Phẩm
KHUYÊN TRÌ
Khuyên là khuyên nói, trì là giữ gìn. Vậy
khuyên nói và giữ gìn cái gì? Người tu theo kinh Pháp Hoa nên
giảng giải, đọc tụng, sao chép và giữ gìn cho kinh này tồn tại
mãi mãi ở thế gian.
Hãy nghiệm lại bài “KHAI KINH KỆ”:
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
Nghĩa là:
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe được chuyên trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu
Giáo lý Pháp Hoa là thậm thâm vi diệu, không
còn triết lý nào trên thế gian mà cao siêu hơn được tại vì kinh
Pháp Hoa chỉ rõ Tri Kiến Phật vốn có sẵn nơi mỗi chúng sinh cho
nên có câu “Thành Phật tu Pháp Hoa” là vậy. Giáo lý quá huyền
diệu nhiệm mầu cho nên dễ gì trong muôn vạn kiếp mà thấy biết
được. Vì vậy khi đã biết Pháp Hoa, chúng sinh nên tiếp nhận và
hành trì nghĩa là áp dụng những giáo lý nhiệm mầu đó vào trong
cuộc sống tức là lấy tinh thần Pháp Hoa làm tiêu chuẩn mà hóa
giải cho thân khẩu ý được hoàn toàn thanh tịnh. Muốn đạt đến
trình độ này chúng sinh phải thấu hiểu rốt ráo thâm nghĩa của
kinh vì thế kinh là để nghiên cứu, tham học, tư duy để tìm cái
chân lý ẩn bên trong rồi đem chân lý đó hành trì trong cuộc sống
để có giải thoát giác ngộ chớ kinh không để tụng trước bàn thờ
Phật. Trong lịch sử Phật giáo, chưa có người nào tụng kinh mà
trị hết bệnh tham, sân, si mà chính họ phải tự tu sửa, phải tham
thiền tức là tham tánh và niệm Phật tức là niệm tâm để hóa giải
dần dần những căn bản vô minh phiền não đó. Chỉ khi nào chúng
sinh tự nghiệm biết sự tai hại của tham, sân, si mạn, nghi thì
chính họ mới hóa giải nó được. Có biết rõ bộ mặt thật của kẻ thù
thì con người mới chiến đấu và có cơ hội thắng nó. Ngược lại,
nếu nhận giặc phiền não làm con thì sẽ trôi nổi trong biển ái
sông mê, lang thang lẩn thẩn triền miên không có lối thoát.
Một khi được kinh Pháp Hoa khai mở,
chỉ bày để tự nhận ra nơi mình có Tri Kiến Phật thì
chúng sinh phải “giữ gìn” làm tỏ ngộ và thâm nhập
cái Tri Kiến Phật đó và không để cho phiền não trần lao che phủ.
Sống trong tỉnh thức chánh niệm là biết mình lúc nào cũng có Tri
Kiến Phật tức là “Trì” vậy.
Lúc bấy giờ Bồ-tát Dược Vương và Bồ-tát
Đại Nhạo Thuyết cùng hai muôn Bồ-tát quyến thuộc, ở trước Phật
nói lên lời thề rằng:
-Cúi xin Thế-Tôn chớ lo, sau Phật diệt độ
chúng con sẽ tuân giữ, đọc tụng kinh điển nầy. Chúng sanh trong
đời ác về sau, căn lành lần lần ít, kiêu ngạo nhiều thêm tham
lợi háo danh, trồng sâu nghiệp bất thiện, xa lìa giải thoát. Tuy
khó giáo hoá như vậy, chúng con sẽ dùng sức nhẩn lớn, trì tụng
biên chép diễn nói, hy sinh mọi cách thậm chí không tiếc thân
mạng để giáo hoá cho họ.
Dược Vương là vị Bồ Tát ban cho thuốc hay để
chữa cho thân và tâm bệnh của chúng sinh. Dựa theo kinh Quán
Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ Tát, trong vô lượng vô biên A tăng
ký kiếp quá khứ có đức Phật hiệu là Lưu Li Quang Chiếu Như Lai,
cõi nước của đức Phật này là Huyền Thắng Phan.
Sau khi đức Lưu Li nhập Niết bàn, trong thời
tượng pháp có Tỳ kheo Nhật Tạng, thông minh, đa trí, diễn nói
cho đại chúng nghe pháp Đại thừa Vô Thượng Thanh Tịnh Bình Đẳng
Đại Huệ của Như Lai. Bấy giờ, trong đại chúng có trưởng giả Tinh
Tú Quang, nghe pháp Đại thừa Bình Đẳng Đại Huệ nên lòng rất vui
mừng bèn đem thuốc hay của núi tuyết cúng dường cho Tỳ kheo Nhật
Tạng cùng chúng tăng và phát nguyện rằng “đem công đức này để
hồi hướng đạo Vô Thượng Bồ Đề, nếu có chúng sinh nào nghe tên
tôi, nguyện cho họ tiêu trừ ba thứ bệnh khổ. Khi ấy, em
của trưởng giả tên Điền Quang Minh cũng theo anh mang đề hồ,
thuốc hay để cúng dường cho Tỳ kheo Nhật Tạng và cũng phát tâm
Bồ Đề rộng lớn, nguyện được thành Phật.
Khi đó, đại chúng khen ngợi trưởng giả Tinh
Tú Quang là Dược Vương, còn em là Điền Quang Minh là Dược Thượng
là hai vị Bồ Tát Dược Vương và Dược Thượng sau này.
Đại Nhạo Thuyết là vị Bồ Tát thành tựu tứ vô
ngại biện tài:
v
Pháp vô ngại
: Khi đã thành tựu trí tuệ thì nhìn vạn
pháp thấy cái gì cũng đúng với chân lý nên khi thuyết pháp biến
tất cả các pháp trở thành Phật pháp. Thí dụ như khi thấy lá
rụng, tuyết rơi thì nghĩ ngay đến sự tạm bợ, vô thường.
v
Nghĩa vô ngại :
là biết đúng nên nói đúng, nói chánh ngữ, đúng nghĩa, không sai
chân lý.
v
Từ vô ngại
: là lời nói trôi chảy, không ngăn ngại.
v
Lạc thuyết vô ngại
là càng nói càng thêm phấn khởi, dồi dào phong phú chớ không bao
giờ bị bế tắc.
Đứng về phương diện ý thức, tư tưởng thì tứ
vô ngại được gọi là tứ vô ngại trí tức là do trí tuệ mà phát
sinh ra bốn thứ vô ngại. Còn dựa trên ngôn từ diễn đạt mà nói
thì gọi là tứ vô ngại biện tức là tứ vô ngại biện tài. Sau cùng
khi chúng sinh nhìn kinh điển mà có thể nhận thức, thấy biết
ngay thì gọi là tứ vô ngại giải, nghĩa là đọc kinh thì biết ngay
ý nghĩa mà khỏi cần nghiên cứu.
Vì có tứ vô ngại biện tài nên Bồ Tát Đại Nhạo
Thuyết mới dám đảm nhận trách nhiệm truyền bá kinh Pháp Hoa ở
thế giới Ta Bà đầy uế trược nầy.
Tinh thần Pháp Hoa là trong mỗi chúng sinh đã
có sẵn Tri Kiến Phật cho nên nếu đứng về phương diện chân đế mà
nói thì vào thời đức Phật còn tại thế và thời sau ngày Phật Nhập
diệt con người trước sau như vậy, Phật tánh không tăng cũng
không sa sút. Nhưng bây giờ nếu nhìn theo lăng kính của tục đế
thì tâm của chúng sinh có thay đổi tùy theo hoàn cảnh xã hội,
môi trường sống và đạo đức nhân bản trong xã hội đó. Nói chung,
con người càng chạy theo vật chất thì tâm linh thiếu thăng bằng.
Càng tham muốn thì dục vọng càng tăng trưởng để sai sử họ dấn
thân vào con đường khổ, phiêu lưu dám làm những chuyện trái với
lương tâm. Vì thế kinh Pháp Hoa đóng một vai trò tối quan trọng
vào trong cuộc sống của con người đó là nhắc nhở cái “Tri Kiến
Phật” là chơn tánh hằng sáng thanh tịnh vốn đã có sẵn trong mỗi
chúng sinh. Do đó nếu con người trực nhận được tri kiến Phật của
mình thì chắc chắn cuộc sống của họ không bao giờ chao đảo chông
chênh. Phải chăng đây là bản hoài của chư Phật và Bồ Tát thị
hiện trong thế gian này để giúp chúng sinh chuyển mê khai ngộ,
lìa khổ được vui?
Bấy giờ trong đại chúng 500 A-la-hán đã
được thọ ký, bạch Phật rằng: Thế Tôn ! Chúng con cũng tự thệ
nguyện truyền bá rộng kinh nầy ở những nước khác.
Lại có 8.000 vị hữu học, vô học cũng đã
được thọ ký rồi, lập lời thề trước Phật: Chúng con cũng ở nơi
nước khác giảng nói rộng kinh nầy. Tại vì cõi nước Ta-Bà phần
lớn con người hay che giấu điều ác, ôm lòng tăng-thượng-mạn,
công đức cạn mỏng, hận thù, nịnh hót vì tâm không thành thật.
Đoạn trước các vị Bồ Tát Dược Vương và Đại
Nhạo Thuyết đại diện cho hàng Đại Bồ Tát phát nguyện cùng chư
Phật sẽ khai mở, chỉ bày để chúng sinh “giữ gìn”
làm tỏ ngộ và thâm nhập cái Tri Kiến Phật cho
những đời vị lai. Đến đoạn này đến lượt các vị A la hán trong
hàng Thanh Văn sau khi được Phật thọ ký thì cũng phát những hạnh
nguyện to lớn như hàng Bồ Tát. Sau đó những bậc hữu học và vô
học sau khi được Phật thọ ký cũng hân hoan phát lời thệ nguyện
rộng lớn là giữ gìn và truyền bá kinh Pháp Hoa để giúp chúng
sinh “Chư ác mạc tác” “Chúng thiện phụng hành” và sau cùng
đạt đến cứu cánh là “Tự tịnh kỳ ý”. Có thanh lọc thân khẩu ý thì
con người mới thực sự quay về sống với chơn tánh của mình tức là
“trì” cái Tri Kiến Phật của chính mình. Nhưng ở đây các vị A la
hán, các vị trong hàng hữu học và vô học chỉ xin được truyền bá
kinh Pháp Hoa ở những thế giới ít ô trược chớ không dám ở thế
giới Ta Bà này vì các ngài chưa đủ bản lãnh. Ngày nay, học giả
thì nhiều, lý luận rất hay nhưng hành giả có rất ít bởi vì con
người nghiêng về lý thuyết nhiều hơn cho nên tốn công rất nhiều
mà kết quả thật sự chẳng có bao nhiêu. Lý luận thì cao siêu lên
vút tận trời xanh, nào là Bát Nhã, nào là Tánh Không, nào là Duy
Thức, nhưng cái căn bản ở dưới đất lại quên đi cho nên nói thì
hay mà tánh tham không bỏ, tật đố không chừa, không lìa tranh
chấp thì chính mình chẳng được lợi ích gì chỉ là lý thuyết
suông. Con người sống trong thế giới Ta Bà có nghiệp chướng sâu
dày, che dấu tội lỗi, ôm ấp lòng tăng thượng mạn, công đức chẳng
có bao nhiêu, tà tâm nịnh hót, không sống bằng trực tâm chân
chính cho nên nếu không phải là Đại Dược Vương hay Đại Nhạo
Thuyết thì không cách nào trị nổi những căn bệnh hiểm nghèo này.
Biết mình trị không nổi nên các vị A la hán và biết bao hàng hữu
học và vô học khác xin đi truyền bá kinh Pháp Hoa ở những thế
giới mà con người bệnh nhẹ hơn, tâm tánh dễ thuần thục hơn.
Thế giới Ta Bà chỉ dành cho hai vị Bồ Tát
Dược Vương, là vua của các vị thầy thuốc nên biết rõ thân và tâm
bệnh của chúng sinh mà giúp họ hóa giải và Đại Nhạo Thuyết, là
người có tứ vô ngại biện tài nên mới dám lãnh trách nhiệm truyền
bá kinh Pháp Hoa vì hai vị có đầy đủ bản lãnh, khả năng giáo hóa
chúng sinh và diễn nói chánh pháp đúng theo ý kinh mà không rơi
vào mê tín, không đưa đại chúng sống trong ảo tưởng hoang đường.
Chúng sinh có rất nhiều tâm bệnh như bệnh chấp ngã, chấp pháp,
bệnh tham sân si, bệnh lục dục thất tình và từ đó nó biến dạng
ra không biết bao nhiêu thứ bệnh khác. Vì thế chỉ có Bồ Tát Dược
Vương mới thấu biết rốt ráo tâm bệnh của chúng sinh và nhờ tài
biện thuyết vô ngại của Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát giảng giải thâm ý
kinh Pháp Hoa cho đại chúng tỏ ngộ và thâm nhập Tri Kiến Phật
của chính mình.
Sau cùng đoạn kinh sau thì các vị Tỳ kheo Ni
sẽ phát nguyện cùng gánh vác trọng trách giữ gìn kinh Pháp Hoa
được trường tồn mãi mãi trong thế gian.
Lúc bấy giờ bà Dì của Phật là Tỳ kheo ni
Ma-ha-ba-xà-ba-đề cùng với 6.000 Tỳ kheo ni của hai hạng hữu học
và vô học, đổng đứng dậy, chấp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Phật,
mắt không tạm rời. Thế Tôn mới hỏi:
-Kiều-đàm-di!
Vì cớ nào mà ngó Như Lai với vẻ lo âu như vậy? Phải chăng vì ta
không kêu tên thọ ký cho các bà? Này Kiều-đàm-di, ta trước thọ
ký tổng quát cho tất cả Thanh-Văn, nay bà đã muốn thì ta
nói trước cho biết, đời sau, bà sẽ làm Đại Pháp Sư của 68.000
Phật pháp còn 6.000 Tỳ kheo ni trong hàng hữu học và vô học,
cũng sẽ làm Pháp Sư. Lần hồi ngươi sẽ đầy đủ đạo Bồ tát và
sẽ được thành Phật, hiệu Nhất-thiết-chúng-sanh-hỉ-kiến Như
Lai. Này bà Kiều-đàm-di, Phật Hỉ Kiến và 6.000 Bồ tát sẽ tuần tự
thọ ký được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, mẹ của La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni
Gia-du-đà-la thầm nghĩ:
- Thế Tôn thọ ký cho mọi người sao riêng
mình chẳng nói tới tên? Phật kêu Gia-du-đà-la nói:
-Đời
sau, trong năm ngàn vạn ức pháp môn của Phật, bà sẽ tu hạnh
Bồ-tát, làm Đại Pháp Sư, lần hồi đầy đủ Phật đạo, rồi ở nơi nước
Thiện, sẽ thành Phật hiệu Cụ-túc-thiên-vạn-quang-tướng Như Lai.
Kiều-đàm-di, Gia-du-đà-la và tất cả Tỳ
kheo ni đều vui mừng hớn hở, cho là được của quí giá chưa từng
có.
Sau khi Phật thọ ký cho tất cả Tỳ kheo thì
hiện tượng Long nữ mới vừa tám tuổi tức thì được thành Phật làm
cho tất cả các vị Tỳ kheo Ni bàng hoàng xúc động. Các bà nghĩ
rằng một đứa bé gái mang thân rồng mà còn thành Phật thì không
lẽ chúng ta đã xã thân quyết chí tu hành mà không thể thành được
chăng? Hiểu được tâm trạng của các bà nên đức Phật bây giờ chính
thức thọ ký cho Dì Mẫu, Tỳ kheo Ni Gia Du Đà La và 6.000
Tỳ kheo Ni trong hàng hữu học và vô học sẽ thành Phật. Nói thành
Phật, nhưng đâu phải thành Phật ngay như nàng Long nữ mà phải
trải qua vô lượng kiếp tu hành, đầy đủ công hạnh Bồ Tát, trí tuệ
vẹn tròn thì lúc đó mới thành Phật. Một lần nữa, thọ ký phải
được hiểu như là một lời khích lệ từ đức Thế Tôn để khuyến khích
chúng sinh cố gắng hóa giải cho hết những vẫn đục trong tâm thức
của mình chớ thật ra Phật không cho chúng sinh cái gì cả. Tri
Kiến Phật vốn đã có sẵn trong mỗi chúng sinh chớ cái Phật tánh
này không do Phật ban cho vì thế Phật biết trong mỗi chúng sinh
đã có sẵn cái mầm Phật tánh nên Ngài mới thọ ký tức là khuyến
khích cho họ cố gắng nhận biết để tỏ ngộ và sau cùng thâm
nhập cái Phật tánh thiêng liêng huyền diệu của chính mình đó
thôi.
Nói rộng ra, chúng ta đang sống rải rác khắp
nơi trên thế giới cho nên không nhất thiết chỉ có người quy y
đạo Phật mới có Tri Kiến Phật mà ngay cả những ông Tây, bà Đầm,
mắt xanh mũi lỏ, không nói được tiếng Việt thậm chí không biết
một tý gì về Phật giáo thì những người này cũng đều có Tri Kiến
Phật giống như chúng ta và dĩ nhiên họ có thể thành Phật giống
như mọi người. Đây là tinh thần bình đẳng khách quan mà chỉ Phật
giáo mới có. Từ đó con người mới nhìn thấu suốt ra ngoài mà thấy
được tính bình đẳng của tất cả sự vật hiện tượng mà thành tựu
Bình Đẳng Tánh Trí. Thế thì Tri Kiến Phật là Phật nhân mà muốn
thành tựu Phật quả thì chúng sinh phải hóa giải cho hết Kiến
Hoặc, Tư Hoặc, Vô Minh Hoặc và Trần Sa Hoặc. Con đường thành tựu
Phật đạo còn dài cho nên đoạn kinh trên nói rằng “lần hồi” nghĩa
là từ từ hóa giải từng phiền não vô minh cho đến khi tâm hoàn
toàn trong sáng thì sẽ thành Phật chớ không thể đốt giai đoạn
được. Nhắc lại Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói rằng “Trực chỉ nhân tâm, kiến
tánh thành Phật” là quay về để biết cái tâm thật của mình tức là
phần đầu của kinh Lăng nghiêm khi Phật hỏi 7 lần về nơi thường
trụ của tâm và sau đó thấy tánh thì thành Phật. Thấy tánh là
phần sau của kinh Lăng Nghiêm nghĩa là chúng sinh phải biết thấu
suốt tánh thấy, tánh nghe…của mình để đừng chạy theo khách trần
phiền não. Nhưng cho dù có thấy tánh thì đây chỉ là Phật nhân
chứ không thể thành Phật ngay được bởi vì trong ta tập khí ngã
mạn, gốc tham sân si chưa nhổ sạch nên cần phải huân tu để hóa
giải chúng. Khi nào diệt hết Kiến Hoặc, Tư Hoặc và Vô Minh Hoặc
thì lúc đó mới thành Phật quả.
Sau khi đọc một bài kệ, các Tỳ-kheo-ni
bạch Phật: Thế Tôn, chúng con có thể rộng nói kinh nầy ở các
nước phương khác không?
Phật bèn ngó 80.000 muôn vạn ức na-do-tha
Bồ-tát. Các Bồ-tát này toàn là bậc bất-thối-chuyển và đã
được các “tổng trì”, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật,
chấp tay nghĩ nói trong lòng rằng:
-Nếu Thế Tôn dạy, chúng con sẽ như lời
Phật mà rộng nói kinh nầy.
Rồi lại nghĩ:
-Phật nay làm thinh không dạy, bây giờ
chúng ta sẽ nói gì đây?
Khi ấy, vừa để thuận theo ý Phật, vừa để
thoả mãn sở nguyện của mình, các Bồ-tát bèn thề lớn trước Phật:
-Thế Tôn, sau Như Lai diệt độ, chúng con
sẽ đi khắp mười phương thế giới, khiến chúng sanh biên chép kinh
này, lãnh giữ, đọc tụng, giải nói ý nghĩa, theo pháp tu
hành, sửa điều nghĩ nhớ cho chân chánh được như thế là toàn nhờ
uy lực của Phật. Cúi xin Thế Tôn ở phương khác, xa thấy mà hộ
trì cho!
Đến khi các vị Tỳ kheo Ni được Phật thọ ký
bèn cùng với hàng Bồ Tát bất thối chuyển phát nguyện được đem
kinh Pháp Hoa đến những thế giới khác trong vũ trụ để hoằng pháp
lợi sanh vì tất cả không đủ bản lãnh để giáo hóa chúng sinh
trong thế giới Ta Bà. Duy chỉ có Bồ Tát Dược Vương và Đại Nhạo
Thuyết là nguyện vào thế giới Ta Bà để giảng giải truyền bá kinh
Pháp Hoa vì các ngài có đầy đủ trí lực để giáo hóa những chúng
sinh can cường che đậy điều ác, ôm lòng tăng thượng mạn, sống
trong hận thù, tranh chấp.
Đến đây Phật đã thọ ký cho tất cả mọi người,
từ các bậc đại trí, các vị Tỳ kheo hữu học và vô học đến các vị
Tỳ kheo Ni hữu học và vô học và cho tất cả đại chúng. Mọi người
rất hoan hỷ và tin rằng một ngày nào đó khi công thành đức mãn
thì chính mình sẽ thành Phật.
Tóm lại, nếu đứng về phương diện tích cực thì
thọ trì kinh Pháp Hoa là truyền bá, giảng nói, biên chép, xiễn
dương cho tất cả mọi người cùng thể nhập Tri Kiến Phật. Còn dựa
theo khía cạnh tiêu cực thì hành giả tiếp thu, áp dụng và sống
theo giáo lý đó trong đời sống của mình. Do đó nhận biết Tri
Kiến Phật là Chánh nhân Phật tánh tức là Phật nhân còn trì kinh
Pháp Hoa là Duyên nhân Phật tánh nghĩa là phát triển làm cho hoa
Tri Kiến nẩy nở nhanh chóng. Chúng sinh nhờ nghe kinh Pháp Hoa
mà cải thiện tâm ý khiến cho thân khẩu ý dần dần được thanh
tịnh, giữ vững chánh niệm sống trong thiện pháp thì hoa sen
trong họ dần dần nở rộ. Sau cùng Phật tánh hiển lộ rõ ràng, hoa
sen bây giờ nở rộ thơm ngát thì gọi là Liễu nhân Phật tánh tức
là thành Phật.
∆ TOP |
NEXT
|