Phẩm
HIỆN BẢO THÁP
Mục đích Phật nói kinh Pháp Hoa là để “khai
thị” cho chúng sinh “ngộ nhập” được Tri Kiến Phật nghĩa là đức
Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập
cái thấy biết của Phật và cũng chính là cái thấy biết của Pháp
Hoa vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Đó là trong tất
cả mọi chúng sinh, ai ai cũng có đầy đủ tri kiến Phật, là trí
tuệ bổn lai đều giống như Phật. Trong
mười phẩm đầu từ phẩm Tựa đến phẩm Pháp Sư là phần “khai”
tức là khai mở để chúng sinh nhận biết Tri Kiến Phật. Từ những
thí dụ cụ thể đến phần thọ ký cho các bậc vô học như các ngài Xá
Lợi Phất, Mục Kiền Liên…, các vị hữu học như các ngài A Nan, La
Hầu La và sau đó Phật thọ ký cho tất cả mọi người để xác định
cái Phật tánh vốn sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh. Đấy
là phần “khai” để mọi người nhìn thấu suốt con đường sẽ đi của
mình tức là thành Phật.
Đến phẩm Hiện Bảo Tháp thì Phật bắt đầu tiếp
nối phần “khai” là phần “thị” Phật Tri Kiến. Thị
là chỉ bày cho người thấy để tỏ ngộ cái Phật Tri Kiến của mình.
Tri Kiến Phật là tánh giác vốn có sẵn nơi mỗi chúng sinh. Vì là
bản thể thanh tịnh nên nó không có tướng trạng, không có màu
sắc, không có kích thước nên làm sao Phật chỉ cho chúng sinh
thấy biết nó. Cũng giống như gió, biết là nó có đó vì nó làm cho
người ta ta mát dịu nhưng đâu có ai thấy được gió vì nó là vô
hình. Vì không thể chỉ bày trực tiếp cái Phật tánh thiêng liêng
trong mỗi chúng sinh, ở đây đức Phật mới dùng biểu tượng Hiện
Bảo Tháp để biểu trưng cho Tri Kiến Phật. Hiện là thấy, nhưng
thấy có hai loại: một là thấy bằng mắt thịt, hai là dùng tâm để
thấy. Vì thế Hiện Bảo Tháp là dùng tâm để thấy bổn tánh Như Lai
tức là thấy bảo tháp của chính mình.
Lúc bấy giờ trước Phật có một ngôi tháp
bằng thất bảo cao 500 do tuần rộng 250 do
tuần từ dưới đất hiện lên rồi trụ lơ lửng giữa hư không. Ngôi
tháp cực kỳ tráng lệ tỏa ra mùi thơm“ly cấu chiên đàn” khắp cùng
cõi nước. Các hàng Thiên long bát bộ cùng đem các thứ phan lọng,
hương hoa, chuỗi ngọc… của cõi trời để
cúng dường tôn trọng và ngợi khen.
Tháp có nghĩa là Pháp mà Pháp này lại là
trường tồn bất hoại theo thời gian và cũng không thay đổi theo
không gian. Đó chính là Pháp tánh thanh tịnh bất sinh bất diệt.
Bảo tháp này xây bằng bảy thứ châu báu, bảo
ngọc, cao 500 do tuần và rộng 250 do tuần
từ dưới đất nổi lên và an trú ở trong không trung. Ở đây bảo
tháp bảy báu là tượng trưng cho thất đại: đất, nước, gió, lửa,
không, kiến, thức. Nếu chúng sinh còn mê thì thân mình là thất
đại nặng nề nên phải đứng trên mặt đất, còn thức tỉnh, nhận ra
Tri Kiến Phật của mình thì thất đại biến thành thất bảo. Vì Tri
Kiến Phật là chơn không, Phật tánh nên vọt lên từ mặt đất (thân
phàm phu) mà an trụ lơ lửng trong hư không,
500 do tuần là biểu tượng cho chúng sinh thọ khổ trong 500 đường
luân hồi sinh tử và bảo tháp rộng 250 do tuần là chỉ cho 250
điều giới luật của một vị Tỳ kheo. Bảo tháp vọt lên từ đất mà
đất là để cho tâm. Tất cả muôn sinh vạn vật có sinh tồn cũng do
đất. Cây cỏ, ruộng lúa, hoa quả… cũng do đất sinh ra ví như
những tư tưởng thiện ác, tốt xấu đưa con người lún sâu vào vòng
sinh tử khổ đau hoặc hướng về cảnh giới giải thoát giác ngộ đều
do tâm tạo. Cái tâm của con người thật là quan trọng, nó là
trung tâm của sự sống, của vũ trụ và chứa nhóm tất cả muôn pháp.
Nó là hào lũy ẩn náu của mọi tật xấu, nhưng cũng là mảnh đất phì
nhiêu nẩy sanh mầm giống giác ngộ. Vì thế, chính tâm tạo nên
hạnh phúc và cũng chính tâm tạo biết bao nỗi khổ đau. Vậy cái
tâm của nó nằm ở đâu? Để trả lời câu hỏi nầy trong kinh Lăng
Nghiêm đức Phật đã gạn hỏi ông A Nan bảy lần về nơi thường trụ
của tâm, để có cái nhìn rõ ràng về sự
khác nhau giữa vọng tâm sinh diệt thay đổi từng giây từng phút,
từng cảnh giới, chạy theo lục dục thất tình, tham đắm sắc tài
danh lợi và sự thanh tịnh không thay đổi, lúc nào cũng an vui tự
tại và luôn ở trong ta, là chơn tâm, là Phật tánh, là Tri Kiến
Phật.
Vì vậy khi bảo tháp còn ở dưới đất ví như con
người còn chạy theo vọng tâm sinh diệt, còn sống trong mê mờ bất
giác. Bây giờ bảo tháp vọt khỏi lòng đất và lơ lửng giữa hư
không nghĩa là chúng sinh lìa tâm sinh diệt, quay về với chơn
tâm, Phật tánh thanh tịnh của mình. Hiện tượng “vọt lên” của bảo
tháp là chỉ cho sự dẹp sạch mọi vẫn đục trong tâm thức để tâm
thức trở thành không gian cho bảo tháp hiển lộ. Đó chính là tâm
trụ nơi vô trụ nghĩa là bản tâm bây giờ không còn dính mắc bởi
sắc tài danh lợi, bởi lục dục thất tình, bởi thập triền thập sử
nên nó ở lơ lửng không dính mắc mà trở về với bản thể thanh tịnh
tức là Bổn Phật của chính mình. Vì thế kinh Kim Cang có câu “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, Nhược tâm hữu trụ tức vi phi trụ”
nghĩa là tâm có chỗ trụ thì không bao giờ thấy được chân lý. Tóm
lại, khi tâm thức của chúng sinh trống rỗng bao la vô cùng vô
tận như hư không thì ngay thời điểm đó tháp báu xuất hiện tức là
Thủy Phật hòa nhập với Bổn Phật nghĩa là chúng ta đang sống với
chơn tâm, Phật tánh của chính mình. Lục Tổ Huệ Năng dạy trong
kinh Pháp Bảo Đàn là chúng sinh muốn có tâm thanh tịnh thì phải
áp dụng ba cái Vô :
1) Vô niệm vi tông: Phàm là
con người thì lục căn lúc nào cũng có thể tiếp xúc với sáu trần,
nhưng nếu muốn tâm đừng phát sinh vọng tưởng thì cho dù mắt thấy
sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương vị, lưỡi nếm mùi vị, thân
cảm xúc nóng lạnh hay ý có suy nghĩ gì mà tâm không khởi vọng
niệm chạy theo. Nói cách khác thấy thì cái gì cũng thấy mà không
thấy cái gì hết, nghe thì nghe tất cả mà như không nghe gì cả…
Cảnh vật, âm thanh… cũng
như gió thoảng, mây bay có đến rồi lại đi, đừng chấp thủ, giữ
lại trong lòng. Con người làm chủ tâm mình thì có an lạc, thanh
tịnh Niết bàn, ngược lại nếu tâm làm chủ thì con người làm nô lệ
cho vô minh phiền não, thế thôi.
2) Vô tướng vi thể: Tất cả
vạn pháp trong thế gian này là từ nhân duyên kết hợp nên chúng
không có tự thể nghĩa là vô ngã tức là Không. Khi đã thấu hiểu
vạn pháp là giả dối, không thật, nay có mai không thì con người
đừng chạy theo sắc trần một các mù quáng làm tâm bất tịnh. Chỉ
khi nào chúng sinh quán tưởng để thấy biết bằng trí thật tướng
của vạn pháp thì cái thấy biết này mới là chân lý.
3) Vô trụ vi bổn: Vô trụ là
không dính mắc. Vậy không dính mắc cái gì? Sáu trần là những cục
nam châm có sức hút rất mãnh liệt làm cho sáu căn mê muội khiến
tâm phát sinh vọng tưởng sai lầm làm cho con người sống trong
điên đảo khổ đau. Vậy muốn có cuộc sống tự tại an nhàn thì từng
giây, từng phút, từng giờ, từng hơi thở con người nên giữ chánh
niệm, sống trong tỉnh thức, đừng để tâm buông lung chạy theo
tham đắm dục tình.
Ngày xưa đức Phật Thích Ca khi chưa thành
đạo, vào núi tuyết tu sáu năm khổ hạnh tức là Ngài tu sáu căn
vậy. Do đó có thành người, thành thánh, thành Bồ-tát, thành Phật
cũng do sáu căn. Mà có thành ma, thành ngạ quỷ súc sanh hay bị
đọa vào đia ngục A tỳ cũng bởi do sáu căn. Do đó nếu con người
vui thích theo ái dục, dong ruổi theo lục trần
thì chính họ tự lao mình trong lưới buộc như nhện giăng tơ, tuy
có hướng cầu an lạc, nhưng vẫn bị quanh quẩn trong chốn trầm
luân. Chỉ có những ai dứt được sự ràng buộc, sáu căn thường sáng
tỏ, thì sẽ xa mọi thống khổ để ngao du tự tại. Kinh điển Đại
thừa là diễn về lý thâm nghĩa bên trong cho nên đừng chạy theo
“tướng và tưởng” mà nghĩ rằng Phật dùng thần thông biến hóa như
trong các phim thần thoại mà lạc mất ý kinh.
Bấy giờ trong tháp báu vang ra tiếng khen
rằng:
- Hay
lắm! Hay lắm! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, có thể dùng tuệ bình
đẳng vì đại chúng nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ
Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Đúng vậy! Lời Thích Ca Mâu Ni nói là
chân lý chân thật!
Bảo tháp là tượng trưng cho Bổn Phật trong
thế giới Ta Bà tức là cái bất sinh bất diệt trong cái thế giới
có sinh có diệt này. Bảo tháp này là bảo tháp của một vị Phật
tên là Phật Đa Bảo. Từ trong bảo tháp, Phật Đa Bảo vang ra tiếng
khen Phật thích Ca nói kinh Pháp Hoa đúng và chân thật khiến cho
đại chúng tin mà chẳng sinh tâm hoài nghi.
Trước sự kiện hi hữu nầy, đại chúng được
pháp hỉ, đồng thời cho là chuyện lạ nhưng không ai nói ra đều
cung kính chấp tay đứng qua một bên. Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết biết
tâm niệm tứ chúng bèn bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn! Do duyên cớ gì mà có tháp
từ đất hiện lên lại từ phía trong có tiếng vang ra như thế?
Đức Phật đáp:
-Trong tháp báu nầy có toàn thân Như
Lai. Thời quá khứ, cách đây vô lượng lâu xa, tại nước Bảo Tịnh
có Phật Đa Bảo, lúc còn hành đạo Bồ-tát, đã phát lời nguyện
rằng, nếu được thành Phật thì, sau khi diệt độ, chỗ nào có nói
kinh Pháp Hoa, tháp báu của Ngài sẽ hiện ra khen ngợi để chứng
minh. Vì vậy, bất luận chỗ nào trong mười phương hễ có nói kinh
Pháp Hoa thì tháp báu hiện ra, toàn thân Phật trong tháp nói:
“Hay lắm ! Hay lắm !”
Các phẩm trước người thưa hỏi đức Phật là
những vị A la hán tức là những người bằng xương bằng thịt
có trong lịch sử thuộc về phần “khai”, nhưng đến phẩm này Phật
bắt đầu chỉ phần “thị” Phật Tri Kiến nên người hỏi bây giờ không
còn là A la hán mà là Bồ Tát. Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết nghĩa là vị
Bồ Tát lớn hay nói, đứng ra thưa hỏi nhân duyên nào mà có tháp
từ đất vọt lên mà lại có âm thanh vang ra như thế.
Phật Thích Ca giải thích rằng: Trong bảo tháp
này có toàn thân Xá Lợi của Như Lai. Vị Phật này, trong thời quá
khứ rất xa xưa, cách đây về phương Đông trải qua vô lượng ngàn
ức A Tăng kỳ thế giới, có cõi nước dùng bảy báu tạo thành tên là
Bảo Tịnh, Phật hiệu Đa Bảo Như Lai. Vị
Phật đó trong khi hành Bồ Tát đạo đã từng phát lời thệ nguyện
rộng lớn rằng “Nếu tôi thành Phật, sau khi diệt độ, ở trong cõi
nước chư Phật mười phương, chỉ cần nơi nào có Phật diễn nói kinh
Pháp Hoa, vì nghe bộ kinh này mà bảo tháp của ta từ dưới đất vọt
lên, hiện ra ở trước đạo tràng của chư Phật mười phương, làm chứng
minh cho vị Phật đó nói kinh Pháp Hoa”. Phật Đa Bảo đã thành
Phật rồi thì đâu cần nghe pháp nữa, nhưng lý do Ngài thị hiện là
để ấn chứng những lời Phật Thích Ca nói kinh Pháp Hoa là đúng,
là chân lý. Đa Bảo là nhiều của báu. Bảo Tịnh là của báu trong
sạch. Như thế tên Phật Đa Bảo và cõi Phật Bảo Tịnh nói lên những
món quý báu trong sạch nhất, đó không gì khác hơn là Tri Kiến
Phật. Bởi vì Tri Kiến Phật là bản thể thanh tịnh, sáng suốt
nhiệm mầu xuyên suốt không gian và thời gian nên rất tôn quý,
bảo báu. Vì thế Phật Đa Bảo xuất hiện ở đây không gì khác hơn là
Tri Kiến Phật tức là Pháp thân, Phật tánh thanh tịnh ở ngay
trong tấm thân thất đại của mỗi chúng sinh.
Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết thay lời đại chúng
bạch:
-Chúng con muốn thấy thân của đức Phật Đa
Bảo.
Phật Thích Ca đáp:
-Theo đại nguyện của Phật Đa Bảo, khi
tháp Ngài hiện ra mà có đức Phật nào muốn chỉ cho tứ chúng thấy
thân của Ngài thì đức Phật ấy phải nhóm lại một chỗ tất cả “phân
thân” của mình, rồi sau đó thân Phật Đa Bảo mới hiện ra. Vậy nay
ta sẽ nhóm tất cả “phân thân” của ta hiện đang thuyết pháp ở các
cõi nước trong mười phương.
Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết nghe trong bảo tháp
lời khen ngợi đức Phật Thích Ca, chỉ nghe tiếng mà không thấy
người bèn đại diện đại chúng muốn chiêm ngưỡng Phật Đa Bảo. Phật
Đa Bảo là Pháp thân Phật, nhưng mỗi vị Phật phải có đủ ba thân
là Pháp thân, Ứng thân và Báo thân. Đức Phật Thích Ca, vị Phật
lịch sử giáng sinh ở Ấn Độ là Ứng
thân Phật. Còn Hóa thân Phật là những thân Phật phân ra đi nói
pháp ở các cõi trong mười phương pháp giới. Vì vậy muốn thấy
được Phật Đa Bảo thì các Hóa thân phải quy về hội nhập với Pháp
thân, lúc ấy toàn thân của Ngài sẽ hiện rõ.
Bấy giờ đức Thích Ca phóng một đại hào
quang từ tướng lông trắng giữa đôi mày, hằng sa cõi nước ở mười
phương hiện bày, trong đó vô lượng Bồ-tát đang vì chúng sanh nói
pháp.
Thấy ánh sáng ấy,
chư Phật mười phương đều bảo các Bồ-tát:
-Chúng ta phải qua thế giới Ta Bà,
chỗ của đức Phật Thích Ca để cùng cúng dường tháp báu của Đa Bảo
Như Lai”. Chư Phật ấy đều là phân thân của đức Thích Ca.
Lúc bấy giờ, cõi Ta Bà biến thành thanh
tịnh, đất bằng lưu ly, có cây báu, vàng ròng trang nghiêm, không
có tụ lạc thành ấp, xóm làng, biển cả, sông ngòi, rừng núi.
Khi đức Phật Thích Ca phóng ra một đạo hào
quang sáng qua vô số cõi nước ở mười phương thì các Hóa thân
Phật thấy hào quang liền biết Phật muốn các Ngài quy hội về. Khi
các Hóa thân đều quy hội về với Phật thì cõi Ta Bà trở thành thế
giới cực lạc trang nghiêm. Tại sao vậy? Thân mà kinh nói ở
đây không phải là thân vật chất, thân tứ đại nặng nề mà chính là
thân tư tưởng. Chính Lục Tổ cũng dạy rằng:
Pháp thân là tự tánh thanh tịnh. Còn khởi
niệm là Hóa thân. Khi khởi niệm mà tâm không dính mắc bên này
bên kia, bên có bên không, bên tà bên chánh thì đây chính là Báo
thân thanh tịnh. Vì thế khi chư Phật khởi niệm biết chúng sinh
còn khổ nơi này chỗ kia thì các Ngài liền Hóa thân đến đó giáo
cho họ lìa khổ được vui. Vì vậy nếu muốn thấy được Pháp thân
Phật thì các Hóa thân phải quy về với Báo thân tức là tâm trở về
với trạng thái thanh tịnh. Con người chúng ta cũng thế. Trong ta
cũng có Pháp thân thanh tịnh giống y như chư Phật. Nhưng tâm của
chúng sinh phát khởi vọng niệm liên tục, nào là thiện ác, tốt
xấu, thân sơ, phải quấy, giàu nghèo… thì
đây là những Hóa thân của phàm nhân chạy lăng xăng khắp cùng
khiến chúng sinh tạo vô số phiền não, ưu sầu. Ngược lại, Phật
cũng khởi niệm tức là Hóa thân, nhưng khởi trong giác ngộ chớ
không khởi trong mê mờ như chúng sinh. Do đó Phật khởi vô số
niệm thì có vô số Hóa thân vì vậy nếu muốn thấy được Pháp thân
thanh tịnh thì những niệm đó cho dù là chánh niệm cũng phải dừng
lại tức là tất cả Hóa thân phải quy về với Pháp thân thì lúc ấy
Pháp thân thanh tịnh tức là Phật Đa Bảo hiển lộ hoàn toàn. Vì
thế tiến trình để có giải thoát giác ngộ là Giới Định Tuệ nghĩa
là giữ giới để đoạn sạch hết mọi loạn tưởng thì tâm mới an định.
Tâm định tức là tất cả những Hóa thân chạy theo vọng tưởng điên
đảo quy về với bản tâm thanh tịnh. Từ định mà trí tuệ sẽ phát
sinh tức là nhận ra Tri Kiến Phật của chính mình.
Khi tâm chưa tịnh thì thế giới mình đang sống
sẽ trở thành toàn là gò nỗng, hầm hố, chông gai, sỏi sạn, đất
đá, núi non nhơ nhớp dẫy đầy. Nhưng khi mọi vọng tưởng chấp
trước không còn, tâm trở thành thanh tịnh thì cũng cái thế gian
nhơ nhớp đó bây giờ trở thành nhẹ nhàng thanh thoát, êm diệu. Vì
thế kinh Duy Ma Cật có câu “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ
tịnh. Dục tịnh Phật độ tiên tịnh kỳ tâm” nghĩa là nếu
tâm mình thật thanh tịnh, không còn bị vô minh phiền não quấy
phá thì thế giới mình đang sống chính là cõi Phật thanh tịnh. Mà
muốn có cõi Phật thanh tịnh thì trước hết phải hóa giải cho tâm
mình được thanh tịnh, dừng hết mọi vọng tưởng nghĩa là phải gom
hết Hóa thân về với Pháp thân Phật. Đây là cách xây dựng cõi
Phật thanh tịnh bằng cách bồi dưỡng tâm mình cho thật thanh
tịnh. Do đó mỗi khi chư Phật đến đâu thì cõi đó thành thanh tịnh
mà họ không có dùng bùa phép hay thần thông gì hết.
Khi lòng không vui, đau khổ thì nhìn đâu cũng
ảm đạm, thấy gì cũng chán chường, đen tối ngay cả nàng Kiều còn
than thở rằng:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu?
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
Đòi phen nét
vẽ, câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới
hoa.
Vui thì vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Nàng Kiều cũng cầm kỳ thi họa, cũng ngâm cũng
vịnh, nhưng chỉ là gượng gạo cho người mua vui chớ lòng mình tê
tái chẳng có gì thích thú cả.
Thật vậy, khi vui ăn rau luộc mà còn ngon hơn
là sơn hào hải vị, còn lòng lo âu, sợ hãi thì ngậm công danh phú
quý như ngậm bòn hòn chớ có chi là sung sướng. Vì thế toàn bộ
giáo lý Phật Đà là muốn khuyến khích chúng sinh tự thanh lọc
thân tâm của mình cho được thanh tịnh thì cái thế gian họ đang
sống tức thì sẽ biến thành thiên đường cực lạc mà khỏi trông chờ
mong đợi gì hết.
Mỗi đức Phật có một Bồ-tát làm thị giả,
các đức “phân thân” qua đến Ta Bà, lên ngồi kiết già trên tòa sư
tử đặt dưới cội mỗi cây báu, lần lượt như thế khắp tam thiên đại
thiên thế giới mà vẫn không đủ chỗ ngồi.
Để dung chứa tất cả các phân thân đức
Thích Ca bèn biến thêm ở tám phương, 200 muôn ức na-do-tha nước,
nước nào cũng thanh tịnh trang nghiêm.
Khi các Hóa thân Phật ở khắp mười phương pháp
giới cùng quy hội về đều ngồi lên tòa sư tử đặt dưới cội mỗi cây
báu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Vậy thế nào là tòa sư
tử? Phải chăng mỗi lần chư Phật đến đâu thì phải có người đem
những tòa sư tử chạm trổ rất công phu đẹp đẻ huy hoàng tráng lệ
để các Ngài ngồi? Thật ra đâu có ai chạm trổ hay chẳng có cái gì
là cao sang tráng lệ cả. Tòa sư tử mà kinh Phật nói ở đây chẳng
qua là những tảng đá, hay gốc cây cho nên Phật lấy cỏ hay rơm
trải lên trên để ngồi cho êm mà thuyết pháp. Nhưng tại sao lại
gọi là tòa sư tử? Bởi vì lời nói của Như Lai là Chánh pháp, là
Chân lý nên những học thuyết của thiên ma ngoại đạo phải tránh
xa, không dám đến gần cũng như nơi nào sư tử ngồi thì chồn,
nhím, chuồn chuồn, chó, mèo, nai, heo chẳng dám lại gần. Ngày
xưa đức Phật xin một nắm cỏ của người nông dân, trải lên gốc cây
Tát Bạt La rồi ngồi thiền định 49 ngày đêm, chứng đạo Bồ đề. Do
đó bất cứ cây nào Ngài ngồi là cây Bồ Đề tức là cây giác ngộ,
cây tỉnh thức chớ trên thế gian này không có cây nào thật sự là
cây Bồ Đề cả. Vì thế Bồ Đề là giải thoát giác ngộ tự trong tâm
thức chớ cây không làm cho ai giác ngộ được.
Phân thân Phật tức là Hóa thân Phật mà Hóa
thân là niệm tưởng cho nên đức Phật Thích Ca có muôn vàn ức niệm
tưởng, bao la vô cùng vô tận lan tỏa khắp tam thiên đại thiên
thế giới chớ đừng nghĩ rằng Phật có thần thông biến hóa bay khắp
nơi trong vũ trụ thì chúng ta đang sống trong ảo tưởng hoang
đường. Bất cứ nơi nào Phật đến thì nơi ấy sẽ biến thành cõi
thanh tịnh không có nghĩa là Phật dùng thần thông làm cho nơi ấy
an bình mà đối với người có tâm thanh tịnh thì họ đến đâu thì
cái thế giới đó “đối với họ” sẽ trở thành Cực
lạc Niết bàn. Nếu Phật có bùa phép thì tại sao Ngài không ngăn
cản vua Lưu Ly đừng giết hại dòng họ Thích Ca? Thí dụ trong xóm
có hai người đang đánh đấm nhau, nhưng có vị thiện tri thức đến
đem những lẽ thật của cuộc sống giảng giải cho hai người đó.
Nghe xong hai người bắt tay hòa thuận, không còn tranh chấp nhau
nữa. Không phải vị thiện tri thức có bùa phép gì, nhưng người đó
dùng Chánh giác để chuyển mê khai ngộ, phá bức màn vô minh hắc
ám trong tâm của hai người đó khiến họ thức tỉnh, thấy biết lẽ
thật của cuộc đời nên thay vì giết hại nhau để gây thêm tội
nghiệp thì họ bắt tay hòa giải tương thân tương trợ, sống trong
hòa bình an lạc. Tóm lại, bất cứ vị Phật nào tâm cũng rất thanh
tịnh cho nên họ đi đến đâu, ngồi chỗ nào thì chỗ đó cũng thanh
tịnh theo.
Lại để có chỗ cho các phân-thân Phật sẽ
đến, đức Thích Ca dời trời, người đi nơi khác, biến thêm 200
muôn ức na-do-tha nước khác, nước nào cũng thanh tịnh, trang
nghiêm, bình đẳng như trên.
Đừng hiểu rằng đức Phật Thích Ca dùng thần
thông dời trời, người đi nơi khác… nếu
dời thì Ngài dời họ đi đâu? Thật ra nếu chúng sinh muốn tâm mình
thật thanh tịnh như tâm Phật thì họ phải dời cho hết những tâm
tài, sắc, danh, lợi, mừng, giận, thương, ghét, phải, quấy…
lúc đó (tâm) Phật mới đến ngự trong tâm ta được.
Nếu tâm chúng sinh chất đầy những vọng tưởng, chấp trước phân
biệt thì Phật còn chỗ nào để vào? Cũng như
trong phòng khách nào là ông tham, ông sân, ông
si, bà phẫn, bà hận, ông phú, ông não…
ngồi chật nhà thì còn chỗ nào trống để Phật ngồi. Vì thế muốn
Hóa thân Phật ngự trong tâm của mình thì chúng sinh phải hóa
giải cho hết những tâm phàm phu, tâm cầu hưởng phước báu nhân
thiên, tâm tham đắm dục tình. Do đó đức Phật Thích Ca không phải
là phù thủy hay nhà ảo thuật có thể dời người này chỗ này người
kia đến chỗ khác như David Copperfield làm biến mất tượng nữ
thần tự do ở New York.
Chư phân-thân Phật trong mười phương tuần
tự về đủ nhóm ngồi ở tám phương. Chư Như Lai ngồi đầy khắp 400
muôn ức na-do-tha cõi nước.
Khi tâm chúng sinh rỗng rang, không còn vọng
chấp thì lúc ấy chư phân thân Phật tức là Hóa thân Phật sẽ ngự
trong tâm của họ nghĩa là Pháp thân hiển bày.
Khi đâu vào đấy rồi, các phân-thân Phật
sai thị giả qua cõi Ta Ba dâng hoa cúng dường Phật Thích Ca và
dạy thị giả bạch rằng:
-"Như Lai có được
ít bệnh, ít khổ, sức khỏe an vui và các Bồ-tát Thanh-văn đều
được an-ổn chăng?” Sau khi cúng dường hoa, các thị-giả bạch với
đức Thích Ca là chư phân-thân Phật đều muốn mở tháp báu đang lơ
lửng trên không. Đức Thích Ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lấy
ngón tay mặt mở cửa tháp, làm vang ra một tiếng lớn như tháo
khóa một cửa thành.
Tất cả các phân thân Phật đều đồng nhất muốn
thấy đức Phật Thích Ca mở cửa tháp báu đang lơ lửng trên không.
Tuy mở tháp là một hành động bình thường, nhưng
ở đây cần phải có một sức mạnh phi thường mới mở được tháp. Tại
sao? Vì đây là sự thể nhập giữa Bổn giác và Thủy giác nên đây là
hiện tượng không phải nhỏ. Bản giác là Phật Đa Bảo và Thủy giác
là Phật Thích Ca. Do đó Thủy giác muốn trở về hòa nhập vào Bản
giác thì phải có điều kiện. Con người cũng thế, tuy ai ai cũng
đều có Tri Kiến Phật, Phật tánh, Như Lai Viên Giác Diệu Tâm,
nhưng muốn trở về với Phật tánh, với Bản giác thiêng liêng đó
thì chúng sinh phải buông xả hết tức là lơ lửng trên không, tâm
không còn thập triền cột chặt, thập sử sai khiến, phải có ý chí
cởi mở những ràng buộc vương vấn khổ đau của thế trần. Đó là tâm
vô trụ bởi vì tâm còn trụ là còn dính mắc, chấp trước tức là còn
khổ đau.
Tức thì tất cả chúng sanh trong hội đều
thấy Đa Bảo Như Lai trong tháp báu ngồi trên tòa sư-tử toàn
thân nguyên vẹn như người nhập định. Lại nghe Đa Bảo Như Lai
nói: “Hay lắm! Hay lắm! Thích Ca Mâu
Ni Phật nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa hay quá. Vì muốn nghe kinh
nên ta mới đến đây”. Hàng tứ chúng thấy việc chưa từng có, hân
hoan đem các thứ hoa báu tung rải lên cúng dường Phật Đa Bảo và
Phật Thích Ca.
Phật Đa Bảo là Pháp thân Phật bất sinh bất
diệt, tồn tại từ vô thỉ đến vô chung và hiện hữu vô cùng vô cực
nên toàn thân như người nhập định. Đây chỉ là văn dĩ tải đạo để
xiễn dương một giáo lý thậm thâm chớ trên thế gian này không có
ai là Phật Đa Bảo và dĩ nhiên cũng không có bảo tháp nằm lơ lửng
trên không để chờ Phật Thích Ca mở. Kinh điển Phật giáo Đại thừa
luôn chứa một giáo lý bên trong tức là lý kinh
vì thế người học Phật phải thấu hiểu những đạo lý này để biết
ứng dụng cho đúng cách thì sự học kinh mới thực sự mang lại cho
mình sự thực dụng. Bằng không nếu y dựa vào sự kinh
thì càng lún sâu vào mê tín, sống trong ảo tưởng hoang đường.
Như vậy, Phật Đa Bảo tức là Pháp thân có sẵn
muôn đời trong tất cả mỗi chúng sinh. Khi chúng sinh biết dừng
hết vọng tưởng điên đảo tức là Hóa thân quy trở về thì ngay nơi
Báo thân này (thân thất đại) Pháp thân hiển hiện. Ngược lại nếu
còn vọng tưởng, chấp trước tức là Hóa thân chạy tới chạy lui thì
Pháp thân không bao giờ hiển hiện. Một ý nghĩa khác về Phật Đa
Bảo là xác định rằng chính Phật Đa Bảo trong hằng sa kiếp cũng
đã tu và đã từng nói kinh Pháp Hoa vì thế Phật thị hiện để minh
xác rằng Phật Thích Ca nói kinh Pháp Hoa rất hay và rất đúng mà
nhà Phật gọi là ấn chứng.
Chia nửa tòa sư tử trong tháp báu, Phật
Đa Bảo nói:
-Phật Thích Ca ! Xin mời lên ngồi
trên tòa nầy.
Tức thời đức Phật Thích Ca vào trong tháp
ngồi kiết-già trên chỗ được Phật Đa Bảo nhường.
Phật Thích Ca là người đạt đạo ngày nay và
Phật Đa Bảo thành Phật từ vô lượng kiếp bình đẳng nên mỗi vị
ngồi nửa tòa sư tử. Điều này nói rằng vị trí của Thỉ giác và Bản
giác ngang nhau nghĩa là Phật xưa và Phật nay địa vị bằng nhau,
khả năng chứng ngộ chân lý cũng giống nhau.
Thấy hai Như Lai cùng ngồi xếp bằng trên
tòa Sư Tử trong tháp, đại chúng thầm nguyện:
“Phật ngồi cao quá, cúi mong Như Lai dùng sức
thần thông làm cho bọn chúng con đều được gần Như Lai ở trên hư
không”.
Đức Thích Ca bèn dùng thần thông tiếp đại
chúng lên hư không, rồi nói lớn khắp bảo:
-Nay chính là lúc nói kinh Pháp Hoa
cho những ai, ở cõi Ta Bà, có khả năng nói kinh ấy.
Phật Thích Ca dùng thần thông tiếp đại chúng
lên hư không không có nghĩa là đức Phật dùng thần lực đưa tất cả
mọi người từ mặt đất lên hư không để nghe Phật nói kinh Pháp
Hoa. Tại sao? Bởi vì muốn lơ lửng trên không thì tâm phải vô
trụ, vô chấp cho nên khi các Ngài đạt đến trình độ đó thì các
Ngài hoàn toàn tự tại, tuy ở dưới đất mà tâm không dính mắc cũng
như lơ lửng ở trên không. Phật dạy chúng sinh dùng trí Bát Nhã
để quán tất cả các pháp là Không, đó là thần thông chớ Ngài
không biến hóa đưa đại chúng lên cao được. Nếu Ngài có khả năng
đó thì Ngài đã biến hóa giúp cho họ có trí tuệ Bồ Đề, có giải
thoát Niết bàn mà khỏi cần tu hành cực khổ. Nhưng trên thực tế
Ngài không làm được, bằng chứng con Ngài là La Hầu La cũng phải
tu, vợ Ngài là Du Da Đà La cũng phải tu, dưỡng mẫu Ma Ha Ba Xà
Ba Đề cũng phải tu, ngay cả A Nan cũng phải tu, anh em chú bác
khác cũng phải tu. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo tự giác. Nhắc
lại tháp của Phật Đa Bảo từ đất vọt lên lơ lửng trên hư không có
nghĩa là Pháp thân Phật trụ ở chỗ “VÔ TRỤ” tức là trụ ở trên hư
không, không dính mắc. Do đó nếu Phật Thích Ca muốn thấy được
Phật Đa Bảo thì cũng phải thỏa mãn một điều kiện tiên quyết. Đó
là tâm cũng trụ nơi “VÔ TRỤ” tức là tâm hoàn toàn thanh tịnh thì
Thỉ giác mới thể nhập được với Bản giác. Vô Trụ nghĩa là không
còn dính mắc nơi sắc, tài, danh, lợi, tham, đắm, dục, tình,
phẩn, hận, phú, não…
Kinh Pháp Hoa diễn giải một triết lý sâu thẳm
bên trong cho nên học kinh này phải thấu hiểu tường tận thì mới
thấy lẽ thật của kinh. Đức Phật dùng
phương tiện giáo hóa chúng sinh sống trong tỉnh giác, thấy biết
tận tường các pháp là do duyên hợp giả có, không có tự tánh nên
tâm không còn chấp trước, vọng tưởng từ từ biến mất, tâm trở
thành an định thì lúc đó Pháp thân sẽ hiển bày.
Tóm lại, đối với các Hóa thân của Phật Thích
Ca thể nhập với Phật Đa Bảo tức là Bổn Phật là việc rất dễ vì
các Ngài không còn dính mắc bởi các tướng trạng bên ngoài. Ngược
lại, các vị trong hàng Thanh Văn, Duyên Giác vẫn còn chấp trước,
tâm còn kẹt vào các tướng như có không, tốt xấu, trong ngoài…
cho nên Phật mới đưa họ lên hư không là muốn
giúp họ phá bỏ mọi sự dính mắc vào sự tướng mà nhìn thấu suốt
vào bản thể chân như thì lúc đó thể nhập vào Bổn Phật sẽ không
còn trở ngại.
Để diễn lại ý trên, đức Thích Ca nói một
bài kệ mà đại ý như sau:
-Đức Phật Đa Bảo diệt độ đã lâu, nay
vì muốn nghe kinh Pháp Hoa khó gặp mà hiện ra trong tháp báu, hà
huống các người mà chẳng siêng nghe.
Phật Đa Bảo đã nhập diệt từ muôn kiếp mà nay
còn muốn nghe Phật Thích Ca thuyết kinh Pháp Hoa, thế mà chúng
sinh hiện đang sống trong thời có kinh Pháp Hoa mà không được
nghe, không muốn nghe là một thiệt thòi to lớn.
Ai nói được kinh nầy là đã thấy ta cùng
Phật Đa Bảo và các vị phân-thân Phật.
Tại sao? Bởi vì nói được kinh này là biết
rằng trong ta lúc nào cũng có Tri Kiến Phật tức là Phật Đa Bảo
thường trụ trong ta vì thế người có trí thì chỉ cần hóa giải hết
vọng tưởng, tâm vô trụ thì chính mình đang sống với Tri Kiến
Phật của mình tức là Thỉ giác thể nhập với Bản giác rồi.
Các thiện nam tử! Nên suy nghĩ, phải phát
nguyện rộng lớn mới nói được kinh Pháp Hoa. Đó là một cái khó
hơn tất cả các thứ khó khác. Thật vậy, nói được tất cả các kinh
điển khác: dời núi Tu Di, lấy chân hất ba ngàn đại thiên thế
giới, dùng sự tướng mà rộng chỉ chân lý, lấy tay nắm bắt hư
không, đem cả đại địa để lên móng chân rồi bay lên cõi trời Phạm
Thiên, mang cỏ khô vào lửa mà không bị cháy, trì tám muôn bốn
ngàn kinh điển rồi vì người đem nói ra, khiến chứng được 6 thần
thông, nói pháp làm cho vô lượng chúng sanh đều đắc quả
A-la-hán, tất cả những việc làm ấy rất khó, nhưng chưa khó bằng
sau khi Phật diệt độ mà nói kinh Diệu Pháp, trong đời ác trược,
biên chép nắm giữ được kinh nầy, vì một người mà nói kinh nầy,
nghe lãnh và tìm thâm nghĩa trong kinh nầy, tôn trọng và thực
hành kinh nầy.
Kinh Diệu Pháp là bậc nhất. Thọ trì, đọc
tụng được ắt làm cho chư Phật hoan hỉ. Ai làm được là người dõng
mãnh tinh tấn. Đó mới thật là người trì giới, tu khổ hạnh,
là người được mau chứng quả Vô Thượng Bồ Đề.
Đời sau, ai đọc giữ kinh nầy là Phật tử
chân chánh, là bậc thuần thiện.
Sau khi Phật diệt độ, ai hiểu được kinh
nầy là mắt sáng suốt của Trời, Người trong thế gian.
Trong cảnh đầy sợ hãi, ai nói được kinh
nầy trong chốt lát, là người đáng cho Thiên, Nhân cúng dường.
Phật đã nâng đại chúng lên cao, đã mở cửa bảo
tháp và đại chúng đã thấy rõ được chân thân của Phật Thích Ca và
Bổn Phật Đa Bảo. Nhưng có người vẫn nghĩ rằng Phật Thích Ca và
Phật Đa Bảo là hai cho nên kinh mới có đoạn Phật Đa Bảo nhường
một nửa tòa sư tử cho Phật Thích Ca. Đây là Phật xiễn dương tinh
thần bất nhị về Bản môn và Tích môn tức là tuy hai nhưng mà một,
bất tức bất ly.
Tóm lại, phẩm Hiện Bảo Tháp là một phẩm diễn
tả các hiện tượng xảy ra rất tuyệt vời chẳng khác nào như một vở
tuồng mà trong đó mỗi tình tiết mang một ý nghĩa để giúp con
người vượt thoát trong tiến trình thể nhập với Bản môn.
Trong tất cả mỗi chúng sinh cũng có một bảo
tháp mà trong đó chứa toàn thân Như Lai tức là Pháp thân bất
sinh bất diệt, là Phật Đa Bảo. Vì thế trên con đường tu tập,
chúng sinh tự mình có thể mở được bảo tháp nghĩa là phải quy
những Hóa thân đang chạy theo lục dục thất tình, làm nô lệ cho
vô minh phiền não, trở về với Báo thân tức là tâm thanh tịnh,
không còn vọng tưởng chấp trước. Đến khi tất cả Hóa thân cùng
quy về với Pháp thân thì Phật Đa Bảo sẽ hiện bày tức là mình
đang sống với Tri Kiến Phật của chính mình. Do đó mức độ hay khả
năng mở bảo tháp của chúng sinh tùy thuộc vào tiến trình quy Hóa
thân tức là gom những vọng niệm về một chỗ. Người nào có càng ít
Hóa thân tức là có ít vọng niệm thì người đó càng gần với cửa
của bảo tháp, đến khi người đó quy tất cả Hóa thân vào Báo thân
thì chính tay họ mở tung cửa bảo tháp và ngồi trên tòa sư tử với
Đa Bảo Như Lai tức là thành Phật.
Đối với chư Phật thì các Ngài cũng khởi niệm,
nhưng tâm không dính mắc, không trụ vào bên này bên kia, không
chánh không tà thì Hóa thân đã quy về với Báo thân thanh tịnh
rồi. Vì thế các Ngài đã mở được bảo tháp và cùng ngồi trên tòa
sư tử với Phật Đa Bảo tức là Thỉ giác thể nhập với Bản giác
vậy.
∆ TOP |
NEXT
|