Phẩm
TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT
Phẩm này còn được gọi là Bồ Tát Tùng Địa
Dũng Xuất, diễn tả những hiện tượng lạ lùng, đó là việc hàng sa
Bồ Tát từ dưới đất vọt lên. Một lần nữa xin nhắn lại đây là thể
kinh Vị Tằng Hữu nghĩa là diễn bày những hiện tượng hiếm có,
chưa từng thấy để diển bày một triết lý sâu kín ẩn bên trong chớ
Phật hay Bồ Tát không làm ảo thuật hay thần thông biến hóa gì
trong đoạn kinh này cả.
Trong kinh điển Phật giáo, chữ Địa thường
được dùng để ám chỉ cho tâm. Đất là do chữ Địa nên đất là Tâm vì
thế mới có danh từ Tâm Địa tức là cõi đất tâm của chúng sinh cho
nên nói người nầy tâm địa tốt và người kia tâm địa xấu là vậy.
Tất cả muôn vạn sinh vật có sinh tồn cũng do đất. Cho nên đức
Phật cũng dạy rằng: ”Hãy học các hạnh của đất. Dù con
người có dẫm đạp, đổ lên đất những thứ nhơ bẩn hôi tanh hay rưới
xuống đất hương hoa thơm tho tinh khiết, đất cũng an nhiên không
giận, chẳng mừng. Biết được như thế sẽ không còn bị mọi cảm thọ
bám vào. Biết nhìn cảm thọ như đối tượng bị nhìn thay vì đồng
hóa mình với cảm thọ thì sẽ luôn thanh thản an nhiên trước mọi
sự”. Cây cỏ, ruộng lúa, hoa quả… cũng do đất sinh ra ví
như những tư tưởng thiện ác, tốt xấu đưa con người lún sâu vào
vòng sinh tử khổ đau hoặc hướng về cảnh giới giải thoát giác ngộ
đều do Tâm tạo.
Trong kinh Duy Ma Cật có đoạn nói rằng: “Khi
ấy Phật lấy ngón chân nhấn xuống đất, tức thì cõi Tam thiên đại
thiên thế giới liền hiện ra bao nhiêu trăm nghìn thứ trân bảo
trang nghiêm rực rỡ, như cõi Vô Lượng Công Đức Bảo Trang Nghiêm
của Phật Bảo Trang Nghiêm”.
Đức phật lấy ngón chân nhấn xuống đất có ý là
muốn nhắn nhủ với chúng sinh phải đè ép cái tâm của mình xuống
đừng cho vọng động nổi lên bởi vì tâm yên thì mới có Định. Tâm
định thì trí tuệ sẽ phát sinh. Có trí tuệ thì tâm sẽ thanh tịnh
và có cõi Phật thanh tịnh. Phật bây giờ nhắc ngón chân lên khỏi
mặt đất có nghĩa là nếu con người không còn đè chặt cái tâm
xuống thì vọng thức mê lầm tha hồ dấy khởi. Tâm bây giờ không
còn Định nữa cho nên cõi Thanh tịnh biến mất và thế giới bất
tịnh, ô nhiễm hiện lại như xưa.
Lúc bấy giờ,các Bồ-tát, nguyên từ các
nước phương khác lại, đông hơn cát của 8 sông Hằng, ở trong đại
chúng, đồng đứng dậy chấp tay bạch Phật:
-Thế Tôn! Nếu Thế Tôn nhận lời,
chúng con nguyện, sau khi Phật diệt độ, sẽ rộng nói kinh Pháp
Hoa ở thế giới Ta Bà, để gia tăng tinh tấn và hộ trì những người
đọc, tụng, sao, chép, cúng dường kinh này.
Phật đáp:
-
Thôi khỏi. Này
thiện-nam-tử! Không cần các ông hộ trì kinh này. Vì sao? Vì thế
giới Ta Bà của ta tự có Bồ-tát đông như cát của sáu muôn sông
Hằng. Những Bồ-tát và quyến thuộc ấy, sau khi ta diệt độ, sẽ có
khả năng giữ gìn, đọc tụng, rộng nói kinh này.
Tại sao đức Phật từ chối lời thỉnh cầu của
những vị Bồ Tát ở những thế giới khác muốn thọ trì, sao, chép
kinh Pháp Hoa ở cõi Ta Ba này? Đức Phật dạy rằng Bồ Tát ở thế
giới Ta Bà này nhiều hơn sáu muôn sông Hằng, thế thì con số này
Phật có nói quá chăng? Bồ tát ở đâu mà nhiều đến thế?
Chủ đích của đoạn kinh này nhằm xiễn dương
cái cốt lũy của đạo Phật là tinh thần và khả năng tự giác của
mỗi chúng sinh chớ không tùy thuộc vào tha lực bên ngoài. Vì thế
toàn bộ giáo lý Phật Đà là khuyến khích chúng sinh hồi quang
phản chiếu, quay vào trong để phát huy tự lực ngỏ hầu trực nhận
bản tâm của mình. Đó là “Cầu nhân bất như cầu kỷ” nghĩa là mong
cầu ở người rất khó khăn cho nên tốt nhất là cầu nơi chính mình
tức là tự lực tự cường. Đạo Phật là đạo tự giải thoát, ai ăn
người đó no, ai uống nước người đó hết khát cho nên không có vấn
đề cầu nguyện van xin trong Phật giáo. Trong kinh Thủ Lăng
Nghiêm có đoạn Phật hỏi A Nan rằng khi đức Phật ăn thì đại chúng
có no được chăng? Dĩ nhiên là không! Phật độ trong Phật giáo
không có nghĩa là mình cầu nguyện thì Phật sẽ ban cho mà Phật độ
là Phật ban cho ta tấm hải đồ và từ đó chúng ta sẽ nương theo
sóng mà trở về bờ an vui tự tại. Đức Phật đã cho ta giáo lý
nhiệm mầu còn áp dụng để có an lạc hay không là tùy ở chúng sinh
ví cũng như có người tặng cho ta một cái máy GPS, nhưng cầm
trong tay chiếc máy không có nghĩa là chúng ta đã đến được nơi
mình muốn đến. Nếu Phật có thể độ thì La Hầu La, Dì Mẫu và Công
chúa Gia Du Đà La cần gì phải xuất gia, nhưng ai tu người ấy
chứng vì thế La Hầu La cũng phải tự mình tu chứng để có giải
thoát giác ngộ chớ Phật không độ cho Tôn giả được. Vì thế câu
“Nhất nhơn chứng, cửu huyền thăng” nghĩa là một người tu chứng
thì độ cho cả dòng họ là không đúng với giáo lý Phật Đà vì một
người ăn thì người khác không thể no được. Con người vì ỷ lại
nơi tha lực hữu hạn mà quên rằng trong họ có năng lực vô hạn vì
thế nếu biết sử dụng cái năng lực quý báu này thì sẽ vượt qua
hết mọi khó khăn trở ngại trong cuộc đời.
Ngày xưa, đức Phật học đạo với hai vị Thiền
sư Alarama Kalama và Uddaka Ramaputta và tu chứng được những cấp
thiền Phi tưởng Phi phi tưởng xứ định, nhưng Ngài vẫn không thỏa
mãn vì những cấp thiền tưởng đó không giúp Ngài thoát khỏi sinh
già bệnh chết. Sau cùng Ngài từ bỏ họ và đến ngồi dưới cây Bồ
Đề. Suốt 49 ngày đêm thiền quán, Ngài hoát nhiên đại ngộ, chứng
tam minh, đạt lục thông và tìm ra chân lý thoát ly sinh tử luân
hồi. Do đó cái đạo Ngài học do hai vị Thiền sư là Hữu sư trí tức
là cái trí do thầy dạy mới có. Còn chân lý lìa sinh tử thì do
chính Ngài tu thiền định mà khám phá ra thì cái trí tuệ này là
Vô sư trí tức là cái trí tuệ nơi mình phát hiện chớ không phải
do huân tập sự hiểu biết từ bên ngoài. Đức Phật đã xác định rằng
mỗi chúng sinh đều có sẵn Vô sư trí mà thường gọi là Căn bản
trí, bất sinh bất diệt thường hằng trong sáng mà con người bỏ
quên để chạy theo Hữu sư trí tức là phân biệt trí sinh diệt. Vì
thế nếu chúng sinh tin tưởng vào khả năng tự giác của mình nghĩa
là quay về để bồi dưỡng trí tuệ, loại bỏ cho hết tập khí ngã
mạn, đốn sạch cái gốc tham sân si thì Căn bản trí tức thì hiển
lộ, chơn tánh hiển bày. Thế thì đạo Phật dạy chúng sinh tự mình
định đoạt số mệnh của mình, chớ không do ai khác. Chính mình
phải phát huy cái tinh thần tự lực, tự giác vì vậy tinh thần
Pháp Hoa cũng không ngoài mục đích khuyến khích chúng sinh phát
huy cái Tri Kiến Phật vốn có của mình, cái tự tánh thanh tịnh
Niết bàn ở trong ta.
Số Bồ Tát đông hơn cát của sáu muôn sông Hằng
mà Phật muốn nói ở đây là Bồ Tát tâm của chúng ta đó. Nó thiên
biến vạn hóa trùng trùng điệp điệp vì tâm không có ngằn mé, bao
la vô cùng vô tận. Tuy mỗi chúng sinh đều có Bồ Tát tâm, Bồ Tát
hạnh, nhưng nếu đức Phật không khai thị chỉ bày thì chính họ
cũng không hề biết mình có những đức hạnh cáo quý đó. Cũng như
trong mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng đâu có ai biết và
sử dụng cái Phật tánh thiêng liêng của mình nên suốt cuộc đời cứ
mãi sống trong điên đão khổ đau.
Lúc Phật nói lời này, trong ba ngàn thiên
quốc-độ ở thế giới Ta Bà, đất đều rúng nứt và từ trong lòng đất,
vô lượng ngàn muôn ức Bồ-tát đồng thời vọt lên. Các Bồ-tát ấy,
thân như vàng ròng, đầy đủ 32 tướng tốt, sáng ánh khôn lường,
trước kia trú trong hư không ở chỗ thấp nhất của thế giới Ta-bà,
này nghe tiếng của Phật Thích Ca, nên từ chỗ thấp ấy mà xuất
hiện đến. Mỗi mỗi Bồ-tát đều là bậc thủ lãnh dẫn đường cho đại
chúng và mỗi vị đều có hoặc 6, hoặc 5, 4, 3, 2, và một muôn Hằng
sa quyến thuộc, hoặc một hằng hà sa, nửa hằng hà sa, một phần
hằng hà sa hay một phần trong ngàn ức na-do-tha phần hằng-hà-sa,
hoặc từ ngàn muôn ức na-do-tha sụt lần xuống cho tới một muôn,
một ngàn, một trăm, mười, năm, bốn, ba, hai, một quyến thuộc đệ
tử. Lại cũng có những Bồ-tát chỉ có một mình, thích hạnh “ viễn
ly”. Tất cả các Bồ-tát ấy đông vô số kể.
Khi Phật nói rằng trong thế giới Ta Bà này có
vô vàn Bồ Tát thì tức thì mặt đất rung động nghĩa là tâm địa của
con người bắt đầu chuyển biến, bừng tỉnh ngộ để nhận biết rằng
tâm Bồ Tát của mình lúc nào vẫn có mà ta không hề hay biết bởi
vì đất là tâm cho nên đất chuyển động tức là tâm đang chuyển
động. Vì thế kinh Hoa Nghiêm mới dạy rằng “Ưng quán pháp
giới tánh, nhất thiết do tâm tạo”. Khi tâm con người
chạy theo tham đắm dục tình, làm nô lệ cho phiền não vô minh thì
tâm của ta là tâm ở thế giới Ta bà. Ngược lại nếu chúng sinh
diệt trừ hết vô minh phiền não, tâm không còn dính mắc nơi tài
sắc danh lợi thì tâm của ta bây giờ đang ở trong thế giới cực
lạc. Vì vậy kinh Duy Ma Cật có câu “Tùy kỳ tâm tịnh tắc
Phật độ tịnh” nghĩa là hễ tâm mình thanh tịnh thì nơi
ấy là cõi Phật thanh tịnh chớ đừng mơ ước ảo huyền trong chờ về
thế giới cực lạc này hay cõi thanh tịnh nọ mà tự mình không
thanh lọc nội tâm cho được trong sáng. Phật dùng “quyền hiển
thật” cho nên đừng chấp phương tiện mà hãy nhìn vào cứu cánh thì
mới thấy được thâm ý của Phật.
Các Bồ Tát thân như vàng ròng. Vàng ròng là
tượng trưng cho sự toàn vẹn, không có trộn lẫn với bất cứ thứ
kim loại nào khác. Tánh chơn thường bất hoại của vàng ròng là để
ám chỉ cho đức tánh tự giác vốn sẵn có trong mỗi chúng sinh.
Cũng như Bồ Tát tâm, Bồ Tát hạnh đã sẵn có ở trong trong tâm của
tất cả mọi người. Đức tánh tự giác đó khi chúng sinh mê thì nó
không mất và khi họ thức tỉnh giác ngộ thì nó cũng vậy, không
phải là mới có. Nó lúc nào cũng có tức là bất hoại chân thường
ví cũng như vàng ròng vậy. Vì vậy mà thân Phật hay Bồ Tát thường
gọi là “thân kim sắc”.
Chúng sinh lúc nào cũng có đủ đức tánh Bồ Tát
tâm, Bồ Tát hạnh thế mà tại sao họ vẫn còn chìm trong cảnh
khổ? Tuy chúng sinh có đầy đủ những đức tánh đại từ đại bi đó,
nhưng hằng ngày họ bị sai sử bởi phiền não vô minh nên những đức
hạnh cao quý này không hiển bày được cũng ví như vàng còn trộn
trong sỏi đá nên không thấy. Tuy không thấy, không biết, nhưng
chất vàng đâu có mất.
Khi tâm của con người chứa đầy phiền não vô
minh thì đất tâm của họ bây giờ trở thành đất của cõi Ta Bà tức
là uế trược, đau khổ. Ngược lại nếu tâm của ta thật thanh tịnh
thì tâm địa sẽ trở thành đất của cõi cực lạc. Do đó cũng cái tâm
đó mà có lúc thành Ta Bà, có lúc thành tịnh độ. Thí dụ nếu để
tâm chạy theo vui mừng, hờn giận, hơn thua, phải quấy, tốt
xấu…thì cái tâm này là tâm địa ở thế giới Ta Bà. Còn nếu biết
tri túc thiểu dục, không chạy theo sắc, tài, danh, lợi thì cái
tâm bây giờ trở về với tự tánh thanh tịnh tức là thế giới tịnh
độ, an lạc. Nên nhớ rằng không nhất thiết nghèo mới khổ, còn
giàu sang thì được hưởng sung sướng. Thói thường càng giàu có
thì càng cưu mang thêm ưu phiền vì con người phải lo giữ gìn cái
giàu có của mình, lo sợ nó biến mất nên vật chất tuy có sung
mãn, nhưng tinh thần căng thẳng tính toán lo lắng rất nhiều. Ở
Hoa Kỳ có biết bao tỷ phú, triệu phú, nhưng sự giàu có của họ là
dựa trên thị trường cổ phần mà giá cổ phần thay đổi từng giây,
từng phút nên ông bà tỷ phú, triệu phú nào cũng lo lắng,
ưu phiền chớ thật sự có sung sướng như bề ngoài đâu. Từ ngày
biến cố 11 tháng 9 năm 2001, thị trường chúng khoáng xuống rất
thấp khiến cho biết bao người trở thành trắng tay, không thể về
hưu được. Đó chưa kể làm giàu bằng hành vi bất chánh, lừa đảo
thì tuy trong tay có tiền, nhưng lòng lúc nào cũng lo sợ, bị
lương tâm cắn rứt thì ai bảo đây là hạnh phúc? Ngược lại người
nghèo quá chạy cơm ngày hai bửa cũng khổ. Khổ là vì lo để có cho
nên tinh thần cũng căng thẳng. Do đó người vừa biết đủ là có
hạnh phúc, không cần lo lắng sợ mất mà cũng chẳng quan tâm đến
việc tạo thêm. Cho nên:
v
Đa dục vi khồ
v
Sanh tử bì lao
v
Tùng tham dục khởi
v
Thiểu dục vô vi
v
Thân tâm tự tại.
Vì thế biết đủ, sống hạnh phúc với những gì
mình có, không tham vọng nhiều, không làm gì trái với lương tâm,
đạo đức gia đình trên thuận dưới hòa thì đây không là tịnh độ,
là cực lạc thì là gì?
Các Bồ Tát trú trong hư không ở chỗ thấp nhất
của thế giới Ta Bà là vì con người hằng ngày sống trong trong
thế giới Ta Bà này luôn chạy theo vô minh phiền não làm che lấp
tâm thanh tịnh nên không biết mình có hằng sa số Bồ Tất tâm, Bồ
Tát hạnh. Vì thế tuy chúng sinh có những đức hạnh rất cao quý mà
không biết chẳng khác nào Bồ Tát ở những nơi thấp nhất trong tâm
của ta. Do đó khi những ô trược như Kiến Hoặc, Tư Hoặc không còn
nữa tức là tiếng nói của Phật Thích Ca thì những Bổ Tát đó mới
xuất đầu lộ diện. Bồ Tát có rất đông quyến thuộc là muốn nói
rằng một khi tâm chúng ta phát khởi những niệm lành thì từ đó nó
biến hóa thành ra nhiều phương thức rất huyền diệu để làm lợi
ích cho chúng sinh. Phật giáo Đại thừa luôn khuyến khích chúng
sinh phát triển tâm đại từ bi để cứu giúp kẻ khác cho nên Bồ Tát
một khi đã biết mình có Bồ Tát tâm, Bồ Tát hạnh thì họ sẽ hoạt
động tích cực không ngừng nghĩ để cứu giúp muôn loài.
Từ dưới đất vọt lên rồi, các Bồ-tát ấy
đều đến ngọn tháp bảy báu nhiệm mầu trên hư không, là chỗ Phật
Đa Bảo và Phật Thích Ca đang ngự, vập đầu xuống chân làm lễ, rồi
lại đến toà sư tử, dưới cội báu, chỗ Phật ngồi mà làm lễ. Xong,
các vị đi quanh bên mặt Phật ba vòng, rồi chấp tay cung kính
chiêm ngưỡng Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca.
Khi tâm chúng sinh thanh tịnh tức là từ đất
vọt lên hư không và sau đó đến ngọn tháp báu để đảnh lễ Phật
Thích Ca và Phật Đa Bảo. Kinh Pháp Hoa xác định rằng cứu cánh
tối thượng của người tu hành là thành Phật vì thế sau khi Bồ Tát
vọt lên khỏi mặt đất tức là con người bây giờ đang sống với Tri
Kiến Phật tức là họ đang đối diện với Thỉ giác là Phật Thích Ca
và Bổn giác là Phật Đa Bảo. Nói cách khác khi con nguời đạt đến
trí tuệ viên mãn nghĩa là Thỉ giác là trí tuệ có được nhờ tu
tập, thể nhập với Bổn giác là cái giác tánh vốn có của mình. Vì
thế tuy nói Bồ Tát diện kiến hai Như Lai nhưng thực chất là một
tức là Bổn Phật. Nhờ Thỉ giác mà thấy được Bổn giác nghĩa là nhờ
công phu tu tập thiền định mà thấy được cái Căn bản trí (Bổn
giác) thường hằng bất biến ở trong ta. Thế thì Bổn Phật là cái
đích tối thượng, là cứu cánh sau cùng của người đi trên con
đường giải thoát giác ngộ.
Từ lúc các Bồ-tát xuất hiện cho đến khi
làm lễ xưng tán Phật, một khoảng thời gian trôi qua, lâu năm
mươi tiểu kiếp.
Bấy giờ đức Thích Ca ngồi yên nín lặng
bốn hạng đệ tử cũng đều nín lặng. Nhờ sức thần Phật, đại chúng
thấy 50 tiểu kiếp trôi qua như nửa ngày. Cùng một lúc và cũng
nhờ sức thần Phật, bốn chúng thấy Bồ-tát đầy khắp hư không của
vô lượng ngàn muôn ức quốc độ.
Đến đây kinh đang nói đến thế giới của bản
thể chân như bất sinh bất diệt nên trong đó không có khái niệm
của không gian và thời gian. Thời gian và không gian là cho thế
giới hữu vi vì con người dựa trên hình thể và sự xoay vần biến
đổi của các hành tinh mà suy diễn ra thời gian. Cho nên thời
gian không cố định, một ngày trên cung trăng rất dài hơn một
ngày trên địa cầu. Một kiếp ở thế giới Ta Bà chỉ bằng một ngày
trong những thế giới khác. Nói chung thời gian là những quy ước
cụ thể do con người đặt ra như ngày, tháng, năm. Rồi từ đó mới
có quá khứ, hiện tại và vị lai. Thập Huyền Duyên Khởi là mười sự
duyên khởi huyền diệu của tất cả vạn pháp trong thế giới hữu vi
này được giải thích trong kinh Hoa Nghiêm thì “Mười Đời Cách
Pháp Dị Thành” như sau:
-Thời gian mặc dù cách biệt nhau từ quá khứ
đến hiện tại qua tương lai, nhưng chính nhờ thế mà các pháp được
thành tựu một cách dễ dàng. Đáng lẽ ra chỉ nói quá khứ, hiện tại
và tương lai là đủ, nhưng muốn chia một cách rốt ráo, tinh vi
thì kinh chia làm mười đời. Đó là trong quá khứ cũng gồm có quá
khứ, hiện tại, vị lai, trong hiện tại và tương lai cũng thế. Như
vậy có tất cả chín đời, nhưng nếu chia nhỏ như thế mà không có ý
niệm tổng quát so sánh liên hệ với nhau thì cũng không có ý niệm
với thời gian. Vì thế cho nên ngoài chín niệm riêng biệt cộng
thêm một niệm tổng quát thành ra mười.
Khi nhìn thấy một vì sao ở trên không trung
thì chúng ta thường nghĩ rằng mình đang thấy vì sao đó. Nhưng
trên thực tế thì ánh sáng từ hành tinh đó
phải cần đến mấy ngàn năm ánh sáng mới đến được địa cầu để mắt
con người nhận thấy biết vì khoảng cách giữa địa cầu và hành
tinh đó rất xa có thể dài tới mấy tỷ cây số. Thế thì khi mắt
mình thấy vì sao đó thì cái thấy lúc bấy giờ là cái thấy của mấy
ngàn năm trước chớ đâu phải thấy bây giờ. Do vậy mắt thì mới
nhìn thấy vì sao, nhưng biết đâu vì sao đó mà chết từ lâu rồi,
đâu còn nữa. Vậy thời gian nào là thời gian thật?
Tóm lại, khi quán thế gian là huyễn hóa thì
khái niệm về thời gian không còn nữa cho nên hành giả Pháp Hoa
luôn sống trong tỉnh giác, với Tri Kiến Phật vĩnh hằng bất tử
thì thời gian trở thành vô nghĩa.
Trong số Bồ-tát ấy, có bốn vị đứng đầu:
1. Thượng-hạnh; 2. Vô-biên-hạnh; 3. Tịnh-hạnh; 4. An-lập-hạnh.
Mặc dầu số Bồ Tát rất nhiều, nhưng đứng đầu
mỗi hạnh có một vị:
v
Thượng hạnh: Hạnh của bậc thượng
nhơn nghĩa là phải thường tư duy và hành động trong chiều hướng
trong sáng, cao thượng và dĩ nhiên cùng hướng về giải thoát giác
ngộ.
v
Vô biên hạnh: Công hạnh rộng lớn
vô cùng vô tận. Bồ Tát lấy việc hoằng dương chánh pháp và lợi
ích cho chúng sinh làm cứu cánh. Như thế Bồ Tát mới có thể trong
thì phá chấp ngã và ngoài thì phá chấp pháp, trong ngoài tự tại.
v
Tịnh hạnh: Hạnh thanh tịnh. Muốn
phát triển hạnh thanh tịnh đến mức cao độ, Bồ Tát phải thực hành
Bát Chánh đạo thật rốt ráo. Đó là phải thấy biết chân chính, tư
duy chân chính, nói lời chân chính, hành động chân chính, sống
đời chân chính, siêng năng chân chính và định tâm chân chính. Có
thực hành Bát Chánh đạo rốt ráo thì những trói buộc của Thập
triền, Thập sử sẽ bị hóa giải đưa hành giả đến chỗ thanh tịnh,
nhẹ nhàng thanh thoát.
v
An lập hạnh: Hạnh đứng rất vững
chắc. Bồ Tát lấy giải thoát giác ngộ làm cứu cánh tiến tới.
Đồng chấp tay nhìn đức Thích Ca, bốn vị
kính hỏi:
-Bạch Thế Tôn ! Thế Tôn có được ít bệnh,
ít buồn, và được an vui không? Những người đáng độ, có thọ giáo
dễ không? Họ không có làm cho Thế Tôn mệt nhọc chứ?
Thế Tôn nói:
-Đúng
thế ! Đúng thế ! Này các thiện nam tử, Như Lai an vui, ít bệnh,
ít buồn, các hàng chúng sanh dễ mà hoá độ, không có mệt
nhọc. Tại sao thế? Vì những chúng sanh ấy, từ trước đến nay, đời
đời thường được ta hoá độ cho và chính họ cũng đã cung kính
tôn trọng chư Phật trong thời quá khứ và trồng các gốc lành. Các
chúng sanh ấy, thấy thân ta, nghe tiếng ta nói, là liền tin lãnh
và nhập vào tuệ Phật, trừ những người trước đã tu tập theo Tiểu
thừa. Đối với hạng người này, ta cũng sẽ khiến cho nghe được
kinh Diệu Pháp Liên Hoa và đi vào tuệ Phật.
Mỗi khi kinh điển Đại thừa dùng chữ Như Lai
là ám chỉ chỉ Pháp thân thường trụ vĩnh hằng chớ không phải nói
đức Phật lịch sử, là ứng thân Phật vào thế giới Ta Bà. Vì Như
Lai hiện hữu từ vô thỉ đến vô chung nên không có lúc nào mà
không có Như Lai giáo hóa chúng sinh. Tuy Như Lai và Tri Kiến
Phật của chúng sinh là một không khác, nhưng căn cơ chủng tánh
chúng sinh không đồng nên sự giáo hóa của Như Lai có khác. Vì
thế nếu chúng sinh làm nhiều việc thiện nghĩa là Như Lai đã giáo
hóa cho chúng sinh đó nhiều. Như Lai chính là Như Lai Viên Giác
Diệu Tâm mà mỗi chúng sinh đều có sẵn cái tâm huyền diệu tròn
đầy này. Ngay cả những người thuộc hàng Thanh Văn thì Như Lai
cũng giáo hóa khiến cho họ nghe được kinh Diệu Pháp Liên Hoa và
hoàn thành Phật đạo tức là thành Phật.
Lúc bấy giờ Bồ-tát Di Lặc cùng tám ngàn
hằng sa Bồ-tát trong Pháp hội đều thầm lấy làm lạ việc vô số
Bồ-tát đã từ đất vọt lên. Muốn giải nghi cho tất cả và cho riêng
mình, Bồ-tát Di Lặc bạch Phật:
-Nguyện Thế Tôn cho chúng con biết, vô
lượng Bồ-tát này từ đâu mà đến và nhóm họp để làm gì? Ai đã
thuyết pháp giáo hoá cho các vị? Các vị theo ai mà phát tâm, đã
thọ trì và thực hành kinh điển thế nào? Lại tu tập Phật đạo nào
mà có sức trí thần thông to lớn như thế? Bạch Thế Tôn, chúng con
chưa từng thấy một việc như vậy. Con thường đi qua nhiều nước,
gặp gỡ nhiều người, chưa hề biết một vị trong số Bồ-tát ấy. Vậy
kính xin Thế Tôn nói cho con biết các Bồ-tát ấy ở nước nào đến
mà hốt nhiên từ đất vọt lên.
Bồ Tát mà ngài Di Lặc nói ở đây là Bồ Tát
hạnh và Bồ Tát tâm ở những nơi thấp nhất của thế giới Ta Bà thì
làm sao Bồ Tát Di Lặc thấy hay gặp được. Đây là những Bồ Tát ở
trong đất tâm của tất cả chúng sinh nên bên ngoài không thể nào
thấy được. Thế nhưng khi con người mở rộng tâm từ bi làm lợi ích
cho chúng sinh thì những Bồ Tát này tức thì phát hiện để giúp họ
hoàn thành những hạnh nguyện đó.
Cùng lúc ấy, các phân thân Phật Thích Ca
từ vô lượng muôn ngàn ức cõi khác đồng đến ngồi xếp bằng
trên toà sư tử, dưới các cội cây báu trong tám phương. Những thị
giả của các phân thân Phật Thích Ca cùng bạch hỏi về lai lịch
của các Bồ-tát từ đất vọt lên. Chư phân-thân Phật đáp:
-Bồ-tát
Di Lặc đã hỏi Phật Thích Ca. Phật sẽ đáp. Vậy hãy chờ!
Khi ấy Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ-tát Di
Lặc:
-Hay thay lời hỏi của Di Lặc ! Ta sẽ
tuyên bày trí tuệ, thần thông, sức mạnh và uy thế của chư Phật,
vậy hãy một lòng và tinh tấn nghe ta nói.
Sau khi nói một bài kệ lập lại lời vừa
nói, Thế Tôn kêu Bồ-tát Di Lặc nói:
-Những Bồ-tát đông vô số kể đã từ đất
vọt lên, đều do ta giáo hoá chỉ dẫn, sau khi ta đắc Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Tất cả đều là bậc đã điều phục tâm mình,
lòng sanh ý đạo, và ở trong hư không phía dưới thế giới
Ta-bà. Tất cả đã từng đọc tụng thông suốt kinh điển, phân biệt
trong chỗ nghĩ suy và sửa cho ngay thẳng những nhớ tưởng của
mình. Này Di Lặc, các Bồ-tát ấy không thích ở chổ đông người, ồn
ào, mà thường ưa ở nơi vắng lặng, siêng tu tinh tấn, chưa hề
ngơi nghĩ lại cũng không dừng bước ở cấp Nhân, Thiên mà thường
thích được trí tuệ thâm sâu, không còn vướng phải một chướng
ngại nào. Lại cũng thường vui nơi pháp Phật, một lòng tinh
tấn cầu tuệ Vô Thượng.
Bồ-tát Di Lặc và vô số Bô-tát, lòng sanh
nghi hoặc, tự hỏi:
-Làm thế nào trong khoảng thời gian
ngắn mà Thế Tôn giáo hoá được một số Bồ-tát đông như thế?
Nghĩ xong bèn bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn, từ ngày còn là Thế-tử bỏ
cung điện ra đi, rồi đến khi ngồi dưới cội bô-đề đắc Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, từ ấy đến nay, vừa hơn bốn mươi năm, vậy
làm thế nào trong khoảng thời gian ngắn ấy Thế Tôn lại giáo hoá
cho vô lượng vô biên Bồ-tát ấy được? Vì muốn thành tựu như
Bồ-tát ấy phải là người trong ngàn muôn ức kiếp, trồng các
căn lành ở vô lượng vô biên nước Phật và thường tu phạm
hạnh. Thế Tôn thì thành đạo đến nay chưa bao lâu, các Bồ-tát kia
thì phải tu hành trong vô lượng kiếp mới đặng thần thông lớn như
vậy. Thế thì làm sao hiểu được câu chuyện cha trẻ con già này?
Riêng chúng con một lòng tin Phật, vì Phật không bao giờ nói
ngoa, nhưng các Bồ-tát mới phát tâm tu hành, sau Phật diệt độ,
có thể không tin lời Phật dạy. Vậy kính xin Thế Tôn giải nghi
cho hàng mới phát tâm này,
để họ khỏi đọa vào nẻo ác.
Đại chúng thấy các vị Bồ Tát xuất hiện nhiều
như thế và không biết từ đâu mà đến nên liền bạch Phật thì Thế
Tôn dạy rằng “Đây là những đệ tử của ta”. Trong số những người
thắc mắc là Đại Bồ Tát Di Lặc vì ngài dựa vào khái niệm thời
gian của thế giới Ta Bà nên nói Thế Tôn chỉ có hoằng pháp trên
dưới 40 năm thì làm sao có thể giáo hóa một số quá đông Bồ Tát
như thế được? Bồ Tát Di Lặc là biểu tượng cho Thức, là trí phân
biệt nên khộng hiểu Tri Kiến Phật tức là Vô Sư trí. Còn Đại Trí
Văn Thù mới là tượng trưng cho Căn bản trí. Vì Bồ Tát Di Lặc
nhận thức sự kiện bằng Thức nên thấy đức Phật Thích Ca hoằng
pháp chỉ mới có 40 năm trong khi đó các Bồ Tát có phước đức,
công đức quá sâu dày tương đương với Ba A tăng kỳ nên sinh tâm
nghi ngờ lời Phật dạy là không thật.
Phật hóa thân và Bồ Tát hóa thân là không thật, là biểu tượng
của Căn bản trí nên không bị giới hạn của không gian và thời
gian, không bị vô thường sinh diệt chi phối.
Phật giáo Đại thừa thì Duy thức nói về Có còn
Bát nhã nói về Không. Tuy khác nhau về hình tướng, phương tiện
nhưng cứu cánh vẫn như nhau. Người học Phật vì có bệnh chấp vào
văn tự nên mới nói có sự khác biệt vì thế khi nghe nói Có thì
tin thật có và khi nghe nói Không thì tin thật không mà không
chịu suy tư quán chiếu để thấy cái cứu cánh của nó. Để phá hai
căn bệnh chấp Có chấp Không, ngài Long Thọ căn cứ vào giáo phá
tướng (Kinh Bát Nhã) mà rộng nghĩa Không để phá bệnh chấp Có.
Còn ngài Vô Trước thì hiển bày lý diệu hữu để phá bệnh chấp
Không. Do đó mà Phật giáo có hai tông: Không tông là tông Bát
nhã và Tướng tông là duy thức tông hay còn gọi là Hữu tông. Hữu
tông nói Có, Không tông nói Không, nhưng trên chỗ dung hội thì
tuy hai nhưng mà một. Đó là nói Không thì biết cái Không của
diệu hữu, còn nói Có thì biết là chỉ cái
Diệu hữu của Chơn không.
Đến đây là phần của thế giới Bổn môn là thế
giới của bản thể chân như mà Bồ Tát Di Lặc còn kẹt ở thế giới
Tích môn là thế giới có sinh có diệt. Vì thế muốn biết tuổi thật
của đức Phật, Ngài thật sự sống thọ bao lâu thì đức Phật sẽ trả
lời rõ ràng trong phẩm kế tiếp, là phẩm Như Lai Thọ Lượng.
∆ TOP |
NEXT
|