thật sự là
chiếc xe cả.
Sau đó ngài Văn Thù
xiễn dương giáo lý Phật thừa tức là nhất thừa Phật đạo, là con
đường duy nhất đưa người tu tiến thẳng về Phật quả tức là thành
Phật.
Bồ-tát Đại Trí Văn Thù
nói:
-Ở biển tôi thường
tuyên dạy Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Bồ-tát Trí-tích hỏi:
-Kinh nầy rất thâm
diệu. Vậy có chúng sanh nào siêng tu theo kinh nầy mà mau thành
Phật không?
Bồ tát Văn Thù đáp:
-Có con gái của Long
Vương mới lên tám tuổi mà đầy đủ trí-đức, trong khoảnh khắc phát
Bồ đề tâm là được bất thối chuyển, biện-tài vô-ngại, từ bi rộng
lớn, công đức đầy đủ, có khả năng đến quả Bồ Đề.
Đến đây, không những
người nam được Bồ Tát Văn Thù giáo hóa cho thành Phật mà hàng nữ
nhi như Long nữ cũng được độ thành Phật. Long nữ chẳng những
thuộc hàng nữ giới lại là loài rồng tức là loài thú mới có tám
tuổi nghĩa là Long nữ vùa là nữ, vừa là thú, vừa là trẻ em mà
nói thành Phật thì làm sao Bồ Tát Trí Tích tin được. Thế thì cái
trí tuệ của Trí Tích Bồ Tát là phân biệt trí dựa trên sự tướng
nên ông mới thấy có đàn ông đàn bà, có loài thú loài người, có
người lớn trẻ em nên cái thấy biết này không rốt ráo, dễ bị sai
lầm. Ngược lại Bồ Tát Văn Thù là căn bản trí tức là trí tuệ sâu
thẳm từ trong bản thể chân như cho nên ngài Văn Thù nhìn thấu
suốt thật tướng của sự vật hiện tượng. Vì thế người nào có thể
nhìn thấu thật tướng của vạn pháp thì người đó có được căn bản
trí tức là sống được với chơn tâm Phật tánh của chính mình rồi
nghĩa là Thỉ giác thể nhập với Bổn giác tức là thành Phật.
Lời nói của Đại Trí
Văn Thù có lẽ là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử con
người vì vào thời đức Phật còn tại thế xã hội Ấn Độ là một xã
hội quá kỳ thị về giai cấp cho nên vai trò của người nữ rất hạn
hẹp. Đức Phật đưa ra tinh thần bình đẳng cho con người bằng cách
thu nhận Tôn giả Ưu Ba Ly thuộc giai cấp hạ tiện vào Tăng đoàn
và đặc biệt cho phép nữ giới được gia nhập Tăng đoàn là một hiện
tượng có một không hai. Ngay cả thời bây giờ những quốc gia theo
Hồi giáo thì người nữ gần như không có vai trò gì trong xã hội
cả. Ở Á Châu vào thời phong kiến thì người nữ cũng chẳng sáng
sủa gì. Khi đức Phật chấp thuận cho Dì mẫu và 500 mệnh phụ phu
nhân được xuất gia thì Ngài chế ra “Bát Kỉnh Pháp”. Đó là:
1)
Dầu cho thọ đại giới 100
năm, một Tỳ kheo Ni đối với một Tỳ Kheo mới thọ giới một ngày
cũng phải đảnh lễ, chấp tay, xử sự đúng pháp.
2)
Tỳ kheo Ni không thể An cư
tại nơi không có Tỳ kheo Tăng.
3)
Nửa tháng một lần, Tỳ Kheo
Ni cần phải thỉnh chúng Tỳ kheo hỏi ngày đến giáo giới.
4)
Sau khi An-cư xong, Tỳ kheo
Ni cần phải làm lễ Tự-tứ trước hai bộ chúng về ba vấn đề thấy,
nghe và nghi.
5)
Tỳ kheo Ni phạm trọng tội,
nửa tháng phải hành pháp sám Ma-na-đọa.
6)
Sau khi học tập sáu
giới pháp trong hai năm, Tỳ Kheo Ni phải đến xin thọ Cụ túc giới
trước hai bộ chúng.
7)
Không vì duyên cớ gì, một Tỳ
kheo Ni có thể mắng nhiếc hoặc chỉ trích một Tỳ Kheo.
8)
Không có sự phê bình của Tỳ
Kheo Ni với Tỳ Kheo mà Tỳ Kheo có quyền phê bình Tỳ kheo Ni.
Ngày nay với tinh thần
nam nữ bình đẳng trong thế giới văn minh khoa học, có rất nhiều
luận giải cho rằng Bát Kỉnh Pháp không phải là do đức Phật chế
ra mà do người đời sau tạo tác vì có nhiều điều không hợp lý
trái với những gì Phật hứa
khả cho Dì mẫu. Thí dụ điều thứ sáu nói rằng người nữ phải thọ
giáo hai năm rồi mới được thọ giới Tỳ kheo ni, nhưng trên thực
tế Dì mẫu cùng 500 mệnh phụ phu nhân đâu có đợi đến hai năm mà
họ trở thành Tỳ kheo ni liền. Có trường hợp những Tỳ kheo thiếu
đạo hạnh mà dựa theo Bát Kỉnh Pháp thì tuy Tỳ kheo Ni đạo đức,
phẩm hạnh cũng phải cung kính họ. Xét cho cùng, người có phẩm
hạnh chẳng cần ai lễ bái cúng kính họ cả vì sự an lạc chính họ
đã có rồi. Nếu thật sự một vị Tỳ kheo đàng hoàng, đạo đức thì
xứng đáng nhận sự cung kính lễ bái, còn nếu vị đó không có phẩm
hạnh thì cho dù có người cung kinh lễ bái thì chính họ cũng
chẳng được cái gì, không xứng đáng, lừa lương tâm mình và lừa sự
tin tưởng của người. Thật ra Bát Kỉnh Pháp là một công cụ để
giúp hành giả phá chấp ngã của mình, bỏ cống cao ngã mạn thế
thôi.
Đi xa hơn nữa, có
người còn lý luận rằng cho dù có Bát Kỉnh Pháp thì cũng chẳng có
Tỳ kheo Ni nào chấp thủ tuân theo.
Bồ tát Trí-tích nói:
-Chính đức Phật Thích
Ca còn phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ chứa nhiều công đức
làm những việc khó làm mới thành được đạo Bồ-đề, làm sao tin
được chuyện Long Nữ trong chốc lát mà chứng thành Chánh
giác. Luận đàm chưa dứt bỗng nhiên Long nữ hiện ra lễ Phật rồi
đứng qua một bên nói bài kệ tán thán Pháp-thân, Báo-thân và
Ứng-thân Phật và cho biết là nàng do đã nghe được nghĩa “ thật
tướng” của nền giáo lý “ nhất thừa” mà được chóng thành Bồ-đề
đạo. Nhưng việc nầy chỉ có Phật mới chứng biết mà thôi.
Bấy giờ ông
Xá-lợi-phất nói với Long Nữ: Thân gái nhơ-uế có năm điều chướng
ngại: không được làm Phạm Thiên, Đế-Thích, Ma-Vương,
Chuyển-luân-thánh-vương và Phật thì làm sao cô thành Phật được?
Vả lại con đường Phật xa vời phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ
mới đi cùng mà cô nói tu không bao lâu là chứng quả Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác làm sao tin được?
Chẳng những Bồ Tát Trì
Tích không tin Long nữ sẽ thành Phật mà ngay cả Tôn giả Xá Lợi
Phất cũng không tin. Tuy đã được đức Phật thọ ký, nhưng Tôn giả
Xá Lợi Phất vẫn còn nhìn thế gian qua sự tướng nên thấy người nữ
có nhiều nghiệp chướng hơn người nam. Đối với ngài Xá Lợi Phật,
có 5 điều mà người nữ không thể thành tựu được là làm đấng Phạm
Thiên, làm trời Đế Thích, làm Ma Vương Ba Tuần, làm Chuyển Luân
Thánh Vương và dĩ nhiên không bao giờ thành Phật được. Hai ngài
Bồ Tát Trì Tích và Xá Lợi Phất đều có cùng quan niệm là con
đường viên thành Phật quả cần phải trải qua vô lượng kiếp chớ
không thể thành Phật nhanh chóng được. Tại sao? Bởi vì tuy cả
hai đều là những bậc đại trí tuệ, nhưng trí tuệ này là do huân
tập mà có tức là nó còn nằm trong vòng tương đối nên thấy có
nghiệp chướng nặng nhẹ, chấp có thân nam thân nữ, chấp có Phật
quả để thành thì đây là phân biệt trí. Ngược lại dựa theo Đại
Trí Văn Thù thì Long nữ đã trực nhận được Tri Kiến Phật của
chính mình mà trong thế giới của bản thể chân như không hề có
tướng cho dù là nam hay nữ, không hề có nghiệp nặng hay nhẹ,
không hề có quả vị để chứng đắc. Vì thế Long nữ nhận ra Tri Kiến
Phật của mình tức thì thành Phật mà không phải tu hành trải qua
hằng sa kiếp. Phật giáo Đại thừa chủ trương không có chứng đắc,
không có quả vị để chứng và không có trí tuệ để thành. Trong khi
đó hàng Thanh Văn thì cầu với chứng, nhưng tất cả quả vị chứng
đắc thật ra không ai ban cho và ngay cả Bồ Đề, Niết bàn cũng
không do Phật thưởng bởi vì phiền não tan, vô minh biến thì có
được an nhiên tự tại cũng như mây đen tan thì trời xanh hiện. Vì
thế mà Tâm Kinh có câu: “Dĩ vô sở đắc cố” là
vậy. Con người quên rằng trong họ có hòn ngọc Ma Ni rất quý báu
mà không biết sử dụng nên cả đời luôn
sống trong cảnh
thiếu thốn, nghèo túng. Thật vậy trong mọi chúng sinh, ai ai
cũng đều có Phật tánh, chơn tâm, Pháp thân thanh tịnh nhưng vì
bị vô minh che lấp nên không thấy mà cứ chạy đi tìm cầu Phật ở
bên ngoài. Nếu thức tỉnh phá được cái màn vô minh thì Phật tánh
hiện bày, chơn tâm biểu lộ cũng như thò tay vô túi lấy viên ngọc
ra thì làm gì còn nghèo khổ. Tam khổ, bát khổ chỉ là giáo lý
phương tiện, là cách nói chớ chẳng có gì là khổ cả một khi tâm
chúng sinh không còn chấp trước mê lầm. Không vui là tại mình,
khổ là do mình chớ đâu phải tại đời hay do ở Phật trời. Nếu
chúng sinh bỏ lối nhìn đời bằng đôi mắt thịt mà tập nhìn đời
bằng đôi mắt trí tuệ (Bát Nhã) thì dưới tuệ nhãn này con người
sẽ không còn quan tâm để ý đến “sự tướng” sinh diệt, không còn
quan trọng nhà to, xe tốt, áo lụa, quần là, tiền tài, danh vọng
ngay cả chùa to Phật lớn họ cũng không màn, tất cả chỉ là phương
tiện. Mà tinh yếu là quay về sống với “bản thể” thanh tịnh, cái
ánh sáng trí tuệ hằng sáng ở trong ta. Khi đã sống được với thể
tánh thanh tịnh của mình thì con người sẽ không còn chạy theo ảo
ảnh phù du của nhân thế. Đó là tại sao Đức Phật và những người
giác ngộ thì cung vàng điện ngọc họ cũng chẳng cần và tiền tài
danh vọng họ xem như bọt biển phù du.
Dựa theo giáo
lý Nhất thừa thì khi chúng sinh loại bỏ hết Kiến Hoặc, Tư Hoặc
và Vô Minh Hoặc thì họ sẽ trở về với Tri Kiến Phật vốn sẵn có
của mình chớ không có gì để chứng đắc. Cũng như mây tan thì trời
sáng, nhưng ánh sáng mặt trời thì lúc nào cũng sáng chớ đâu phải
đến lúc mây tan mới có. Tri Kiến Phật cũng vậy. Nó lúc nào cũng
có trong ta chớ đâu phải tu đạt đạo rồi mới có. Lý do con người
không biết mình có Tri Kiến Phật là vì bị phiền não vô minh che
lấp cũng như mây đen che lấp ánh sáng mặt trời. Do đó con người
sau khi tu hành trải qua hằng sa kiếp thì mới thấy được Tri Kiến
Phật của mình. Ở đây, Long nữ không cần tu hành dài lâu như thế,
mà chỉ cần nghe kinh Pháp Hoa, tin và trực nhận Tri Kiến Phật
của mình thì thành Phật.
Phẩm Quán Chúng Sanh
trong kinh Duy Ma Cật có đoạn đối thoại giữa Tôn giả Xá Lợi Phất
và Thiên nữ:
Ông Xá Lợi Phất
tán thán: Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiên nữ! Cô đắc gì? Cô
chứng được gì? Mà cô có được sức biện tài như thế?
-Tôi không đắc gì hết
cũng không chứng gì hết nên tôi mới có được biện tài như thế. Vì
sao? Bởi vì có chứng có đắc ở trong Phật pháp là người tăng
thượng mạn.
Thói thường thì con
người lấy bằng cấp, chứng đắc để định giá trị trong nhân quần xã
hội hay nhiều người nghĩ rằng phải có chứng đắc mới có thần
thông, trí tuệ, biện tài nhưng trong giáo lý Đại thừa thì khẳng
định rằng vì không có chứng đắc gì cả nên mới có được những thứ
như thần thông, trí tuệ và biện tài vô ngại. Tại sao? Bởi vì khi
chúng sinh đạt đến đỉnh cao của trí tuệ mà con người gọi là
chứng đắc thì thật ra chẳng có chứng đắc gì cả vì con người
chẳng qua là quay về với cái tự tánh thanh tịnh bản nhiên của
mình đã có vậy thôi tức là “bản lai diện mục”, trở về với Như
Lai Viên Giác Diệu Tâm vốn trong sáng mầu nhiệm của mình chớ
không phải nó có từ bên ngoài hay là do bất cứ một ai tặng cho
mà được. Vì quả vị Phật là “vô tại vô bất tại” nghĩa là nó ở đâu
cũng có mà ở đâu cũng chẳng có. Nếu con người biết dẹp tan vọng
thức mê lầm, phiền não vô minh thì Bồ-đề hiển hiện trong tâm của
chúng ta ngay. Do đó người tu hành không hề mong cầu bất cứ điều
gì ngay cả việc chứng đắc, vì còn mong cầu là tâm còn tham tức
là còn khổ và dễ bị sa ngã.
Cũng trong kinh Duy Ma
Cật, Tôn giả Xá Lợi Phất đã biết chẳng có tướng nam, tướng nữ
khả đắc thế thì tại sao trong pháp hội Pháp Hoa ngài lại hoài
nghi việc Long nữ thành Phật?
Ông Xá Lợi Phất hỏi:
-Tại sao Thiên nữ
không chuyển đổi nữ thân?
Thiên nữ nói:
-Từ mười hai năm, tôi
tìm cái tướng nữ thân không có. Tôi biết phải chuyển gì? Ví như
huyễn sư hóa làm người nữ huyễn. Nếu có người hỏi:”Vì sao không
chuyển nữ thân”. Câu hỏi đó có đúng lý không?
Ông Xá Lợi Phất đáp:
-Không đúng. Đã huyễn
thì không có tướng cố định. Biết chuyển cái gì.
Thiên nữ nói:
-Tất cả các pháp cũng
như vậy. Không có tướng cố định. Thế tại sao ngài hỏi tôi:”Vì
sao không chuyển đổi nữ thân?”
Liền đó, thiên nữ dùng
sức thần thông biến ông Xá Lợi Phất y như Thiên nữ. Thiên nữ hóa
mình y như ông Xá Lợi Phất và hỏi:”Vì sao ngài Xá Lợi Phất không
chuyển nữ thân?”
Trong dáng mạo Thiên
nữ, ông Xá Lợi Phất đáp:
-Tôi không biết chuyển
thế nào mà biến làm thân nữ như vầy.
Thiên nữ nói:
-Ngài Xá Lợi Phất mà
có thể chuyển ra thân nữ như thế thì tất cả người nữ cũng sẽ có
thể chuyển được. Ngài Xá Lợi Phất không phải nữ mà hiện thân nữ
thì tất cả người nữ không phải nam lại cũng có thể hiện thân
nam. Ngài Xá Lợi Phất dù hiện thân nữ mà không phải nữ. Thế cho
nên Phật nói:”Tất cả pháp phi nam phi nữ”.
Ngay bây giờ, Thiên nữ
thâu nhiếp thần lực, ông Xá Lợi Phất hoàn hình như cũ.
Thiên nữ hỏi:
-Hình mạo nữ thân của
ngài ở đâu?
-Hình mạo nữ thân của
tôi không ở đâu, không đâu chẳng ở.
-Tất cả các pháp cũng
lại như vậy. Không ở đâu, không đâu chẳng ở.
-Cái đạo lý: không ở
đâu, không đâu chẳng ở là chân lý Đức Phật đã nói ra.
Tại sao Thiên nữ lại
dùng con số mười hai năm thay vì mười năm hay mười lăm năm? Mười
hai năm ở đây là muốn ám chỉ cho thuyết Thập nhị nhân duyên. Đó
là Vô minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ,
Hữu, Sanh, Lão-Tử. Chúng sinh vị bị cái màn vô minh đen tối phủ
lên tâm trí bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp nên không thấu biết
chân lý mà sống trong lầm lẩn, lấy khổ làm vui. Họ nghĩ rằng
thân họ là chắc thật, tài sản vật chất chung quanh cũng chắc
thật nên cuộc sống mới trở thành sô bồ điên đảo. Cũng vì thế mà
nguyên nhân của phiền não là Ái, Thủ, Hữu mới tha hồ sinh khởi
mà phải chịu trầm luân trong sinh tử luân hồi.
Theo quan niệm cổ xưa
thì người nữ nặng nghiệp hơn người nam vì nặng chữ “Ái” vì thế
trước khi được giải thoát giác ngộ thì họ phải chuyển thân nữ
thành nam.Ông Xá Lợi Phất chấp hình tướng bên ngoài nên thấy có
sự phân biệt nam, nữ hay nói rộng rãi hơn là trọng nam khinh nữ.
Vì còn kẹt trong vòng phân biệt, chấp tướng nên ông chưa tự tại
biến hóa trong khi đó Thiên nữ tu theo Bồ-tát đạo nên tâm không
còn phân biệt chấp trước khiến cho có sức thần thông tự tại biến
hiện mọi thân hình. Nếu nhìn vạn pháp qua trí tuệ thì không có
tướng nữ, tướng nam vì chúng chỉ là do nhân duyên biến hiện. Mà
đã là do nhân duyên thì nam, hay nữ cũng đều là giả huyễn, là
sinh diệt, là vô thường vô ngã mà thôi.
Long-nữ liền lấy một
hạt châu hiến dâng cho đức Phật. Phật nhận.
Long-nữ hỏi Trí-tích:
-Tôi hiến châu,
Thế-tôn nhận lấy, việc ấy có mau chăng?
-Mau. Trí-tích
đáp!
-Ông hãy lấy sức thần
của ông xem đây, tôi thành Phật còn mau hơn việc đó.
Toàn thể chúng hội
liền thấy Long-nữ thoạt nhiên biến thành nam-tử, đủ hạnh Bồ-tát
qua cõi Vô-cấu ở phương Nam, ngồi toà sen báu thành bậc Chánh
đẳng Chánh giác.
Bồ tát Trí Tích và Xá
Lợi Phất làm
thinh.
Một lần nữa, kinh xác
định rằng trong mỗi chúng sinh đều có sẵn Tri Kiến Phật nên ai
ai cũng có khả năng thành Phật. Mà chúng sinh là ám chỉ cho mọi
loài, nam có nữ có ngay cả loài rồng cũng là chúng sinh. Vì thế
người nam thành Phật, người nữ cũng có thể thành Phật ngay cả
loài rồng cũng thành Phật được. Tôn giả Xá Lợi Phất dựa theo tri
kiến thông thường nên còn chấp, nhưng Long nữ một khi đã
ngộ, nhập Phật tri kiến
nghĩa là đã
tỏ ngộ
và thâm nhập
cái thấy biết của Phật thì nàng thành Phật nhanh như một cái
chớp mắt. Tại sao có thể thành Phật nhanh như thế? Bởi vì Phật
tánh đã có trong ta rồi chớ đâu phải tu hành vạn kiếp mới có cho
nên nếu chúng sinh trực nhận tức là thấy biết được cái Tri Kiến
Phật của mình thì tức thì chuyển từ mê thành giác. Mê biến thì
giác hiển bày tức là thành Phật. Ngược lại, nếu không trực nhận
Tri Kiến Phật của mình thì phải tu hành trải qua vô lượng kiếp
cho đến khi diệt trừ hết Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Vô Minh Hoặc và
Trần Sa Hoặc thì sẽ thành Phật.
Tóm lại, với tư tưởng tối thượng thừa của kinh
Pháp Hoa một lần nữa xác định rằng bất cứ ai cũng đều có Phật
tánh, Tri Kiến Phật giống y như Phật vì thế họ đều có khả năng
thành Phật. Những người bình thường, lương thiện tu hành thì
thành Phật là chuyện có thể tin được, nhưng ở đây kinh đưa ra
thí dụ là ngay cả ông Đề Bà Đạt Đa là người phạm tội ngũ nghịch
theo lẽ thông thường thì phải bị đọa vào địa ngục vô gián mà
cũng được Phật thọ ký về sau sẽ thành Phật. Lý do là hiện tại
tuy ông đang làm rất nhiều việc ác, nhưng trong ông Phật tánh
không hề bị sức mẻ nên vô lượng kiếp về sau khi ông thức tỉnh
thì mê biến giác tự hiển bày tức là thành Phật. Kinh không dừng
lại ở đây mà còn giới thiệu Long nữ là một con rồng mới tám
tuổi, mang thân nữ mà lại thành Phật trước mắt mọi người. Đây
quả thật là chuyện hy hữu hiếm có trên đời nếu chúng sinh nhìn
nó bằng một góc độ của phàm nhân. Ngược lại nếu nhìn theo lăng
kính Pháp Hoa thì bất cứ ai cũng đều có sẵn Tri Kiến Phật vì thế
nếu họ biết trực nhận cái tri kiến Phật ấy thì tức thì thành
Phật mà không cần tu hành trải qua vô lượng kiếp. Người trực
nhận Tri Kiến Phật của mình là người sống với tánh giác hằng
sáng của mình nghĩa là tâm mình là tâm Phật và từ đó những ý
niệm đen tối hắc ám như ý niệm tham lam vô độ, giận dữ hung hãn
và si mê ám chướng không còn. Nên nhớ không đợi đến lúc làm thân
súc sanh hay bị đọa vào địa ngục mới biết khổ mà ngay bây giờ
trong cái thế giới có sinh có diệt này nếu chúng sinh không biết
thức tỉnh, không sống trong chánh niệm thì con người hằng ngày
vẫn bị đọa vào súc sanh hay địa ngục như thường. Thật vậy, nếu
chúng sinh sống bê tha, trụy lạc, trái với luân thường đạo lý,
bất chấp công lý, bất chấp phải trái thì chính họ đang sống
trong si mê vô liêm sĩ, vô minh hắc ám, mất hết nhân cách thì
lúc đó họ đang đọa vào hạng súc sanh rồi đó. Nếu có người sống
với lòng tham lam vô độ, chỉ biết lợi mình mà hại cho nhân quần
xã hội, tạo hạnh phúc trên sự đau khổ và nước mắt của kẻ khác
thì họ đang sống với loại ngạ quỷ đó. Còn có biết bao người sống
trong lầm than, khổ sở, đau khổ không có lối thoát, nỗi khổ này
chưa xong thì nỗi khổ khác lại đến. Nếu họ không sống trong địa
ngục trần gian thì là gì? Do đó tinh thần Pháp Hoa giúp người tu
thêm nghị lực để chuyển mê thành ngộ và hóa giải hết những tư
tưởng bất thiện bởi vì “tội tòng tâm khởi tòng tâm diệt” vì thế
khi tâm đã trong sáng thì những cảnh giới súc sanh, ngạ quỷ ngay
cả địa ngục trong tâm biến mất. Càng hóa giải thì tâm càng thanh
tịnh và ánh sáng chân lý sẽ từ từ hiển lộ trong ta. Do đó một
khi trực nhận Tri Kiến Phật của mình thì mình sẽ không phiêu lưu
mạo hiểm tạo ra những nhân bất thiện cho nên cuộc sống sẽ chuyển
sang thanh tịnh, nhẹ nhàng và tự tại.
∆ TOP |
NEXT
|