Phẩm
PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC
Công đức là tiếng ghép của công phu và đức
hạnh. Đây là hai đức tính căn bản cho người hành trì để khai tâm
mở tánh mà thấy được chân lý. Công phu và đức hạnh đưa hành giả
thẳng về thế giới vô lậu, thanh tịnh hóa thân tâm và đây là
những chất liệu không thể thiếu cho những ai đi trên con đường
giải thoát giác ngộ.
Pháp Hoa là loại kinh tối thượng thừa của
Phật giáo Đại thừa tức là Đại thừa viên giáo thế thì tại sao lại
còn phân biệt cho dù đó là công đức?
Vậy phân biệt công đức là công đức gì?
Danh từ phân biệt nghĩa là sự so sánh giữa
cao và thấp, nhiều hay ít, tốt hay xấu…
Vậy ở đây kinh muốn so sánh cái gì? Trong phẩm Như Lai Thọ Lượng
nếu chúng sinh nhận thức sâu sắc thì có rất nhiều công đức, nhận
thức vừa vừa thì công đức bậc trung bình
còn nhận thức cạn thì tuy cũng có công đức, nhưng rất nhỏ. Tại
sao? Bởi vì khi hiểu Phật qua Pháp thân, Báo thân và Ứng thân
thì lúc đó người đệ tử Phật sẽ biết rằng Pháp thân Phật tức là
Như Lai thì lúc nào cũng thường trụ trong thế gian này nghĩa là
ở đâu cũng có Phật và bất cứ lúc nào cũng có Phật. Vì thế Phật
thường trụ về mặt thời gian chính là Phật Đa Bảo và Phật thường
trụ về mặt không gian là hằng hà sa số phân thân của Phật Thích
Ca. Do đó, Phật thường trụ trong thế gian mà đặc biệt là Phật
thường trụ trong tâm của tất cả chúng sinh.
Nhận thức rằng mình có Tri Kiến Phật tức là
mình là Phật cho nên con người có thể chuyển hóa hết những vô
minh phiền não của mình để trở về với thanh tịnh tâm tức là
thành Phật. Vì thế kinh dùng chữ “phân biệt” chỉ là phương tiện
để khuyến khích người tu nỗ lực thế thôi chớ công đức thuộc về
thế giới vô lậu thì làm gì có thể so sánh phân biệt được.
Dựa theo đệ nhất nghĩa tất đàn thì hành giả
làm tất cả mọi việc mà không bao giờ thấy mình là người làm công
đức lành nghĩa là tuy có độ vô lượng chúng sinh, nhưng không
được thấy mình là người độ và chúng sinh là những người được độ.
Thế thì nếu đứng về mặt bản thể thì không có công đức gì cả. Tu
hành mà còn thấy có công đức hay còn mong mỏi có công đức thì
cũng không đúng vì đó là biểu tượng của lòng tham. Nhưng ở đây,
đứng về mặt hiện tượng thì người nhận ra được Tri Kiến Phật nơi
mình có công đức rất lớn không thể nghĩ bàn. Cái công đức này
chắc chắn lớn hơn người tu theo các hạnh khác như bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định…,
vì các pháp tu đó thuộc về pháp hữu vi có sinh có diệt nên có
giới hạn. Trong khi đó Tri Kiến Phật là pháp vô vi, bất sinh bất
diệt, không hình không tướng, vượt ra ngoài phạm trù đối đãi của
không gian và thời gian nên đây mới là công đức vô lượng không
thể nghĩ bàn.
Khi đó, Thế Tôn bảo Bồ-tát Di Lặc:
-Này A-dật-đa! Lúc ta nói về thọ mạng
lâu dài của Như Lai, thì có:
v
Sáu trăm tám muôn ức
na-do-tha Hằng sa chúng sanh được “Vô sanh pháp nhẫn”.
Thế nào là ngộ vô sanh pháp nhẫn?
Khi tư duy quán chiếu để nhìn vạn pháp vô
sanh thì cũng có nghĩa là nhìn vạn pháp vô diệt. Thí dụ khi nhìn
một nụ hoa thì làm sao biết được tánh vô sanh của nó? Khi nhìn
đóa hoa mới nở thì chắc chắn là nụ hoa sanh và vài tuần sau, hoa
tàn thì nói rằng nụ hoa diệt. Nhưng đây chỉ là cái nhìn thiển
cận của phàm nhân, còn cái nhìn của Bồ-tát tu hành chứng đắc,
ngộ được vô sanh là ngay trong lúc nụ hoa mới nở thì cái sinh đã
có diệt trong đó rồi. Ngược lại trong lúc nó tàn úa thì các vị
Bồ-tát lại nhìn cái diệt là bắt nguồn cho cái sinh khác. Đó là
hiện tượng quy về bản thể và bản thể duyên khởi thành ra hiện
tượng, thành ra có cái gì là thật sinh
hay cái gì là thật diệt đâu. Nói cách khác sinh để rồi diệt,
diệt rồi lại sinh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận nên sinh
diệt, sống chết là chuyện thường, chẳng có gì quan trọng nên
không còn lo sợ, khổ đau. Chúng sinh khi thấy mình già yếu, bệnh
tật thì đau khổ buồn phiền. Ngược lại, đối với Bồ-tát thì sống
chết là chuyện bình thường, tử sanh là trò dâu biển nằm trong
chu kỳ bất biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến thế thôi. Vì
vậy với tuệ nhãn của Bồ-tát hay Phật nhãn của chư Phật thì nhìn
vạn pháp sanh mà không thật sanh và diệt nhưng không phải là mất
hẳn nghĩa là sinh để rồi diệt và diệt rồi để lại sinh, sinh sinh
diệt diệt vô cùng vô tận. Đây là chứng ngộ chân lý vô sanh pháp
nhẫn vậy.
v
Một số đại Bồ-tát ngàn lần
gấp đôi được môn “ văn trì đà-la-ni”.
Đà la ni là năng lực của trí tuệ gồm thâu và
giữ gìn vô lượng Phật pháp không để cho quên sót. Đà la ni còn
có năng lực giữ gìn các pháp lành và ngăn chận các pháp ác.
Dựa theo Luận Đại Trí Độ của Long Thọ
thì Đà la ni có bốn loại:
v
1)
Văn trì Đà la ni: Người
đắc Đà la ni thì nghe các pháp không thể quên được.
v
2)
Phân biệt tri Đà la ni: Có năng
lực phân biệt tất cả tà, chánh, tốt, xấu…
v
3)
Nhập âm thanh Đà la ni: Nghe tất
cả âm thanh ngôn ngữ đều hoan hỉ, không sân hận.
v
4)
Tự nhập môn Đà la ni: Nghe Đà la
ni liểu thấu đạt thật tướng của các pháp.
Bây giờ dựa theo Luận Du Già Sư Địa
của Vô Trước thì Đà la ni cũng chia làm bốn loại:
v
1)
Pháp Đà la ni: Ghi nhớ câu kinh
không quên.
v
2)
Nghĩa Đà la ni: Lý giải nghĩa
kinh không quên.
v
3)
Chú Đà la ni: Nhờ sức thiền định
mà có khả năng phát khởi chú thuật để tiêu trừ tai ách cho chúng
sinh.
v
4)
Nhẫn Đà la ni: Thông đạt thật
tướng các pháp là lìa văn tự ngôn ngữ, an trụ nơi pháp tánh mà
không bao giờ quên.
§
Một số đại Bồ-tát
đông như một thế giới vi trần được “nhạo thuyết vô ngại biện
tài”.
Đại Nhạo Thuyết là vị Bồ Tát thành tựu tứ vô
ngại biện tài:
1.
Pháp vô ngại: Khi đã thành tựu trí tuệ thì nhìn vạn pháp
thấy cái gì cũng đúng với chân lý nên khi thuyết pháp biến tất
cả các pháp trở thành Phật pháp. Thí dụ như khi thấy lá rụng,
tuyết rơi thì nghĩ ngay đến sự tạm bợ, vô thường.
2.
Nghĩa vô ngại: là biết đúng nên nói đúng, nói chánh ngữ,
đúng nghĩa, không sai chân lý.
3.
Từ vô ngại: là lời nói trôi chảy, không ngăn ngại.
4.
Lạc thuyết vô ngại: là càng nói
càng thêm phấn khởi, dồi dào phong phú chớ không bao giờ bị bế
tắc.
Đứng về phương diện ý thức, tư tưởng thì tứ
vô ngại được gọi là tứ vô ngại trí tức là do trí tuệ mà phát
sinh ra bốn thứ vô ngại. Còn dựa trên ngôn từ diễn đạt mà nói
thì gọi là tứ vô ngại biện tức là tứ vô ngại biện tài. Sau cùng
khi chúng sinh nhìn kinh điển mà có thể nhận thức, thấy biết
ngay thì gọi là tứ vô ngại giải, nghĩa là đọc kinh thì biết ngay
ý nghĩa mà khỏi cần nghiên cứu.
§
Một số đại Bồ-tát đông như
một thế giới vi trần được trăm ngàn muôn ức vô lượng môn “triền
đà-la-ni”.
§
Một số đại Bồ-tát đông như
vi trần của tam thiên đại thiên thế giới chuyển được “pháp luân
bất thối”.
Có số Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của ba ngàn
đại thiên thế giới chuyển được bánh xe pháp -
bất thối nghĩa là tinh tấn hướng về trước, không bao giờ thoái
bước.
§
Một số đại Bồ-tát đông như
vi trần của nhị thiên quốc độ chuyển được “pháp luân thanh
tịnh”.
§
Một số đại Bồ-tát đông như
vi trần của tiểu thiên quốc độ, trong 8 đời tái sanh, sẽ được
“Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” .
§
Một số đại Bồ-tát nhiều
như vi trần của bốn tứ thiên hạ, trong bốn đời tái sanh,
sẽ được “Chánh Đẳng Chánh Giác” .
§
Một số đại Bồ-tát nhiều
như vi trần của ba tứ thiên hạ, trong ba đời tái sanh, sẽ được
“Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
§
Một số đại Bồ-tát nhiều
như vi trần của hai tứ thiên hạ, trong hai đời tái sanh, sẽ được
“Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
§
Một số đại Bồ-tát nhiều
như vi trần của một tứ thiên hạ, trong một đời tái sanh, sẽ được
“Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
§
Một số chúng sanh nhiều
như vi trần của tam thế giới, đều phát tâm “Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác”.
Người tu học Phật pháp nhất định phải phát Bồ
Đề tâm. Đó là “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”. Đến đây
đức Phật nhắc lại kết quả sau khi Phật nói về thọ lượng của Như
Lai. Các hàng Bồ Tát Thánh chúng nhiều hằng sa số không sao kể
xiết đều phát tâm bất thối, hoặc còn một đời, hai đời…thì sẽ
chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đức Phật nói xong, một trận mưa hoa báu
từ hư không rơi xuống trên vô lượng trăm ngàn muôn ức Phật ngồi
trên toà sư tử, dưới cội cây báu, trên đức Phật Thích Ca và đức
Phật Đa Bảo đang ngồi trong tháp bảy báu, và trên tất cả Bồ-tát
và bốn bộ chúng. Lại có trận mưa hương bột chiên đàn, hương trầm
thủy, và trống trời tự vang. Lại có trận mưa thiên y và trên
không thòng xuống các thứ chuỗi ngọc, các lò hương báu đốt hương
vô giá để cúng dường đại chúng.
Trên mỗi đức Phật có các Bồ tát tay cầm
phan lọng, trước sau lên đến trời Phạm-thiên, dùng âm thanh vi
diệu, ca vô lượng bài kệ tán thán chư Phật.
Đức Phật vừa mới nói xong thọ lượng của Như
Lai thì mưa hoa từ trời rơi xuống cúng dường vô lượng trăm nghìn
muôn ức đức Phật ngồi ở tòa sư tử dưới cội cây báu. Bấy giớ đức
Phật Thích Ca và Phật Đa Bảo cùng ngồi trong tháp báu có vô
lượng Bồ Tát và đại chúng vây quanh. Các Bồ Tát cầm phan lọng,
dùng âm thanh vi diệu ca ngâm vô lượng bài kệ tán thán chư Phật.
Thế thì Như Lai thường trụ trong thời gian vô tận và không gian
vô cùng cho nên đại chúng càng tin vào Như Lai thì càng thêm
công đức.
Khi ấy Bồ-tát Di Lặc đứng dậy lễ Phật rồi
nói một bài kệ nhắc lại và xưng tụng những lời Phật vừa dạy.
Bồ-tát Di Lặc nói kệ xong, Phật nói:
-Này A-dật-đa ! Chúng sanh nào nghe
Phật thọ mạng lâu dài như thế mà chỉ sanh được một niềm tin
tưởng, thì đặng công đức không thể hạn lượng. Công đức này
lớn lao cho đến nỗi đem công đức tu 5 Ba-la-mật đầu (Bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định) trong 80 muôn ức
na-do-tha kiếp ra so sánh thì trong muôn ức ngàn phần công đức
tu Ba-la-mật không kịp một. Lại nữa ai được công đức tin tưởng
như trên thì không bao giờ thối bước trên đường dẫn đến Chánh
Giác.
Đức Phật lại xác định rất rõ ràng rằng nếu có
chúng sinh nào nghe thọ mạng của Phật dài lâu như thế mà có lòng
tin thì công đức quá lớn không thể lường được. Tại sao? Bởi vì
nếu chúng sinh tin rằng trong ta có sẵn Tri Kiến Phật thì người
đó sẽ thành Phật vì Tri Kiến Phật thuộc về vô lậu nên công đức
không thể đo lường được. Ngược lại tuy chúng sinh có tu theo
hạnh Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định trong 80
ức na-do-tha kiếp đi chăng nữa thì công đức đức này vẫn không
bằng một phần công đức của người nhận ra Tri Kiến Phật của mình.
Vì tu theo năm hạnh ở trên thuộc về pháp hữu vi, có tướng, có
sinh có diệt nên quả báo có giới hạn. Trong khi đó Tri Kiến Phật
thì không hình không tướng, thuộc về pháp vô vi bất sinh bất
diệt, không giới hạn bởi thởi gian và không gian nên quả báo vô
lượng không có pháp nào sánh kịp. Thật vậy, người lãnh hội được
Pháp Hoa, sống với Tri Kiến Phật của mình thì tất cả mọi sinh
hoạt hằng ngày đều sáng suốt, tỏ tường và trí tuệ quang minh.
Còn người tu theo từng pháp môn của lục độ thì phải trải qua
từng giai đoạn để khai tâm mở tánh, tuy tốn rất nhiều công mà
kết quả không được bao nhiêu. Đó là hai phương pháp khác nhau
giữa Đốn và Tiệm tức là nhanh và chậm.
Sau khi nói một bài kệ lập lại ý trên,
đức Phật nói tiếp:
-Này A-dật-đa! Người nào nghe nói về
thọ mạng lâu dài của Phật mà hiểu được cái ý thú trong lời nói
đó, thì người ấy được công đức vô lượng, lại có thể phát khởi
trí tuệ vô thượng của Như Lai. Huống là người hiểu rộng nghe
nhiều về kinh Pháp Hoa, hoặc bảo người nghe hoặc tự thọ trì,
hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, hoặc dùng mọi thứ hương
hoa … cúng dường kinh. Người ấy đặng công đức vô biên có thể
sanh “nhất thiết chủng trí”.
Phật lại dạy rằng người nào nghe thọ mạng của
Phật dài lâu như thế mà hiểu thấu suốt thì người đó đã có công
đức quá lớn rồi, nhưng công đức càng lớn hơn nếu người đó chẳng
những hiểu thấu mà còn đem sao chép, thọ trì, truyền tụng kinh
Pháp Hoa thì người ấy nhất định sẽ thành Phật tức là có “Nhất
thiết chủng trí”. Bởi vì thọ, trì, sao chép, cúng dường ở đây là
ám chỉ sự tin nhận mình có Tri Kiến Phật. Từ đó luôn khéo léo
giữ gìn và phát triển cái trí tuệ Phật ngày càng thêm tròn đầy
và trong sáng, không cho vô minh phiền não che phủ lu mờ thì
chắc chắn người ấy sẽ thành Phật.
Nhất Thiết Chủng Trí:
Hàng Thanh văn thì chấp Pháp có và các vị Bồ-tát thì vẫn còn
chấp Không. Nếu bây giờ bỏ được chấp Pháp có và chấp Không tức
là không còn chấp có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có
quả vị Bồ-đề để thành và không còn chấp thế gian vũ trụ là Không
thì có được trí tuệ viên mãn, dung thông tự tại mà nhà Phật gọi
là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Chủng Trí thì thấy vạn pháp
là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không nhưng không phải là
không của cái trống không. Vì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên
vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã chia ly thì vạn pháp
diệt. Thế thì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên sanh sanh diệt
diệt, diệt diệt sanh sanh mà người được Nhất Thiết Chủng Trí thì
luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng
vạn pháp nên không cần phải tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng
không cần phủ nhận tất cả như các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn
pháp nầy có mà không phải có thật. Mặc dầu không phải có thật mà
hiện giờ nó vẫn có vì thế nên người có Nhất Thiết Chủng Trí làm
bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù
chúng sinh là không có thật. Đây chính con đường trung đạo dung
thông giữa cái Có và cái Không và chỉ có Phật mới đạt được cái
trí tuệ nầy.
-Này A-dật-đa ! Còn thiện nam tử,
thiện nữ nhân nào nghe ta nói mà sanh lòng tin hiểu chắc về thọ
mạng lâu dài của Phật, thì người ấy ắt thấy Phật thường trụ tại
Kỳ-xà-quật nói Pháp cho các Đại Bồ-tát và Thanh Văn vây quanh
nghe. Chẳng những thế mà còn thấy đất cõi Ta-bà bằng lưu ly, mặt
liền bằng thẳng, tám nẻo rào bằng dây vàng ròng, bảy cây
báu và lâu đài cũng đều bằng bảy báu họp thành, trong có Bồ-tát
ở. Ai mà quán tưởng được như thế, thì nên biết đó là biểu hiện
của một lòng tin tưởng
sâu sắc.
Đến đoạn này, Phật một lần nữa lại xác định
rằng những người mà tin chắc chắn lời Phật nói về thọ mạng Như
Lai thì người ấy thấy Phật đang thuyết pháp ở núi Linh thứu.
Ngày nay nếu chúng sinh có duyên qua tận Ấn Độ, đến núi Linh
thứu thì sẽ thấy cái gì? Vì là phàm nhân nên nhãn căn chỉ thấy
một dãy núi chạy dài có con đường cong vo
đi dần lên núi. Đến đỉnh núi sẽ thấy có những hang động trống
không mà ngày xưa các vị Thánh giả dùng để tham thiền nhập định.
Trên đỉnh núi trống không chỉ còn lại dấu tích ngày xưa Thế Tôn
thuyết pháp với bao thính chúng bao quanh.
Nhưng đối với người giác ngộ và đã tin sâu
nơi mình có Tri Kiến Phật thì Phật ở trong tâm cho nên nhìn đâu
cũng thấy Phật, nghĩ gì cũng đều là Pháp Phật. Thế thì tâm thanh
tịnh thì nhìn đâu cũng là cõi Phật thanh tịnh, nghe âm thanh như
nghe Phật thuyết pháp. Ngược lại nếu tâm ô nhiễm bởi tham sân
si, sắc tài danh lợi thì nhìn đời bằng đôi mắt thịt của thân ngũ
uẩn đầy phiền não nên thấy gì cũng ô trược.
Ngày xưa tông Thiên Thai có ngài Trí Giả Đại
sư chuyên trì kinh Pháp Hoa. Ngài tụng liên tiếp trong 21 ngày
đến khi tụng đến phẩm Dược Vương Bồ Tát thì ngài nhập Pháp Hoa
tam muội. Trong định ngài thấy Phật đang thuyết pháp cho hội
chúng ở hội Linh Sơn trên núi Linh Thứu. Nhập Pháp Hoa tam muội
nghĩa là mình đang thức tỉnh có chánh niệm để biết rằng mình có
Phật tánh và mình sẽ thành Phật. Vì thế khi hành giả không nhất
thiết ngồi thiền, họ sống trong mọi sinh hoạt của đời sống hằng
ngày mà tâm mình phát sáng và biết rõ ràng mình đang sống với
Tri Kiến Phật, với Phật tánh nhiệm mầu trong ta thì lúc đó mình
đang nhập vào Pháp Hoa tam muội.
-Lại nữa, sau khi Phật diệt độ, ai
nghe kinh này mà không chê bai, sanh lòng tùy
hỉ, thì đó cũng là biểu hiện của một lòng tin hiểu sâu chắc. Còn
đi đọc, tụng, lãnh, giữ kinh này thì người đó đầu đội Như Lai.
Nếu chúng sinh ngộ được Tri Kiến Phật thì
người đó có đủ lòng tin nên tâm thường hoan hỉ mà thọ, trì, đọc,
tụng, lãnh và giữ gìn kinh. Vì sống với Tri Kiến Phật nên lòng
thanh tịnh, tâm thanh thoát nhẹ nhàng, không còn bị phiền não
quấy phá thì cũng như đầu đội Như Lai rồi.
-Này A-dật-đa! Tin hiểu được như thế,
thì không cần vì ta mà dựng chùa tháp, cũng không cần cất tăng
phường và dùng “tứ sự” cúng dường chúng tăng. Vì sao? Vì thọ
trì, đọc, tụng được kinh này là đã dựng tháp, tạo lập tăng
phường, là đã dùng hương hoa, chuỗi ngọc, tràn phan, kỹ nhạc…
tán thán chư Phật trong muôn ngàn ức kiếp rồi.
Tất cả những việc làm như dựng chùa tháp, cất
tự viện hay cúng dường tứ sự cho Tăng Ni cũng không ngoài mục
đích tăng trưởng phước đức, bảo trì Tam Bảo cửu trụ thế gian.
Nhưng ở đây người sống được với Tri Kiến Phật của mình là đã trở
về với Bản lai diện mục nghĩa là đã qua những giai đoạn dựng
tháp, cúng dường tràn phan, kỹ nhạc… vì
tất cả những tiến trình đó chỉ nhằm vào mục đích vun bồi phước
đức và công đức tròn sáng để trực nhận được Phật tánh của chính
mình. Tóm lại, sống với Tri Kiến Phật là đã cúng dường chư Phật
rồi đó.
-Này A-dật-đa! Thọ, trì, đọc, tụng
kinh này được công đức như thế, hà huống còn tu hạnh bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn , thiền định và trí tuệ, thì công đức
này không còn gì hơn.
-Nếu thọ trì, đọc tụng kinh này mà
còn tạo tháp, xây dựng tăng phường, cúng dường, khen ngợi chúng
Thanh Văn và Bồ-tát, hoặc giải nói Kinh Pháp Hoa rồi còn thanh
tịnh trì giới, nhẫn nhục, quí việc ngồi thiền, tinh tấn mạnh mẽ,
căn lành trí sáng, thì đó là những người đã đến Đạo tràng, gần
ngồi dưới cội cây Đạo để chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tới
đây, đức Phật nói một bài kệ nhắc lại ý trên.
Đến
đây đức Phật xác định rằng chúng sinh có cất chùa, tạo tháp,
cúng dường các hàng Thánh chúng mà còn thọ trì, đọc tụng kinh
Pháp Hoa thì công đức quá lớn không thể nghĩ bàn. Đạo Phật dạy
chúng sinh Sự Lý viên dung vì thế phần trên đức Phật nói không
có việc làm nào của thế gian như là xây chùa, đúc tượng, hộ trì
Tăng Ni có thể sánh bằng công đức trực nhận Tri Kiến Phật là bản
thể chân như. Để dung hòa giữa “lý và sự”, đức Phật bây giờ mới
cộng thêm phần lập chùa, xây tượng để khuyến khích chúng sinh
tiếp
tục
truyền thống hoằng pháp độ sinh, truyền lưu Phật pháp mãi mãi về
sau. Chúng sinh chẳng những ngộ nơi mình có Tri Kiến Phật mà còn
phải tu thêm hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định và trí tuệ. Tại sao? Bởi vì ngộ Tri Kiến Phật
là
nhận ra Phật nhân của mình còn đến Phật quả thì dĩ nhiên cần
phải trải qua bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp tu nữa mới thành chớ
không phải ngộ Tri Kiến Phật
thì
tức thì thành Phật được. Đó là vì
trong ta, tập khí ngã mạn, tham sân si kết nhóm sâu dày nên
không dễ gì một sớm một chiều mà nhỗ tận gốc. Vì thế, tuy chúng
sinh ngộ được Tri Kiến Phật của mình, nhưng lòng còn tham
đắm si mê, trong chấp ngã ngoài chấp pháp, tranh chấp, đố kỵ
không tan thì con đường đến Phật quả phải cần nhiều công phu và
đức hạnh mới mong thành tựu được.
Tóm lại, ngày nay người đệ tử Phật khắp năm
châu bốn bể đừng nên nghĩ rằng mình không có duyên đến núi Linh
thứu hay đối diện với Phật vì Phật đã diệt độ trên mấy ngàn năm
rồi. Thật ra nếu chúng ta biết sống với Tri Kiến Phật của mình
thì cho dù chúng ta ở đâu và bất cứ lúc nào thì Bổn Phật Đa Bảo
và phân thân Phật Thích Ca cũng ở ngay trong tâm của chúng ta.
Thời điểm đó chúng ta nghe Pháp Phật, sống với Phật không khác
gì chúng ta đang ở trên núi Linh thứu và đang thấy Phật như mấy
ngàn năm về trước.
∆ TOP
|
NEXT
|