Phẩm
THÍ DỤ
Phẩm
Phương tiện đã diễn giải rõ ràng bản hoài của chư Phật xuất hiện
ở thế gian này với một mục đích cao cả là khai thị cho tất cả
chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến của chính mình tức là mỗi
người tự nhận ra và sống với tánh giác của chính mình. Tuy chư
Phật ôm ấp hoài bảo to lớn như thế, nhưng căn cơ chúng sinh còn
thấp chưa kham thọ nhận cho nên đức Phật tạm thời trên hội A Hàm
chỉ nói về giáo nghĩa thập thiện giúp cho họ thấy con đường sáng
mà khỏi bị đọa vào tam ác đạo. Ngài nói các pháp Vô thường, Khổ,
Không, Vô Ngã, chân lý Tứ Diệu Đế và thuyết Thập Nhị Nhân duyên
để giúp chúng sinh tạm thời ra khỏi tam giới, xa lìa sinh tử và
chứng đắc Niết bàn. Nhưng Niết bàn mà họ chứng được chỉ là hóa
thành tức là tạm nghĩ chớ chưa phải là bảo sở tức là hoàn toàn,
chân thật và an định mãi mãi. Giáo pháp của Phật thì vô biên vô
lượng, nhưng tựu trung có thể chia làm hai phần: bình đẳng là
pháp “thật”
và pháp môn phương tiện là pháp “quyền”.
Pháp “thật’
là chân thật và không bao giờ biến đổi. Còn pháp “quyền”
thì không thật, chỉ là phương tiện tạm thời, là những thí dụ cụ
thể dùng để xiễn dương chân lý. Đức Phật dạy rằng : “Như
Lai có một kho báu, hãy đến đây, Như Lai sẽ cho quý vị một viên
ngọc minh châu vô giá và các thứ trân châu khác…”.
Vì chúng sinh còn nhiều tâm tham nên họ liền đến với Như Lai để
được món lợi, vì thế Như Lai mới có cơ hội giáo hóa họ được. Khi
đã thấu hiểu huyền nghĩa của giáo pháp Như Lai, chúng sinh sẽ
không còn quan trọng hay quan tâm đến viên ngọc minh châu vô giá
đó nữa vì chúng sinh vốn đã có viên ngọc đó trong họ rồi. Đó là
quyền, là phương tiện thiện xảo để cứu độ chúng sinh.
Vì Phật
khéo léo dùng những thí dụ, những phương tiện để phô bày những
gì ẩn dụ bên trong mà ngôn ngữ con người không thể nào diễn tả
được. Trong phẩm này, đức Phật đã dùng những thí dụ để làm sáng
tỏ thêm chỗ cứu cánh và đặc biệt để hiển bày những phương tiện
mà Ngài đã dạy chỉ là pháp quyền. Nhờ vậy mà chúng sinh có thể
nhận thấy được cứu cánh tối thượng tức là mục tiêu chính mà đức
Phật muốn chỉ bày.
Lúc bấy
giờ ông Xá-lợi-phất hớn hở vui mừng, đứng dậy cung kính
chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan Phật và bạch rằng: “Hôm nay con
được nghe những điều Phật dạy, lòng con hân hoan chưa từng có.
Bao nhiêu nghi ngờ của con đã hết. Trước kia con thường nghĩ
ngợi và tự hỏi: Phật cũng ở trong Pháp tánh như mình, cớ sao
Phật được là Phật, còn mình thì lại không? Cớ sao Như Lai lại
đem pháp “Tiểu Thừa” mà dạy cho? Cớ sao các Bồ tát được thọ ký
thành Phật, còn mình chẳng được dự vào việc đó? Con tự cảm
thương mình! Chẳng lẽ mình mất hết vô lượng Tri Kiến Phật, mất
hết khả năng thành Phật hay sao?” Nay nghe Phật dạy, con mới
hiều rằng, lỗi tại chúng con, vì mê mờ thiển cận, vừa được nghe
pháp phương tiện là đã vội ham, tư duy tu tập để cầu chứng
đắc. Nay con đã hiểu rõ, rằng giáo lý Tiểu thừa là “pháp phương
tiện” tùy nghi dẫn dụ của Như Lai. Dù “chứng đắc Niết Bàn” nhưng
chưa hoàn toàn diệt độ. Giờ đây con rất sung sướng tự biết mình
là con thật của Phật. Từ kim khẩu Phật sanh ra, từ pháp hóa của
Phật sanh ra, con được dự phần trong “Phật tánh và Pháp tánh” vô
thượng.
Ông
Xá-lợi-phất thưa tiếp:
“Lúc mới nghe Phật “thọ ký” con sẽ thành Phật, con nghi ngờ tự
hỏi có phải ma giả Phật để não loạn lòng con. Nhưng sau nhờ
những tỷ dụ của Phật, con mới hết nghi và tin quả quyết rằng con
sẽ thành Phật”.
Tôn giả
Xá Lợi Phật chẳng những là đệ nhất trí tuệ trong số đệ tử của
Phật Đà, mà ngài còn là vị tuệ tánh Thanh Văn. Trong khi đó các
vị định tánh Thanh Văn đã rời pháp hội vì nghĩ rằng họ chẳng có
gì để lãnh hội từ đức Phật. Sau khi nghe Phật nói về Tri Kiến
Phật, ngài Xá Lợi Phất liền ngộ được Trí Huệ Phật tức là tin vào
khả năng thành Phật chính mình, nên vui mừng hớn hở trình lại sở
ngộ của mình. Trong Phật pháp có pháp phương tiện và pháp cứu
cánh. Trong bốn mươi mấy năm, đức Phật chỉ dùng pháp phương tiện
để dạy thính chúng. Ngài dạy giáo lý Tứ Đế cho hàng Thanh Văn,
thuyết Thập Nhị Nhân Duyên cho hàng Duyên Giác để họ chứng đắc
Niết bàn, giải thoát sinh tử. Nhưng cứu cánh của đạo Phật không
phải là trở thành A la hán, Bích Chi Phật hay Bồ tát mà phải
thành Phật. Tại sao? Bởi vì tất cả chúng sinh ai ai cũng đều có
Tri Kiến Phật giống y như Phật. Do đó nếu các vị A la hán, Bích
Chi Phật say mê ở những quả vị của mình thì tuy các vị đó có
chứng đắc Niết bàn, nhưng cái Niết bàn đó chưa phải là Vô thượng
Niết bàn, là Bảo sở Chân Như hoàn toàn thanh tịnh. Trong kinh
này hàng định tánh Thanh Văn gọi là hạng Tăng thượng mạng nghĩa
là những người chưa chứng được quả Vô thượng Bồ đề mà tưởng rằng
mình đã chứng được quả tột đỉnh rồi nên chẳng cần học hỏi tu
luyện thêm. Khi đã hiểu lời Phật dạy về Nhất thừa Phật đạo và
Tri Kiến Phật thì Tôn giả Xá Lợi Phất mới thức tỉnh biết con
đường đã đi là chưa hoàn mãn, say mê vào chứng đắc, chấp phương
tiện mà quên đi cứu cánh. Sở dĩ Phật nói pháp sai biệt giữa các
môn đồ là vì căn cơ mỗi người sai khác, với người trình độ thấp
thì Ngài dùng phương tiện hướng dẫn lên từ từ đến khi họ kham
lãnh được pháp lớn, thì Ngài bây giờ bình đẳng nói pháp Nhất
thừa.
Đến đây,
Tôn giả Xá lợi Phất tự xét lấy lỗi mình vì đã đánh mất vô lượng
Tri Kiến Phật nghĩa là tuy có sẵn Trí Tuệ Phật, nhưng vì căn cơ
thấp kém nên Phật bấy lâu nay chỉ nói pháp Nhị thừa mà không nói
pháp cứu cánh Nhất thừa. Tuy nhiên, Ngài chỉ tự cảm thương mình
chớ không hề trách cứ Phật bởi vì Tôn giả thấu hiểu hoài bảo của
Phật là giáo hóa chúng sinh để ngộ, nhập, tri, kiến Phật chớ
không phải các Ngài thị hiện để chỉ dạy Thanh Văn hay Duyên Giác
thừa. Mà muốn đạt được Trí Tuệ Phật này thì chỉ có một con đường
duy nhất là Phật thừa chớ không còn con đường nào khác. Tôn giả
bây giờ tự xác nhận mình là con Phật tức là “Tòng
Phật khẩu sinh, tòng Pháp hóa sinh, đắc Phật Pháp phần, cố danh
Phật tử” nghĩa là theo miệng Phật mà sinh ra,
theo Chánh Pháp mà hóa ra, được vài phần Phật Pháp nên được gọi
là Phật tử tức là con Phật. Nói rộng ra, từ kim khẩu của đức
Phật mà truyền bá, giáo hóa giúp chúng sinh học Chánh Pháp, hành
Chánh Pháp và sống trong Chánh Pháp để vun bồi đầy đủ phước đức
và trí tuệ. Ngay cả Vô thượng Bồ đề hay Vô thượng Niết bàn,
người đệ tử Phật cũng có thể đạt được.
Trong
tam huệ học, trí tuệ phát sinh như thế nào?
1)
Văn huệ:
là do tai nghe âm thanh, mắt đọc kinh điển của Phật để nhận hiểu
mà phát sinh trí tuệ.
Trong
suốt 49 năm hoằng dương giáo pháp của đức Phật, có rất nhiều
người đắc quả Thánh hay ngộ được chân lý khi nghe Ngài thuyết
Pháp. Không những thế, ngay cả hàng Thanh Văn tức là A la hán
cũng độ được rất nhiều người vào cõi Thánh
2)
Tư huệ(Cinta
maya panna):
là huệ do trí suy nghĩ, tìm tòi hay quán xét về những điều đã
được thu nhập được bằng văn huệ.
Những gì
mà chúng ta nghe, thấy và học hỏi được chỉ là kiến thức vay
mượn. Muốn chuyển hóa chúng để trở thành kiến thức của chính
mình thì phải tư duy, suy nghĩ tường tận qua nhiều giai đoạn suy
tư và phán đoán có nghĩa là chúng ta phải phân tích, tổng hợp để
tìm ra thật tướng của chân lý. Ngày nọ có vị Tỳ kheo ni tên là
Patacara đến rửa chân nơi một dòng suối. Đang khi bước lên bờ
thì bà thấy những giọt nước từ bàn chân của bà nhỏ xuống theo
dòng nước trôi đi và biến mất. Cứ như thế mà bà suy tư sự biến
đổi không ngừng của hiện tượng và bổng trực nhận được lý vô
thường của vũ trụ. Trong kinh điển cũng có ghi chép rất nhiều
trường hợp như có một hành giả có thể nghe một tiếng chim hót,
hoặc thấy một chiếc lá rơi, một ngọn đèn phựt tắt, hay nhìn
những bong bóng nước vỡ tan trên mặt hồ mà chứng ngộ được chân
lý. Có người cho rằng nếu nghe nhiều mà không suy luận để phân
biệt chân, hư và không thực hành theo chân lý thì trí tuệ không
bao giờ phát sinh! Đây là trường hợp của Tôn giả A Nan. Chính
Tôn giả A Nan đã làm thị giả cho đức Phật 27 năm và nhờ nhân
duyên nầy mà Ngài là người nghe nhiều học rộng nhất trong số đại
đệ tử của Phật.
Thế thì tại sao Ngài không đắc đạo trong lúc Đức Phật còn sinh
tiền? Sở dĩ Tôn giả A Nan không đắc đạo quả khi Phật
còn tại thế là vì chưa thực hành đúng theo những gì Ngài đã học
hỏi được. Đó là phải quay về với nội tâm của mình để thấy được
tánh giác thanh tịnh mà đã bị vọng trần và vô minh che lấp.
Nhưng chính nhờ kiến thức uyên bác đó, về sau giúp ngài chứng
ngộ con đường giải thoát và ngày nay hầu hết các kinh tạng mà
chúng ta có được đều do chính tôn giả tụng thuật lại. Như
thế ngài đã đem đa văn của mình đóng góp vào việc duy trì và
phát huy nền văn học Phật giáo từ mấy ngàn năm nay và còn cho
bao ngàn năm nữa.
Nhưng không phải mọi tư duy đều đem lại trí tuệ cho con người.
Vì thế đức Phật có dạy rằng:
-Có
hai loại tư duy. Trước hết là Chánh tư duy giúp tâm thanh tịnh
và sáng suốt và ngược lại Tà tư duy làm cho tâm ô nhiễm và lu
mờ”.
Vậy muốn
phát triển trí tuệ trước hết chúng ta phải tránh những tà tư duy
như suy nghĩ về dục lạc, suy nghĩ về oán thù và suy nghĩ về lợi
mình hại người. Trái lại chúng ta thường nên suy tư quán chiếu
về ý nghĩa sâu xa của vô ngã, vô thường, khổ não và bất tịnh của
tất cả các pháp hữu vi.
Trường
hợp của tôn giả Cùlapanthaka là một người ít học. Tuy Ngài cố
gắng nhưng cho đến một bài kệ ngắn chỉ có bốn câu mà trong bốn
tháng vẫn chưa thuộc. Vị sư huynh của Ngài thấy vậy khuyên Ngài
nên hoàn tục nhưng Ngài quá quyến luyến đời sống đạo hạnh nên
không nỡ từ bỏ. Đức Phật thấy đạo tâm của Ngài quá dõng mảnh nên
đến đưa cho Ngài một chiếc khăn tay màu trắng và dạy mỗi sáng
phải cầm khăn tay đưa ra trước mặt trời. Ngài làm y như lời dạy
của đức Phật nên chẳng bao lâu chiếc khăn bị bụi và mồ hôi bám
vào trở nên dơ bẩn và ố màu. Thấy sự kiện đó, ngài suy gẫm về
tánh vô thường của đời sống, trực nhận được chân lý và chứng quả
A la hán.
Vậy trí
tuệ phát sinh do suy xét chân tướng của vạn hữu thì được gọi là
Tư Huệ.
3)
Tu huệ
(Bhavana
maya panna):
là do tu hành thể nghiệm và thể nhập chân lý để chứng được chân
lý mà giác ngộ. Tham thiền là phương pháp rèn luyện trí tuệ được
đức Phật khen ngợi và khích lệ hàng đệ tử ứng dụng để thấu triệt
chân lý và chứng ngộ Niết bàn.
Phương
pháp tu thiền định giúp con người dập tắt vô minh và ái dục. Vì
thế nó còn được gọi là Định năng sinh huệ. Ví như một ly nước
đục được giữ yên, khi bao nhiêu cặn bả đã lắng đọng thì nước sẽ
trở nên trong suốt. Con người thì cũng thế, nếu chúng ta giữ
được an trú trong thiền định thì tâm sẽ trở nên trong sạch, sáng
suốt và nhờ đó trí tuệ phát sinh.
Trong
kinh Pháp Cú, đức Phật có dạy rằng:
-Dầu
thông suốt kinh luật mà không hành trì cũng chỉ như kẻ mục đồng
đếm bò cho kẻ khác. Người đó không hưởng được hương vị giải
thoát. Trái lại dù thuộc ít kinh luật nhưng cố gắng hành trì, từ
bỏ Tham-Sân-Si, hiểu biết chân chính, tâm tự tại, không vọng
chấp. Người ấy ắt hưởng được hương vị giải thoát.
Ngày xưa
có hai vị Tỳ kheo cùng xuất gia theo Phật. Một vị tuy học rộng
hiểu nhiều, làu thông kinh Pháp nhưng chưa đắc đạo. Còn vị kia
tuy học ít nhưng chuyên cần tu niệm nên không bao lâu chứng quả
A La Hán. Khi bàn luận Phật Pháp với Đức Phật, vị phàm tăng nêu
lên nhiều vấn nạn khúc mắc để phô trương tài bác học của mình.
Nhưng khi Đức Phật hỏi về sự thực chứng đạo giải thoát thì vị A
la hán trả lời thông suốt vì do kinh nghiệm bản thân của mình.
Trái lại vị phàm tăng không cách nào trả lời được vì tự mình
chưa chứng ngộ.
Cũng như
chúng ta thích một loại trà rất nổi tiếng và học cách pha trà
nầy. Nhưng chừng nào chúng ta chưa tự mình pha lấy và uống qua
một lần thì cũng không thưởng thức được hương vị của món trà quý
nầy. Vì thế người xưa có câu “Như nhân ẩm thủy lãnh noãn tự tri”
nghĩa là hương vị nóng lạnh, thơm ngon chỉ có người uống mới
biết được.
Nói tóm
lại
Văn, Tư, Tu rất tương quan mật thiết với nhau,
không thể bỏ qua một thứ nào mà thành tựu được cho nên đức Phật
dạy rằng:
-Văn
huệ, Tư huệ, Tu huệ ba môn khuyết một không được. Nếu nghe mà
không suy nghĩ thì như làm ruộng mà không gieo mạ. Nếu suy nghĩ
mà không tu thì như làm ruộng mà không tát nước, làm cỏ thì
không có lúa. Ba huệ được đầy đủ thì chứng quả Tam thừa.
Tóm lại,
trong tam huệ học, văn huệ tức là nghe lời Phật dạy mà khai
thông trí tuệ tức là từ miệng Phật sanh, tư huệ là do tư duy
pháp Phật dạy mà trí tuệ phát sinh tức là từ pháp hóa sinh và
sau cùng tu huệ là do tu thiền định, thực hành lời dạy của Phật
mà phát sanh trí tuệ tức là pháp phần của Phật. Do đó người đệ
tử Phật ít nhất phải có được một trong ba phần trí tuệ ở trên
thì mới không hổ thẹn với danh xưng Phật tử tức là con Phật.
Trong
Phật giáo có tất cả mười hai thể loại kinh được phân biệt theo
hình thức trình bày và nội dung giáo pháp:
1)
Khế kinh:
Còn được gọi là Trường hàng tức là thể loại văn xuôi, trực tiếp
ghi chép giáo thuyết của Phật.
2)
Trùng
tụng:
Tức phần kệ tụng giải thích lại giáo thuyết mà khế kinh đã nói.
3)
Thọ ký:
Vốn là các đoạn văn giải thích về giáo nghĩa , đời sau đặc biệt
chỉ cho lời ấn chứng trước của Phật đối với việc làm ở vị lai
của các đệ tử.
4)
Phúng
tụng hay Cô khởi:
Tức là phần kệ tụng độc lập, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của
đức Phật mà không lập lại ý của văn trường hàng trước đó.
5)
Tự
thuyết hay Vô vấn:
Đức Phật không đợi có người hỏi pháp mà tự khai thị giáo thuyết.
6)
Nhân
duyên:
Ghi chép nhân duyên thuyết pháp giáo hóa của Phật, như phẩm Tựa
của kinh này.
7)
Thí dụ:
Dùng thí dụ để giảng nói pháp nghĩa như phẩm này.
8)
Bổn sự:
Các bản kinh nói về hành nghi ở đời quá khứ của Phật và đệ tử.
Những kinh mở đầu bằng câu: “Phật như thị thuyết” cũng thuộc
loại Bổn sự.
9)
Bổn sanh:
Thể loại kinh nói về các hạnh đại bi mà đức Phật tu hành vào
thời quá khứ.
10)
Phương quảng:
Các kinh giảng nói giáo nghĩa rộng lớn sâu xa.
11)
Vị tằng
hữu:
Nói về những việc ít có của Phật và các đệ tử.
12)
Luận
nghị:
Đức Phật luận nghị phân biệt thể tính các pháp, làm sáng tỏ các
pháp.
Trong 12
thể loại kinh được phân biệt ở trên thì chỉ có Đại thừa là có đủ
12 loại. Còn Tiểu thừa chỉ có 9 loại nghĩa là kinh điển Tiểu
thừa không có thể loại Thọ ký, Tự thuyết và Phương quảng.
-Thọ ký
chỉ có trong kinh Pháp Hoa bởi vì Phật dựa vào tư tưởng “mọi
chúng sinh đều có Phật tánh, tri kiến Phật”
nên Phật mới thọ ký vào vô lượng kiếp về sau sẽ thành Phật.
-Tự
thuyết là Phật tự ý nói chớ không phải do đệ tử hỏi. Đó là những
kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ…
-Phương
quảng hay còn gọi là phương đẳng là các kinh nói về nghĩa bình
đẳng, rộng lớn sâu xa. Đó là các bộ Bảo Tích và Đại Tập. Phương
đẳng chia làm hai phần là Phương đẳng Hiển thuyết và Phương đẳng
Mật chú. Hiển thuyết gồm có các kinh như Bảo Tích và Mật chú
kinh thì có kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu
Nghĩa Chư Bồ tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm và Mật chú Nghi quỹ
gồm các kinh Kim Cương Đảnh Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp
Đại Thừa Hiển Chứng Đại Giáo Vương. Hiển và Mật hợp chung được
735 bộ, 1749 quyển.
Ngay sau
khi đức Phật nhập diệt, vua A Xà Thế tổ chức lần kết tập kinh
điển lần thứ nhất tại thành Vương Xá, nước
Ma-Kiệt-Đà. Trong hội Nghị nầy có 500 vị Tỳ Kheo tham dự, trong
đó có ngài trưởng lão Đại Ca Diếp, người được trọng vọng nhất và
hai nhân vật quan trọng chuyên về hai lãnh vực khác nhau là Pháp
và Luật là ngài A Nan và Ưu Ba Ly
đều có mặt. Chỉ hai phần Pháp và Luật là được trùng tụng lại tại
Đại Hội lần thứ nhất. Trong Hội Nghị nầy, Pháp được chia làm hai
phần và mỗi phần được trao cho một vị trưởng lão cùng với đệ tử
của vị ấy ghi nhớ. Pháp được truyền khẩu từ thầy đến trò và được
tụng niệm hằng ngày bởi một nhóm Tỳ Kheo và thường được phối
kiểm lẫn nhau để bảo đảm không có sự thiếu sót cũng như không có
gì thêm vào.
Mãi gần 500 năm sau ngày đức Phật nhập diệt, kinh điển mới được
thực hiện bằng chữ viết lần đầu tiên sau lần kết tập kinh điển
lần thứ tư khoảng năm 70 trước công nguyên. Như thế vào thời đức
Phật, những bài pháp do đức Thế Tôn thuyết giảng được nhớ lại
bằng thể văn xuôi gọi là Trường hàng và sau đó gom lại thành
những bài kệ gọi là Phúng tụng (Cô khởi) để cho đệ tử dễ truyền
cho nhau và cũng là cách duy nhất họ giữ gìn và duy trì cho đến
khi kinh điển được thật sự thực hiện bằng chữ viết.
Khi Tôn
giả Xá Lợi Phất mới nghe Phật nói những vị A la hán, Duyên Giác
tuy chứng Niết bàn, nhưng không phải thật, pháp Tứ Đế chỉ là
phương tiện không phải là pháp cứu cánh thì ngài tưởng như ma Ba
Tuần hóa ra Phật để nói cái tư tưởng tất cả chúng sinh đều có
thể thành Phật và chỉ có một thừa là Phật thừa. Nhưng sau khi
chiêm nghiệm kỹ càng thì ngài mới xác định đây chính thật là lời
Phật dạy bởi vì chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai khi ra đời
giáo hóa đều dùng phương tiện như nhau, đó là trước nói Thanh
Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ tát thừa rồi cuối cùng nói Phật
thừa. Đức Thế Tôn nói về đạo chân thật, đạo đó ma Ba Tuần không
làm sao nói được nên ngài tin chắc đó là lời Phật nói. Đoạn kinh
này phải chăng Tôn giả Xá Lợi Phất nói thay cho những người
thuộc truyền thống Phật giáo Nguyên thủy? Họ cho rằng Đại thừa
không phải là do Phật thuyết mà là do ma thuyết. Ngài Xá Lợi
Phất chiêm nghiệm thấy rằng ma làm sao nói được giọng êm diệu,
sâu xa nhiệm mầu thanh tịnh và ngài kết luận rằng những tư tưởng
cao siêu đó không phải là do ma nói mà đích thật là lời nói của
Thế Tôn. Khi kinh Pháp Hoa xuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau công
nguyên thì Phật giáo nằm trong sự phân chia trầm trọng giữa các
bộ phái. Dĩ nhiên những người ở trong truyền thống Đại thừa
không có tâm trạng hoài nghi, nhưng những bộ phái khác không dễ
gì tin vào tư tưởng mới này. Thật vậy, cho đến ngày nay Phật
giáo Nguyên thủy vẫn tẩy chay kinh điển Đại thừa và họ cho rằng
đây là những tác phẩm tưởng tượng của triết gia Long Thọ, Vô
Trước, Thế Thân. Để xác tín, kinh Pháp Hoa giới thiệu ngài Xá
Lợi Phất, là bậc đệ nhất trí tuệ, khảo nghiệm kỹ càng và sau
cùng tin đây là lời Phật nói. Ngài có lòng tin bất thoái chuyển,
quyết sẽ tiến tới Phật quả vì thế sau này Phật thọ ký cho ngài
sẽ thành Phật. Đối với Phật giáo Đại thừa, niềm tin vào những
lời dạy của Phật để tiến thẳng về Phật quả là điều quan trọng,
nhưng giáo lý Nguyên thủy thì niềm tin không đóng vai trò quan
trọng mà trí tuệ mới là điều thiết yếu. Vì thế trong kinh Kalama
(Tăng Chi III.65) đức Phật dạy rằng:
-Này quý
vị Kalama, đương nhiên quý vị có những nghi ngờ, phân vân! Khi
có điều đáng nghi ngờ, đương nhiên phân vân khởi lên.
-Này quý
vị Kalama, đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó là
truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại, đừng tin vì được ghi
trong kinh điển, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng
tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì dựa theo ý kiến đã
được cân nhắc, đừng tin vì vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì
nghĩ rằng vị ấy là thầy của mình.
-Nhưng
này quý vị Kalama, khi nào quý vị tự mình biết rõ: “Các pháp này
là bất thiện; các pháp này là đáng chê; các pháp này bị người
trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ
đưa đến bất hạnh khổ đau”, quý vị hãy từ bỏ chúng.
-Nhưng
này quý vị Kalama, khi nào quý vị tự mình biết rõ: “Các pháp này
là thiện; các pháp này là đáng khen; các pháp này được người trí
ca ngợi; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa
đến lợi lạc hạnh phúc”, quý vị hãy đạt đến và an trú.
Ban đầu,
ngài Xá Lợi Phất sa vào lưới nghi nên nghĩ rằng Phật nói pháp là
ma Ba Tuần nói. Bây giờ, nghe được diệu âm êm diệu của Phật,
xiễn nói diệu pháp thanh tịnh nên ngài rất vui mừng, không còn
nghi hoặc trong tâm và an trụ vào thật trí tuệ. Vời tấm lòng
vững tin trong đời vị lai ngài nhất định sẽ thành Phật, được
trời người thần rồng tôn kính, thay thế Thế Tôn chuyển đại pháp
luân vô thượng và giáo hóa tất cả muôn loài.
Đức Phật
lại bảo:
-Xá-Lợi-Phất!
Ta xưa đã từng giáo hóa ông, từng dẫn dắt ông trong thời gian
dài ở hai muôn đức Phật. Ta hướng dẫn ông đi trên con đường
thành Phật, nhưng ông lại quên mà tưởng là diệt độ trong khi
chưa đến đích. Nay ta muốn cho ông nhớ lại chí nguyện thành Phật
xưa kia mà vì hàng Thanh Văn nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên
Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm nầy. Như Lai cũng nói trước
cho ông biết, trong vị lai vô số kiếp, ông cúng dường vô số
Phật, phụng trì chánh pháp làm đủ đạo Bồ tát rồi ông sẽ thành
Phật hiệu Hoa Quang Như Lai đủ mười đức hiệu, nước tên Ly-Cấu,
kiếp tên Đại Bảo Trang Nghiêm. Số Bồ tát được ông giáo hóa nhiều
vô lượng.
-Xá-Lợi-Phất! Đức Hoa Quang Như Lai sau đó “thọ ký” cho Bồ tát
Kiên Mãn sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai đủ mười
đức hiệu và cõi nước cũng trang nghiêm như vậy.
Đức Phật
nhắc cho Tôn giả Xá Lợi Phất biết rằng trong những kiếp quá khứ
chính đức Phật Thích Ca đã từng giáo hóa cho tôn giả, đã từng
dạy cho ngài Xá Lợi Phất đạo Bồ tát, nhưng vì tôn giả quên nên
cứ tưởng mình hiện giờ đã đạt được cứu cánh tối thượng của sự tu
học là chứng đắc Niết bàn. Bây giờ, Phật Thích Ca mới nhắc lại
cho tôn giả biết rằng ngài đã có cơ hội học đạo Bồ tát và nhờ đó
chính tôn giả có khả năng trở thành một vị Phật toàn giác nhờ
vào nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa nhiệm mầu này. Đến đây, đức
Phật thọ ký cho ngài Xá Lợi Phất ở trong vô lượng kiếp vị lai,
cúng dường vô số chư Phật, phụng trì Chánh pháp, có đầy đủ lục
độ vạn hạnh sẽ được thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai và ngài
sẽ tạo nên một cõi tịnh độ gọi là thế giới Ly Cấu (Ly Cấu nghĩa
là không còn ô nhiễm nữa). Phải chăng đây là những điều kiện để
thành Phật? Bồ tát phải tu lục độ vạn hạnh, phải cúng dường vô
số chư Phật, phải phụng trì Chánh pháp vì đây là nhân để giúp Bồ
tát thành tựu cứu cánh sau cùng là thành Phật. Ở đây đức Phật
không chỉ thọ ký suông, nhưng Ngài còn thêm những điều kiện tối
yếu để một Bồ tát thực hành viên mãn trước khi vị đó thành Phật.
Đó là:
1)
Bồ tát phải có đầy đủ lục độ vạn hạnh: Hành giả phải thực hành
rốt ráo Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí
tuệ theo đúng tinh thần Ba-la-mật để đối trị lại với Tham lam,
ác độc, sân hận, lười biếng, tạp loạn và ngu si. Bồ tát xả bỏ
vật chất của thế gian, gọi là Đàn ba-la-mật; thọ giới Bồ tát gọi
là Thi-la ba-la-mật; hộ trì giới pháp mà nhẫn chịu sự đánh đập
chửi mắng không báo thù, gọi là Sằn-đề ba-la-mật; giới đã được
thanh tịnh mà siêng năng tu hành các thiện đạo, gọi là Tì-lê-da
ba-la-mật, nhờ siêng năng tinh tấn mà điều phục được 5 căn, gọi
là Thiền-na ba-la-mật; 5 căn đã được điều phục, giác ngộ chân
như pháp giới gọi là Bát Nhã ba-la-mật.
2)
Cúng dường vô số chư Phật: Hằng ngày chúng sinh phải quay về để
xem lại cái tâm của mình có được bao nhiêu sự trong sáng thanh
tịnh, có bao nhiêu ý niệm hại nhân lợi kỷ tức là lợi mình hại
người. Nếu trong tâm không còn ý niệm bất thiện hại người lợi
mình thì nghiễm nhiên chúng ta đã phụng sự cúng dường vô số Phật
rồi đó. Nói cách khác cung dưỡng, bồi dưỡng một tâm niệm lành là
cúng dường một vị Phật, bồi dưỡng nhiều tâm niệm lành là cúng
dường cho vô số chư Phật. Đừng hiểu rằng cúng dường vô số chư
Phật là mua hương hoa quả đến cúng dường rất nhiều chùa. Đây chỉ
là tác động tiêu cực, nhưng muốn đạt đến trạng thái tích cực
viên mãn là sự tác động để thay đổi từ chính bản tâm của mình
bằng những việc làm thiện, có hữu ích cho nhân quần xã hội theo
tiêu chuẩn vô ngã vị tha thì đây mới là sự cúng dường cho chư
Phật hữu hiệu nhất. Phụng sự chư Phật cho đến lúc trong tâm
không còn bất cứ ý niệm vô minh phiền não tham sân si mạn nghi
thì lúc đó chính ta giữ được địa vị Phật của chúng ta.
3)
Phụng trì Chánh pháp: Giữ gìn và đem Chánh Pháp ra hoằng hóa cứu
độ chúng sinh.
Tôn giả
Xá Lợi Phật là người đầu tiên được Phật thọ ký sẽ thành Phật
hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn của nước Ly Cấu. Vậy thế nào
là thọ ký? Thọ ký có nghĩa là báo trước cho người đó biết trước
rằng người đó sẽ thành Phật bắng cách nhìn vào căn tánh, nơi khả
năng của người đó mà biết được trong thời điểm nào trong tương
lai căn tánh đó sẽ được hiển lộ hoàn toàn như hoa sen nỡ rộ vậy.
Chẳng những Phật thọ ký cho tôn giả Xá Lợi Phất ở chương này mà
ở những chương sau Phật thọ ký cho ngài Đại Ca Diếp rồi đến các
đệ tử vô học và hữu học. Cuối cùng Phật thọ ký cho tất cả mọi
người. Vậy Phật thọ ký không có nghĩa là Ngài ban bất cứ một ân
sủng đặc biệt nào cho ai cả mà tất cả chúng sinh đều có thể
thành Phật bởi vì ai ai cũng đều có sẵn Phật tánh thanh tịnh bản
nguyên hằng giác như Phật, nhưng muốn hiển lộ được cái Phật tánh
này, chúng sinh phải tu lục độ vạn hạnh, viên tròn Bồ tát đạo,
phải cúng dường vô số chư Phật, phải phụng trì Chánh pháp vì đây
là nhân còn thành Phật là quả. Nói cách khác, chúng sinh phải
tin rằng mình là một Diệu Pháp Liên Hoa, một thực thể vốn đã là
hoa sen Phật tánh và sau cùng phải có niềm tin rằng hoa sen Phật
tánh đó sẽ nỡ rộ cho nên cuộc đời này chúng sinh bắt đầu phát
triển Diệu Pháp Liên Hoa của mình bằng cách sống với đức hạnh
Phật tánh đó tức là biểu hiện tính từ, bi, hỉ, xả, lục độ
ba-la-mật viên thông, sống với lòng khoan dung
rộng
lượng vô ngã vị tha tức là cúng dường vô lượng chư Phật rồi vậy.
Cái huyền diệu ở đây là kinh khuyến khích mọi người sống đời
Diệu Pháp Liên Hoa để phối hợp cuộc đời thế phàm của mình với
Phật tánh và muôn hạnh công đức của nó. Chúng sinh nên tự mình
khai, thị để ngộ, nhập vào cái Phật tánh thiêng liêng huyền diệu
này.
Thí dụ
khi thấy một đứa bé tướng mạo khôi ngô thì chúng ta có thể thọ
ký cho đứa bé sau này sẽ thành bác sĩ, kỷ sư. Nhưng muốn thành
bác sĩ, kỷ sư thì chính đứa bé phải cố gắng nỗ lực tinh tấn học
hành chớ tự nhiên không thể thành bác sĩ được. Vậy lời thọ ký
chẳng qua là lời khuyên khích lệ để người đó đạt đến mục đích họ
muốn đến thế thôi. Tuyệt đối trong Phật giáo, không có vấn đề
cầu nguyện van xin Phật ban bố cho bất cứ vấn đề gì cả vì nó
trái với luật nhân quả thiên nhiên của nhân sinh vũ trụ. Nói
cách khác tôn giả muốn thành Phật thì chính ngài phải tự tu lấy,
diệt hết vô minh phiền não, tâm Bồ đề mở rộng tức thì thành
Phật.
Sau khi
thành Phật, Hoa Quang Như Lai dùng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát
giáo hóa chúng sinh, nhưng sau cùng cũng như Phật Thích Ca, đức
Hoa Quang cũng quy ba thừa trở thành Nhất thừa Phật đạo, giáo
hóa Bồ tát nhiều vô lượng như cát sông
Hằng.
Đến khi
đức Hoa Quang Như Lai thành đạo thì kiếp đó có tên là Đại Bảo
Trang Nghiêm bởi vì trong cõi nước đó, số Bồ tát nhiều vô kể,
không thể nghĩ bàn, cũng chẳng thể đếm được và đặc biệt trong
cõi Phật Ly Cấu nầy dùng Bồ tát làm đại bảo. Tuy số Bồ tát nhiều
vô hạn, nhưng tất cả đều đã trồng căn lành sâu thẳm, từng tu
phạm hạnh thanh tịnh và được chư Phật tán thán. Các đại Bồ tát
này không phải là những người mới tu hành mà các ngài đã hành
trì trí tuệ chân thật của Phật, tâm kiên cố bất thối chuyển
quyết hoàn thành Phật đạo.
Dựa theo
kinh điển Đại thừa, thọ mạng của con người bắt đầu từ 84,000
tuổi và mỗi một trăm năm (một thế kỷ) thì giảm xuống một tuổi.
Giảm cho đến khi thọ mạng con người chỉ còn 10 tuổi , đây gọi là
kiếp giảm, thì bắt đầu tăng trở lại cho đến 84,000 tuổi. Một
tăng một giảm như thế thì gọi là một tiểu kiếp, hai mươi tiểu
kiếp thành một trung kiếp và bốn trung kiếp trở thành một đại
kiếp. Đức Hoa Quang Như Lai trải qua 12 tiểu kiếp thì lúc đó thọ
ký cho Bồ tát Kiên Mãn sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Như
Lai. Do đó một tiểu kiếp là tăng 8 triệu năm rồi giảm 8 triệu
năm, tổng cộng thành 16 triệu năm cho nên đức Hoa Quang Như Lai
trải qua 12 tiểu kiếp có nghĩa là trải qua gần 192 triệu năm mới
thọ ký cho Bồ tát Kiên Mãn. Nói theo tinh thần Tích môn thì
không có vị Phật nào sống đến 192 triệu năm được, nhưng dựa theo
tinh thần Bổn Môn của Diệu Pháp Liên Hoa thì Phật Hoa Quang
thường trụ vĩnh hằng trong khoảng thời gian dài gần như vô tận
đó. Thâm ý của đoạn kinh này là Phật hiện tại (Phật Thích Ca)
thọ ký cho Phật tương lai (Phật Hoa Quang) rồi Phật tương lai
cũng làm một việc y như Phật hiện tại đang làm là thọ ký cho
Phật tương lai cho nên Hoa Quang Như Lai được Phật Thích Ca tiên
đoán sẽ thọ ký cho Phật tương lai là Hoa Túc An Lành Như Lai.
Tóm lại, bộ môn thọ ký đức Phật Thích Ca cho biết rằng Phật quá
khứ đã dạy, đã làm như vậy, ngay cả Phật Thích Ca hiện tại cũng
đã dạy và đã làm như vậy và tương lai chư Phật cũng sẽ dạy và sẽ
làm như vậy, không sai khác. Nói cách thọ ký không phải do Phật
Thích Ca bày vẽ ra mà ba đời chư Phật đều theo truyền thống mà
thực hành như vậy.
Đại
chúng thấy Phật “thọ ký” ông Xá-Lợi-Phất được thành Phật, vui
mừng hớn hở, mỗi người cởi thượng y của mình dâng lên cúng Phật.
Xá-Lợi-Phất thưa: Bạch Thế Tôn! “Trước kia Phật thường dạy: Giáo
pháp của Như Lai có công năng xa lìa sanh, già, bệnh, chết và
được cứu cánh Niết Bàn”. Các hàng Thanh Văn đã nghe và hành
theo, ai cũng tưởng là mình được Niết Bàn rồi. Nay Phật lại đưa
ra thứ giáo pháp chưa ai từng nghe: Rằng “Niết Bàn ấy chưa
phải rốt ráo tịch diệt, mà rốt ráo phải thành Phật”. Con e sợ
hàng Thanh Văn còn chỗ nghi ngờ. Cúi xin Thế Tôn, vì bốn chúng
giải thích rõ ý thú của lời Phật.
Tôn giả
Xá Lợi Phất bạch với Phật sự thắc mắc của hàng Thanh Văn về cứu
cánh tối thượng của sự tu hành. Đây chính là khúc quanh đưa đến
sự khác biệt giữa Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa.
Phật giáo Nguyên thủy cho rằng đức Phật chỉ là một người bình
thường như trăm vạn người khác trên quả địa cầu này, nhưng nhờ
dũng mãnh tu tập thiền định đoạn trừ tận gốc tham-sân-si, lậu
hoặc, tâm trí bừng sáng chứng được tam minh khiến Ngài đắc thành
chánh quả, có được giải thoát Niết bàn. Vì thế bất cứ ai cũng có
thể noi theo con đường đức Phật đã đi và đạt được những thành
quả như Phật. Bằng chứng là vào thời đức Phật đã có hàng vạn vị
A la hán chớ đâu chỉ có mình đức Phật chứng Thánh quả. Do đó
trong Phật giáo Nguyên thủy không hề có vấn đề thọ ký vì hiện
tại tất cả các vị A la hán là những vị Thánh giả, có đầy đủ giải
thoát giác ngộ như Phật rồi. Phật giáo Nguyên thủy nhìn đức Phật
bằng một góc độ rất thực tế, dựa trên con người lịch sử. Vì thế
đức Phật đối với họ là vị A la hán đầu tiên của tất cả các vị A
la hán. Trong ngũ bộ kinh Nikayas, đức Phật đã nhiều lần xác
nhận rằng hằng trăm nếu không muốn nói hằng ngàn đệ tử thuộc
hàng Thánh giả của Ngài cũng chứng đắc các cấp độ tâm linh ngang
bằng với đức Phật. Trong kinh Bộ Tương Ưng, đức Phật tuyên bố
chính Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputa) đã chứng ngộ và thâm hiểu
giáo lý Duyên Khởi (Pratiyasamutpada) rất sâu thẳm như chính Thế
Tôn vậy. Ngoài ra, còn có những bậc Thánh giả khác như các Tôn
giả Đại Ca Diếp (Mahkassapa), Mục Kiền Liên
(Maggallana), Phú Lâu Na…
cũng chứng đắc một số khả năng về những lãnh vực như giảng giải
thuyết pháp, xuất nhập các cấp độ thiền, thi thố thần thông
ngang bằng đức Phật. Đức Phật trong ngũ bộ kinh Nikayas không hề
phát biểu lời tuyên bố nào để phân biệt sự khác nhau giữa Ngài
và các vị A la hán ngoại trừ lời nói sau đây trong kinh Tương
Ưng:
-Này các
Tỳ kheo! Như Lai là vị A la hán, bậc chứng ngộ hoàn toàn. Như
Lai là người đã khiến cho con đường trước kia chưa sinh khởi nay
sinh khởi, đưa ra con đường trước kia chưa được đưa ra, làm hiển
lộ con đường trước kia chưa từng hiển lộ, là vị nhận biết con
đường, hiểu rõ con đường và là vị thiện xảo trong con đường. Và
giờ đây, này các Tỳ kheo, hàng đệ tử là người đi theo con đường
của Như Lai. Này các Tỳ kheo! Đó là nét đặc biệt, sự đặc thù để
phân biệt Như Lai, bậc A la hán, vị chứng ngộ hoàn toàn với các
Tỳ kheo đã giải thoát.
Vì vậy,
đức Phật không chỉ là vị A la hán với vài điểm đặc biệt, mà
chính những nét đặc biệt đó đã nâng Ngài lên tầm mức phi thường,
trở thành đấng vô thượng đạo sư của cả thế giới và dĩ nhiên đứng
trên tất cả các vị A la hán khác.
Như thế,
dựa theo Phật giáo Nguyên thủy thì A la hán là quả vị tối thượng
của người đi trên con đường giải thoát giác ngộ. Ngược lại, Đại
thừa chủ trương A la hán chỉ là sự chứng đắc nửa đường tức là
hóa thành mà cứu cánh tối thượng phải là đạt đến bảo sở tức là
chỗ trân quý mới thành Phật được.
Mặc dù giáo lý Thập Địa xuất hiện đầu tiên trong kinh Thập Địa
Giải Thuyết Luận (Dasabhaùmivibhàsà Sàstra) của Long Thọ vào
khoảng thế kỷ thứ hai sau công nguyên, nhưng ý nghĩa của nó chưa
rõ ràng, chỉ có một vài yếu tố về Thập Địa được đưa ra. Khi kinh
Hoa Nghiêm được thành lập thì kinh mới có một phẩm riêng nói về
Thập Địa của một vị Bồ tát. Đó là phẩm Thập Địa. Nhưng mãi đến
thời đại của Vô Trước, Thế Thân vào thế kỷ thứ tư sau công
nguyên thì giáo lý Thập địa mới đạt đến trình độ cao nhất. Thập
địa là mười giai vị trong quá trình tu hành của người đệ tử Phật
trên con đường tiến đến quả vị Phật. Địa nghĩa là trụ xứ, sinh
thành.
Thập địa
(bhùmi) hiểu theo nghĩa đen là trái đất, vị trí hay nền
tảng…nhưng theo nghĩa bóng là trình độ, cấp độ, giai vị, tiến
trình.
Theo học
giả Har Dayal và N. Dutt, ở giai đoạn mới hình thành số lượng
của địa (blùmi) được xác định một cách chắc chắn trong các kinh
Lăng Già (Lankavatara) và bộ Bồ Tát địa (Bodhisattva- blùmi) chỉ
có bảy. Về sau, số lượng này phát triển thành mười bắt đầu từ
kinh Thập Địa (Dasablùmika-sùtra) rồi đến tập Mahàvastu. Tuy
nhiên các kinh trên không đưa ra bất cứ lời giải thích về sự
thêm ba địa mới. Học giả Har Dayal nói rằng nguyên nhân của sự
ra đời của bảy địa trong kinh điển Phật giáo Đại thừa có thể như
là một bước phát triển từ giáo lý Thượng tọa bộ (Nguyên Thủy) về
tứ thiền (four stages) và tam minh (Three vihàras). Nhưng tại
sao lại chuyển thành Thập địa? Vì tiến trình để đạt đến thánh
quả dựa theo Phật giáo Nguyên thủy là tứ thiền rồi qua tứ không
định. Sau đó đi vào Diệt Thọ Tưởng định rồi mới trở thành A la
hán (Phật) tức là giai đoạn thứ mười. Cũng vậy, Thập địa là mười
giai đoạn của Bồ Tát phải trải qua trước khi thành Phật. Tuy
nhiên có nhiều học giả cho rằng khái niệm về Thập địa có thể là
kết quả của sự đơn giản hóa, phổ thông hóa và cụ thể hóa từ giáo
lý chín cảnh giới thiền định như được giải thích trong kinh tạng
Nikàya. Vì từ chín cảnh giới thiền định này mà chính đức Phật
thành đạo và nhập Niết bàn, và hàng vạn vị A la hán khác cũng
chứng đắc và nhập Niết bàn y như vậy. Nói cách khác, sau khi
chứng đắc hoàn toàn chín cấp độ thiền định trên, Phật quả hay A
la hán như là địa vị thứ mười tức là cấp độ cuối cùng đạt đến
một cách tự nhiên mà không cần bất cứ nỗ lực tương ứng nào như
trong chín trường hợp trước.
Tư tưởng
Đại thừa lý luận rằng đức Phật lịch sử chỉ là ứng thân của chư
Phật trong thế giới này vì Ngài đã thành Phật từ vô thỉ. Nói
cách khác Pháp thân mới đúng là thân Phật, còn nhục thân thì
chưa đích thật là Phật thân. Khi Đại thừa biến đức Phật từ một
người bình thường thành một siêu nhân, một Superman của thế
giới, của vũ trụ thì tự nhiên giữa chúng sinh và Phật có sự xa
cách. Tại sao lại có sự xa cách? Bởi vì Ngài không phải là người
bình thường như muôn vạn chúng sinh trong thế giới này cho nên
những điều Phật làm, chỉ có Phật mới thực hiện được, còn phàm
nhân thì đành bó tay, đừng nên mơ ước viễn vong. Việc thần thánh
hóa đức Phật đã khiến cho người đệ tử Phật trở thành tiêu cực,
thay vì tinh tấn nỗ lực tu hành giống như các vị A la hán ngày
xưa để trở thành Thánh giả, đa số Phật giáo đồ trở thành người
cầu xin, van vái, lệ thuộc vào tha lực.
Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa nói lên mười giai vị của Bồ
tát là:
1)
Hoan hỷ
địa
(Sơ địa) (Pramudità): Khác với lý tưởng của Nguyên thủy là tìm
sự giải thoát Niết bàn cho riêng mình thì ở đây Đại thừa giới
thiệu một lý tưởng cao đẹp hơn nhằm giúp cho tất cả mọi chúng
sinh giải thoát mọi phiền não vô minh. Khi diệt được các pháp
tướng mê lầm, chỗ giác ngộ đã đến cùng tột, diệt trừ được phân
biệt ngã chấp, pháp chấp nên tâm bắt đầu có được pháp lạc nên
mới gọi là hoan hỷ địa tức là sơ địa.
2)
Ly cấu
địa
(Uimada): là giác vị lìa bỏ tâm sai lầm, phá giới, phiền não
cấu.
3)
Phát
quang địa
(Prabhàkari): đến đây Bồ-tát thấu biết tánh vô thường của tất cả
vạn vật trong thế gian vũ trụ nên nội tâm càng thanh tịnh thì
trí tuệ càng sáng suốt.
4)
Diệm huệ
địa
(Arcismati): trong giai đoạn này, Bồ-tát bắt đầu thực hành sự an
nhiên tự tại và cắt dứt những thứ ô nhiễm, vô minh. Đến giai vị
này hành giả đã lìa bỏ kiến giải phân biệt, dùng lửa trí tuệ
thiêu đốt củi phiền não nhờ đó mà ngộ được bản thể trí tuệ. Lúc
ấy trí tuệ được sáng suốt tỏ tường và dĩ nhiên sự giác ngộ được
viên mãn.
5)
Nan
thắng địa
(Sudurjayà): Đến đây, Bồ-tát bắt đầu phát huy tinh thần bình
đẳng đồng nhất và giác ngộ nhờ vào thiền định giúp Bồ-tát biết
thấu suốt tục đế và chân đế viên dung bất nhị.
Giác vị này đã thành tựu trí xuất thế gian, nương vào năng lực
phương tiện tự tại mà cứu độ các chúng sinh khó cứu độ.
6)
Hiện
tiền địa
(Abhimukhi): Khi vào được giai đoạn này, Bồ-tát sẽ trực diện với
thực tại và sẽ ý thức được sự đồng nhất của tất cả mọi hiện
tượng. Và bấy giờ Bồ-tát sẽ nhận biết rằng vô vi chân như hoàn
toàn không nhiễm, không tịnh, thường hằng hiện tiền tức là tự
tánh của chân như hiện rõ
có được đại trí.
7)
Viễn
hành địa
(Dùrangamà): Đến đây Bồ-tát có đủ dữ kiện để tiến vào giải thoát
Niết bàn, nhưng họ dừng lại vì còn trách nhiệm cứu giúp tất cả
chúng sinh cùng được giải thoát như mình. Họ biết rằng đến đây
tất cả đều là chân như, không có gì không phải là chân như, vô
cùng vô tận.
8)
Bất động
địa (Acalà):
Đến đây Bồ-tát thấu biết rốt ráo sự bất sinh của tất cả hiện
tượng vạn hữu trong thế gian. Khi đã trải qua “vô sanh pháp
nhẫn” Bồ-tát thấu biết sự tiến hóa và thoái hóa của nhân sinh vũ
trụ. Vì vậy, tâm Bồ-tát thường trụ không thay đổi, tuyệt đối
không bị phiền não làm lay động.
9)
Thiện
huệ địa
(Sàdhumti): Đến đây Bồ-tát có thể phát hiện ra vô số thân để hóa
độ chúng sinh với đấy đủ bốn trí vô ngại. Đó là Ý thức thành ra
Diệu Quan Sát Trí, tiền ngũ thức thành ra Thành Sở Tác Trí, Mạt
na thức trở thành Bình Đẳng Tánh Trí và A Lại da thức sẽ thành
Đại Viên Cảnh Trí.
Bồ tát dùng năng lực vô ngại để thuyết pháp, hoàn thành hạnh lợi
tha và trí tuệ được tự tại.
10)
Pháp vân
địa
(Dharmameghà): Khi Bồ-tát
công phu đầy đủ, công đức trí tuệ và từ bi viên mãn có thể che
chở cho vô lượng chúng sinh thì gọi là nhập vào Pháp vân địa tức
là Thập địa Bồ-tát vậy. Lúc ấy Bồ tát được đại pháp thân, có
năng lực tự tại.
Đến đây
Bồ-tát đã có đồng một giác tánh bình đẳng với Như Lai nên gọi là
Đẳng giác Bồ-tát. Sau cùng Bồ-tát chỉ cần giác ngộ sinh tướng vô
minh thì tức thì chứng được Nhân địa Như Lai tức là đạt được
Diệu giác. Bồ-tát chuyển Dị Thục thức thành ra Bạch Tịnh thức
rồi vào Kim Cương địa mà phát sinh Nhất thiết chủng trí, Nhất
thiết trí trí, tùy duyên hóa hiện, độ thoát chúng sinh mà không
rời tự tánh thanh tịnh Niết bàn cho đến tột đỉnh nhân quả đồng
thời là hoàn thành Phật đạo tức là thành Phật.
Đây là
lối biện chứng dựa theo tinh thần Mật tông của Vô Trước, Thế
Thân và Dược sư Long Thọ dựa theo hai bộ kinh Kim Cương và Đại
Nhật. Thế Thân là tác giả của Duy thức Nhị thập tụng và
Duy thức Tam thập tụng (Vimsatikà và Trimsikà-vijnịapti-kàrikà),
cùng một quyển nhỏ khác, nói về ba tánh của hiện hữu, tức tam tự
tánh (Trisvabhàva-nirdesa), hay còn gọi là Tam vô tự tánh luận
(Trinisvabhàva-sàstra). Trong khi đó Vô Trước là tác giả của Bồ
tát địa (Bodhisattvabhùmi), A-tì-đạt-ma Tạp tập luận
(Abhidharmasamuccàya), và Du-già sư địa luận
(Yogàcàryà-bhùmi-sàstra), viết theo quan niệm Duy thức.
Ðại diện
trường phái Duy thức tại Ấn Ðộ có Sthiramàti (An Huệ, sống
khoảng thế kỷ VI), vốn là đại đệ tử của Gunamàti, Ðức Huệ, người
sáng lập trung tâm Valabhì, trong khi Dharmapàla, Pháp Hộ
(530-591), người có công xác lập vị trí của trung tâm Ðại học
Nàlandà với khuynh hướng xiển dương Duy thức, là hai trung tâm
học thuật Phật giáo nỗi tiếng đương thời. Pháp Hộ chủ trương Duy
thức tuyệt đối, trong khi An Huệ có ý muốn dung hòa quan điểm
"thực tướng" của Nagarjuna (Long Thọ) với quan niệm "nhất thiết
duy tâm tạo" của Duy thức. Ngoài ra còn có đệ tử Thế Thân là
Dignàga (Trần Na), và đệ tử Trần Na là Dharmakìrti (Pháp Xứng);
cả hai dựa trên quan điểm nội hàm luận lý học của Thế Thân về
tương liên giữa nhận thức về đối tượng để xiển dương Nhân minh
học (Hetuvidyà), một phương pháp tranh luận bằng lý luận, logic.
Khi ngài Huyền Trang qua Ấn Độ ở tại Nàlandà tu học với cao tăng
Giới Hiền gần sáu năm, đến khi về lại Trung Quốc liền soạn ra
Thành Duy Thức Luận
(Vijnịapti-màtratà-siddhi), làm căn bản triết thuyết cho Pháp
Tướng tông Trung Hoa.
Bây giờ
Phật bảo:
-Trước
đây Như Lai há chẳng nói rằng, tất cả giáo pháp của Phật dạy đều
là phương tiện đưa đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đó sao?
Nhưng thôi, để cho người trí hiểu được Như Lai có cái thí dụ
này:
Trong
một xứ nọ, có ông trưởng giả giàu to của cải vô lượng,
nhưng tuổi đã già suy. Nhà của ông rộng lớn chứa rất nhiều
người, trong số có các con của ông, nhưng phải cái nguy là ngôi
nhà mục nát, cột kèo ngả đổ, vách phên xiêu xập, rắn rít rất
nhiều thêm nổi lửa cháy bốn bề mà lối ra thì chỉ có một cửa.
Ông
Trưởng Giả đứng ngoài lo sợ cho các con, nghĩ bụng rằng: Ta có
thể xong vào cứu chúng, nhưng nhớ đến cửa nhỏ hẹp, sợ các con
dùng dằng không đem ra được hết. Trong lúc nguy hại trước mắt
các con của ông cứ đùa giỡn vui chơi, không biết sợ sệt gì hết
và cũng không có ý muốn ra, vì không biết nhà cháy là gì, chết
cháy là gì, lửa là gì !
Ông
Trưởng Giả bèn lập kế, ông hô to: “Các con! Cha có những đồ chơi
đẹp lắm đây. Xe dê, xe hưu , xe trâu trắng, xe nào cũng đẹp đẽ
trang sức lộng lẫy, các con mau ra tự chọn lấy xe theo ý thích”.
Các con
ganh đua xô đẫy lẫn nhau kéo nhau chạy ra khỏi nhà cháy. Ông
Trưởng Giả rất mừng khi thấy các con được an ổn. Ở nơi ngã tư
đường không còn nguy hại.
Bây giờ
các con xúm lại đòi đồ chơi, với ước muốn riêng, xe dê, xe hưu
theo ý thích, nhưng ông Trưởng Giả chỉ ban cho các con đồng một
thứ xe lớn tốt đẹp vô cùng, đầy đủ tiện nghi trang hoàng lộng
lẫy. Vì sao, ông Trưởng Giả không cho ba thứ xe lớn nhỏ, tốt đẹp
khác nhau mà lại cho đồng một thứ xe tuyệt đẹp. Vì ông Trưởng
Giả quá giàu, kho tàng đầy ngập, của cải vô lượng!
Trong quá trình hoằng pháp độ sanh suốt cả đời đức Phật, Như Lai
sử dụng vô số phương tiện, vô số pháp môn, nhưng cứu cánh vẫn là
Vô thượng Bồ đề và chỉ có một con đường là nhất thừa Phật đạo.
Sở dĩ trong quá khứ đức Phật chỉ nói tam thừa chỉ vì chúng sinh
còn say mê cuộc sống dục vọng, làm nộ lệ cho vật chất, chìm đắm
trong tam giới cho nên Phật không thể đem chân lý liễu nghĩa tối
thượng thừa ra dạy được. Vì có dạy chưa chắc chúng sinh đã hiểu,
đã tiếp thu. Do vậy, đức Phật mới dùng phương tiện, dùng pháp
tiệm tu, tiệm ngộ và tiệm chứng để đưa từng chúng sinh đến chỗ
chứng đắc tạm thời, từng phần. Bây giờ khi căn cơ họ đã thuần
thục, Như Lai mới đem thứ giáo pháp “đệ nhất nghĩa đế” ra mà
dạy. Ở đây để làm sáng tỏ thâm ý của Phật, Ngài dùng thí dụ để
giải thích đạo lý này khiến người có trí tuệ nhờ đó mà lãnh hội
được. Lúc trước đức Phật từng thuyết giảng rằng mọi người hãy tự
thắp đuốc lên mà đi, hãy lấy Pháp của Ta làm đuốc, hãy theo pháp
của Ta mà tu giải thoát đó sao? (kinh Pháp Cú). Thâm ý của Phật
ở câu kinh trên là mỗi chúng sinh phải tự mình bồi dưỡng và phát
triển lấy Phật tánh của chính mình cho đến khi thành Phật. Nói
thế có nghĩa là trong quá khứ đức Phật đã từng ngụ ý kinh Pháp
Hoa rồi chớ đâu phải đến bây giờ Phật mới khai thị kinh này,
nhưng các vị A la hán không để ý đến mà thôi. Diệu Pháp Liên Hoa
là phải thấy tất cả mọi người là hoa sen, ai cũng có đầy đủ tất
cả giới, định, tuệ, đầy đủ lục độ vạn hạnh, đầy đủ trí tuệ
ba-la-mật. Vì ta là hoa sen, mọi người cũng là hoa sen nên từ
cái tri kiến về hoa sen đó sẽ chuyển hóa toàn diện những mối
tương quan giữa mình với người và với thế giới để cùng nhau trân
trọng, thương yêu và kính mến lẫn nhau bởi vì đạo Phật có mặt
trên thế gian này không ngoài mục đích nhắn nhủ cho đời rằng ai
cũng là những đóa hoa sen, là những vị Phật sẽ thành.
Bây giờ đức Phật đưa ra một thí dụ. Có ông Trưởng giả, chỉ cho
Phật, thấy các con mình, chỉ cho chúng sinh, đang vui chơi trong
căn nhà đang cháy, chỉ cho những cảnh thống khổ của sanh lão
bệnh tử, ưu bi khổ não trong tam giới. Vì thế có câu “Tam giới
bất an do như hỏa trạch” nghĩa là ba cõi không an ổn cũng giống
như căn nhà đang cháy. Ba cõi là dục giới, sắc giới và vô
sắc giới có đầy dẫy những cạm bẫy của tham sân si, những quyến
rũ của dục vọng và những khát vọng của ái dục lúc nào cũng sẵn
sàng thiêu đốt tâm gan của chúng sinh nên không bao giờ có an ổn
được chẳng khác nào như một căn nhà đang bừng cháy. Nếu chúng
sinh có sự vui chơi tức là có hạnh phúc thì những hạnh phúc tạm
bợ này đến rất nhanh khi duyên kết mà cũng biến mất khi nhân
duyên tan rã đó là chưa kể những hạnh phúc tạm bợ đó lại là
nguyên nhân của những lo âu phiền muộn sau này. Nói chung chúng
sinh còn ở trong dục giới tức là còn tùy thuộc vào dâm dục, thực
dục và tham dục hay chúng sinh còn đam mê vào vật chất, tiện
nghi của thế giới sắc giới hoặc chúng sinh còn gởi gắm tâm hồn
vào những thế giới ảo tưởng hoang đường của cõi vô sắc giới thì
họ không bao giờ được an ổn tự tại.
Nhà, chỉ cho tam giới và rộng là chỉ cho luân hồi không dứt. Một
cửa là ám chỉ nhất thừa Phật đạo. Ngôi nhà mục nát chỉ cho tam
giới vô thường, chúng sinh luân hồi trong tam giới không ngừng.
Cột kèo ngả đổ là chỉ cho mạng người chẳng lâu dài. Vách phên
xiêu xập là chỉ cho tứ đại (đất, nước, gió, lửa) không có chi là
bền chắc nên phải chịu sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi sầu não đến cả
cuộc đời. Lửa cháy bốn bề là chỉ cho tam khổ (khổ khổ là cái khổ
này chồng lên cái khổ nọ; hoại khổ là có sinh tất có hoại, vô
thường bất định; hạnh khổ là nỗi khổ phát sinh khi lục căn tiếp
xúc với lục trần làm dục vọng phát khởi), bát khổ (sanh khổ, lão
khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng
hội khổ, ngũ uẩn thiêu đốt) của chúng sinh. Vì có lửa phiền não
tùy thời tùy lúc nổi lên thiêu đốt mà sinh ra vô vàn thống khổ.
Tuy chúng sinh sống trong phiền não vô minh, nhưng họ không biết
tự mình mang lấy bao nỗi khổ nhọc nhằn nên cứ lấy khổ làm vui ví
như người chẳng biết chết cháy là gì cho nên thay vì chạy vào
trong nhà để cứu các con, ông Trưởng giả bây giờ chỉ đứng ở
ngoài mà dùng phương tiện, thí dụ để gọi các con của ông. Ông
Trưởng giả đem xe dê, xe hưu, xe trâu trắng với trang sức đẹp đẽ
lộng lẫy ra dụ các con của ông. Xe dê là chỉ cho Thanh Văn, xe
hưu là cho Duyên Giác, trung thừa, sức hưu mạnh hơn sức dê và xe
trâu trắng là cho Đại thừa, cũng như sức trâu mạnh có thể chở
được nhiều người. Các con ông tranh nhau ra khỏi nhà lửa là chỉ
cho chúng sinh đoạn khỏi tư hoặc, kiến hoặc, vô minh hoặc, chứng
thánh quả A la hán, Bích Chi Phật hay Bồ tát. Tuy các con của
ông đã ra khỏi nhà lửa nghĩa là nhờ tu theo Thanh Văn, Duyên
Giác và Đại thừa chúng sinh thoát khỏi phiền não vô minh chứng
đắc Niết bàn. Ở nơi ngã tư đường là ám chỉ cho Tứ Đế (Khổ, Tập,
Diệt, Đạo) và ngồi nơi đất trống là tuy chứng quả vị Niết bàn,
nhưng các vị A la hán không tiếp tục tu đạo cầu chứng quả vị Vô
thượng Bồ đề mà chỉ muốn an hưởng nơi hóa thành. Đây là muốn ám
chỉ hàng định tánh A la hán. Sau cùng ông Trưởng giả thay vì đem
những cổ xe dê, xe hưu, hay xe trâu để cho con mình thì bây giờ
ông mới đem một cổ xe lớn trang hoàng lộng lẫy uy nghi tặng
chúng. Cổ xe lớn nầy chính là nhất thừa Phật đạo. Và những gì
Phật nói trong kinh Pháp Hoa là thật trí diệu pháp chớ chẳng
phải là quyền pháp nữa. Vì thế Trí Khải Đại sư mới nói kinh Pháp
Hoa là “Thuần viên độc diệu” nghĩa là chỉ có kinh Pháp Hoa mới
là viên mãn diệu nhất.
Mới nghe chúng ta có cảm tưởng câu chuyện giống như câu chuyện
của trẻ con, không thật, nhưng xét kỷ lại thì câu chuyện này nói
đúng với tâm trạng và hoàn cảnh của chúng ta. Sống trong tam
giới, con người đang say mê với những cuộc vui tạm bợ, chúng ta
cố gắng tranh công đoạt chức, kiến tạo vun bồi cho ngày được
giàu hơn. Vì sự tranh chấp con người đưa đến bao cuộc chiến
tranh thảm khóc, giết hại vô số dân lành vô tội. Ngày nay tranh
chấp kinh tế còn tệ hại hơn chiến tranh vũ khí. Con người bày ra
biết bao bẫy rập để mưu cầu danh lợi về cho phe mình bất chấp sự
đau thương của kẻ khác. Những nhà độc tài chuyên vơ vét tài sản
cho mình càng thêm giàu sụ mặc tình người dân sống dở chết dở.
Đấy, chúng ta đang sống trong căn nhà lửa mà có ai tin, ai biết
đâu. Vì thế Phật muốn nói cũng chẳng ai tin nên ban đầu Ngài chỉ
dùng phương tiện để đưa chúng sinh ra khỏi căn nhà lửa rồi sau
đó mới chỉ cho con đường để đạt đến cứu cánh tối thượng Bồ đề
tức là thành Phật. Tóm lại, Phật ra đời không phải dạy chúng
sinh tu thành A la hán, Bích chi Phật hay thành Bồ tát mà phải
tu thành Phật giống y như Phật vậy. Chính phẩm Phương Tiện xác
định
rằng
“Chư Phật chỉ do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian”.
Đó là muốn cho chúng sinh “khai,
thị,
ngộ,
nhập Phật tri kiến”
nghĩa là đức Phật muốn
khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập cái
thấy biết của Phật và cũng chính là cái thấy biết của Pháp Hoa
vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh.
Đó là trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng có đầy đủ tri kiến
Phật, là trí tuệ bổn lai đều giống như Phật. Từ chỗ khai mở, chỉ
bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập cái tri kiến Phật này là nhận được
Phật nhân của mình và sau đó tu hành viên mãn để thành Phật là
thành Phật quả.
Đến đây,
đức Phật hỏi ông Xá-lợi-phất:
-Ông
Trưởng Giả trước hứa cho ba thứ xe, nay lại cho có một thứ, mà
là thứ lớn, đẹp nhất. Vậy ông Trưởng Giả có lỗi nói dối không?
Ông
Xá-lợi-phất đáp: “Dạ không. Giả như cho chiếc xe nhỏ và xấu
nhất, ông Trưởng Giả cũng không có lỗi nói dối, huống gì cho thứ
xe lớn và đẹp nhất. Vì sao? Vì việc hứa cho xe chỉ là một
sách lược, một cách phương tiện, nhằm cứu các con ra khỏi nhà
lửa đang ngùn ngụt cháy.”
Phật
pháp nhiệm mầu sâu thẳm cho nên trong suốt 49 năm hoằng pháp độ
sanh, có lúc Phật nói thật, có lúc Ngài nói quyền. Cũng như
trong kinh Duy Ma Cật, ông Trưởng giả Duy Ma Cật giả bệnh tạo
phương tiện để thính chúng đến thăm mà giảng pháp. Vì thế Phật
dùng phương tiện để giúp chúng sinh tỏ ngộ chân lý vì chân lý
không thể diển bày bằng ngôn ngữ văn tự của con người. Ông
Trưởng giả biết các con ham chơi và ưa thích đồ chơi quý đẹp nên
thay vì nói thật, ông dùng phương tiện để dụ các ông chạy ra
khỏi căn nhà đang cháy. Nhưng cái mà đem ra dụ thì không phải là
thật tức là nói quyền. Phật nói thẳng chúng sinh không tin,
không nghe nên Ngài phải dẫn dụ bằng cách này hay cách khác. Ở
đây cứu cánh vẫn là thành Phật cho nên đức Phật tạm thời dùng
phương tiện thiện xão để đưa chúng sinh có được giải thoát từng
phần, nhưng sau cùng Ngài vẫn không quên đưa chúng sinh đạt đến
cứu cánh tối thượng là viên thành Phật đạo tức là thành Phật.
Phật
khen:
-Đúng
vậy, Xá-Lợi-Phất! Như Lai là cha của tất cả thế gian. Tuy
đã ra khỏi thế gian vẫn vì sự lợi ích của thế gian mà trở vào
nhà lửa tam giới cũ mục nguy hiểm nầy để độ chúng sanh ra khỏi
nạn lửa sanh già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não, tham lam, hung
bạo, si mê, tắm mình trong biển độc hại khổ đau. Sống trong cảnh
khổ nhà cháy như thế mà chúng sanh vẫn cứ vui chơi hỉ hả, chẳng
hay mình đang bị lửa đốt, không sợ, không nhàm, không có ý cầu
ra khỏi.
Trong
việc cứu độ chúng sanh, Như Lai đã từng suy nghĩ: Đem trí tuệ
thần thông, giảng nói các tri kiến, trí lực, vô sở úy… của Như
Lai không thể được. Vì chúng sanh đang dong duỗi nô đùa trong
rừng vô minh tam độc, bị thiêu
đốt trong nhà lửa sanh, già, bệnh, chết, khổ não, ưu bi thì làm
gì nghe hiểu mà tiếp thu. Do vậy, Như Lai phải dùng phương tiện,
quyền lập pháp tu: Một là Thanh Văn thừa (xe dê). Hai là Duyên
Giác thừa (xe hưu). Ba là Bồ Tát thừa (xe trâu trắng). Đó là Như
Lai vận dụng phương tiện đáp ứng căn cơ của mỗi hạng chúng sanh.
Ông
Trưởng Giả cho đều các con mỗi đứa một cỗ xe to đẹp, khi chúng
ra khỏi nhà lửa. Như Lai cũng vậy, khi chúng sanh ra khỏi sự khổ
não, ưu bi, sanh, già, bệnh, chết, bất luận là Thanh Văn, Duyên
Giác, hay Bồ Tát, Như Lai bèn cho cái vui tuyệt đỉnh là: Thiền
Định, Trí Tuệ và Tri Kiến Phật… là những cỗ xe đưa đến Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng như ông Trưởng Giả kia, đức Phật
không phạm tội nói dối.
Xá-Lợi-Phất! Vì nhân duyên đó, các Như Lai dùng sức phương tiện:
chỉ có một Phật thừa, phân biệt nói thành ba.
Đức Phật
là bậc trí tuệ viên mãn, có đủ trí lực, vô sở úy, thần thông,
nhưng vì thương tất cả chúng sinh còn đang say mê chìm đắm ngũ
dục trong nhà lửa tam giới nên Ngài vì chúng sinh mà vào căn nhà
lửa để độ cho tất cả thoát khỏi ngọn lửa sanh, già, bệnh, chết,
ưu bi sầu não đang âm ỉ thiêu đốt con người. Con người càng đuổi
theo dục lạc thì càng bị lửa tham dục, lửa sân hận, lửa si mê
đốt cháy đau đớn vô cùng. Cũng như ông Trưởng giả thấy đàn con
đang say mê đùa giởn trong nhà
lửa nên ông phải dùng phương tiện dụ dỗ cho các đồ chơi quý báu
như xe dê, xe hưu, xe trâu trắng trang hoàng rực rở đẹp tuyệt
vời. Những người con nghe nói thế mới chạy ra và xin ông cho đồ
chơi tuyệt đẹp đó. Cái đạo lý ở đây là tuy các con ông ra khỏi
nhà lửa là đã thoát nạn mà không biết mình đã thoát nạn, vẫn còn
mang lòng tham, mong cầu đồ chơi quý đẹp. Con người chúng ta
cũng thế, tu hành mà cứ mong chứng đắc quả vị này, quả vị khác
hay phải vãng sanh vào thế giới cực lạc này hay cảnh thanh tịnh
khác tức là tu mà lòng tham càng tăng, không giảm. Họ đâu có
biết rằng khi con người xả ly mọi cố chấp, mọi loạn tưởng thì
tâm sẽ được an vui tự tại ngay tức là có Niết bàn rồi cần gì
phải cầu ở đâu nữa. Đó là “tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh”
rồi.
Cốt yếu
của phẩm Thí dụ là đức Phật chỉ cho tất cả hàng đệ tử tuy tu
theo Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa hay Bồ tát thừa biết
rằng đây chỉ là phương tiện lúc ban sơ để giúp họ ra khỏi căn
nhà lửa tức là tạm thời giải thoát ra khỏi sinh tử trầm luân.
Nhưng cứu cánh mà Phật muốn chỉ ở đây vẫn là nhất thừa Phật đạo
để đưa người tu thẳng đến Phật quả tức là thành Phật.
Các vị A
la hán, các vị Bích chi Phật hay các vị Bồ tát tu đến chỗ không
còn bị lửa vô thường, lửa tham sân si đốt cháy, nhưng đây chưa
phải là chỗ cứu cánh tột cùng. Bởi vì họ còn phải tiếp tục tu
đến chỗ thấy biết cái chân thật không hình tướng, không sanh
diệt, luôn thanh tịnh nhiệm mầu và nó vượt ra khỏi tầm hiểu biết
suy lường của con người. Đó chính là sự hiển lộ của chơn tánh
thanh tịnh hay Phật tánh của chính mình. Nhắc lại Phật dạy trong
kinh Pháp Hoa là mọi người đều có “Tri Kiến Phật tức là Phật
tánh giống y như Phật tức là nhận ra Phật nhân của mình, nhưng
tu đến chỗ Phật tánh hiển bày thì lúc đó mới thành Phật quả
được.
Giáo lý
Đại thừa nói rằng tu hành đến chỗ viên mãn thì không còn chấp
ngã, chấp pháp nghĩa là không còn thấy thân tâm này là ngã và dĩ
nhiên không còn có pháp để tu chứng tức là pháp không. Đến lúc
không còn có ngã, có pháp là được an trụ Niết bàn tịch diệt. Đến
đây có người thắc mắc rằng nếu không còn ngã nghĩa là không còn
mình, vậy ai an trụ Niết bàn? Không còn pháp tức là không có
Niết bàn, vậy tu đến chỗ tịch diệt thì chỗ tịch diệt đó có phải
là hư không chăng bởi vì vô ngã, vô pháp tức là không người,
không vật? Vô ngã, vô pháp không có nghĩa là không có mình,
không có thế gian vạn hữu. Nếu tu để trở thành hư không, vô tri
thì tu để làm gì, phí cả cuộc đời. Đạo Phật dạy chúng sinh giáo
lý vô ngã, vô pháp là để chúng sinh “đừng chấp thật” mà dính mắc
lao đầu vào căn nhà lửa. Do đó, vô ngã, vô pháp là tuy mình có
đó, vạn pháp vẫn sờ sờ ra đó, nhưng vẫn xem nó là không nên lòng
thênh thang nhẹ nhàng thanh thoát, không làm nô lệ cho cái ta
giả tạm, không sống chết cho tài sản vô thường, không bị lửa
tham sân si đốt cháy. Vì không còn lửa tham sân si đốt cháy nên
tâm trở thành thanh tịnh, nhẹ nhàng tự tại tức là có Niết bàn.
Một khi diệt được tất cả ý niệm sinh diệt thì Tịch Diệt hiện
tiền nghĩa là tự tánh Bồ đề hiển hiện tức là có được Thường Chân
Thật vậy. Thể tánh, chơn như
là vô hình, vô tướng
nên làm sao đặt tên cho nó được vì thế mà trong kinh Lăng
Nghiêm, đức Phật tạm gọi nó là chơn tâm. Kinh Pháp Hoa thì gọi
là tri kiến Phật, Phật tánh trong kinh Đại Niết Bàn, Trí huệ
Phật trong kinh Hoa Nghiêm…
thiền tông gọi nó là “Bản lai diện mục”, Lục Tổ gọi nó là “Vô
nhất vật”. Vì “không một vật” nên cái Phật tánh này không hề bị
khách trần phiền não làm ô nhiễm. Con người vị chạy theo trần
cảnh, sáu căn luôn dính mắc sáu trần nên quên đi cái tánh giác,
Phật tánh sáng suốt của mình. Nhưng tuy bị lãng quên tánh giác
vẫn luôn sáng soi chiếu rọi qua sáu căn mà con người không bao
giờ để ý đến. Vì thế nếu chúng sinh quay về hồi quang phản
chiếu, soi sáng tự tánh để sống với chơn tánh hằng sáng của mình
thì vô minh tan biến, phiền não tiêu trừ.
Giáo lý
Đức Phật là đơn giản, không phức tạp, dễ áp dụng, nhưng thực
hành để thành tựu trí tuệ Bồ-đề thì không dễ,
đòi hỏi hành giả phải có một ý chí sắc đá để viễn ly. Viễn ly
những thói hư tật xấu, viễn ly những tham đắm dục tình, viễn ly
những tham vọng đê hèn, viễn ly những ý nghĩ bất thiện…
Càng viễn ly thì con người càng gần với an lạc thanh tịnh Niết
bàn. Do đó toàn bộ giáo lý Đức Phật chỉ là phương tiện mà thực
chứng chân lý mới là cứu cánh. Đức Phật dạy chúng sinh đời là bể
khổ vì Ngài thấy biết như thế, nếu Đức Phật là đấng thần linh
thì Ngài chì cần niệm “Úm ba di bát nhị hồng” rồi phảy cái phất
trần thì thế gian làm gì còn đau
khổ. Biết đời là bể khổ, con người lặn hụp trong biển trầm luân,
nhưng chính Ngài không thể hóa giải nỗi khổ của chúng sinh mà
mỗi người phải tự mình giải thoát ra khỏi mọi gông cùm của phiền
não khổ đau mà giáo lý Đức Phật chính là tấm hải đồ giúp chúng
sinh đến được bờ an lạc.
∆
TOP |
NEXT
|