Phẩm
THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ
Đến đây đức Phật bắt đầu thọ ký cho những
người hữu học và vô học sẽ thành Phật. Hữu học có nghĩa là đang
còn phải học hỏi và tu chứng. Đó là các vị tu chứng các quả như
Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm. Còn những người vô học là
những bậc đã chứng thánh quả A la hán.
Lúc bấy giờ A-nan và La-hầu-la nghĩ
thầm:“Nếu mỗi chúng ta đều được thọ ký thì sung sướng biết bao”.
Hai vị liền đến trước Phật làm lễ, bạch rằng: “Chúng con nghĩ
cũng có phần được thọ ký, vì bao giờ cũng quy hướng về Như
Lai. Lại chúng con là người quen biết của tất cả trời,
người và A-tu-la trong thế gian. A-nan là người hầu và hộ trì
tạng pháp, còn La-hầu-la là con của Phật, nếu hai chúng con được
thọ ký thì nguyện của chúng con sẽ mãn mà chỗ trông mong của
chúng con cũng được đầy đủ”.
Hai ngàn đệ tử Thanh Văn, bậc hữu học và
vô học cũng đứng dậy lễ Phật, chấp tay chiêm ngưỡng dung
nhan Thế Tôn, tỏ ý cùng một sở niệm với A-nan và La-hầu-la.
Tôn giả A Nan và La Hầu La là hai người rất
thân thích của đức Phật và là những vị Tỳ kheo rất trẻ so với
các vị trưởng lão Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên…Trong khi ngài A
Nan xao lãng việc tu hành thì Tôn giả La Hầu La vừa mới ngoài
hai muơi đã chứng Thánh quả, trở thành đệ nhất mật hạnh trong số
10 đại đệ tử của Phật Đà. Mật hạnh là giới hạnh, là đạo đức sâu
kín bên trong chớ không biểu lộ ra ngoài. Một người bên ngoài
thì nhìn rất bình thường, thậm chí đôi khi còn tầm thường nữa là
khác, nhưng bên trong thì có đầy đủ đức hạnh từ bi hỷ xả, dứt
trừ phiền não vô minh, tâm hồn trong sáng tự tại thì mới là mật
hạnh. Ngược lại trong thế gian nầy có rất nhiều người bên trong
thì dẫy đầy Tham-Sân-Si, mạn, nghi, tật đố, hỷ nộ ái dục nhưng
bên ngoài thì làm ra vẽ trang nghiêm điềm đạm, nói năng đạo đức
quân tử. Thời nay thì những người giả nhân giả nghĩa hay ngụy
quân tử nầy rất nhiều nên nhà Phật mới có câu:
“Giả trang thiền tướng,
Cầu bỉ cung kính”
là vậy.
Vì thế đạo Phật khuyên chúng sinh nên phát
triển mật hạnh của chính mình vì đây chính là chất xúc tác để mở
con mắt tâm mà thấy được Chân Lý.
Thấy hai vị đứng dậy mong được Phật thọ ký
thì trong pháp hội có 2.000 đệ tử vừa hữu học vừa vô học đồng
hưởng ứng cùng mong được Phật thọ ký.
Phật bảo A-nan:
-Đời sau, ngươi sẽ được làm Phật hiệu
là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai… Ngươi sẽ cúng dường
62 ức Phật, hộ trì tạng pháp, rồi sau được Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác giáo hóa 20 ngàn muôn ức hằng hà sa Bồ tát…khiến
những Bồ tát ấy thành tựu đạo Bồ đề.
Nước của Phật Sơn Hải Huệ tên là
Thường Lập Thắng Phan, thanh tịnh đất bằng lưu ly. Kiếp của Phật
tên Diệu Âm Biến Mãn, thọ mạng của Phật vô lượng và mười phương
Như Lai đồng ca ngợi công đức của Phật”.
Trước hết Phật thọ ký cho Tôn giả A Nan sau
khi cúng dường 62 ức Phật, hộ trí Chánh Pháp rồi sẽ thành Phật
hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai tại thế giới
Thường Lập Thắng Phan và kiếp của Phật là Diệu Âm Biến Mãn có
thọ mạng vô lượng.
Tôn giả A Nan tuy chưa thành A La hán, nhưng
ngài nổi danh là đệ nhất đa văn nghĩa là sự hiểu biết của ngài
rộng lớn, cao như núi, rộng như biển cho nên khi thành Phật thì
Phật hiệu của ngài cũng tương xứng như vậy nghĩa là trí tuệ của
ngài rộng lớn bao la sâu thẩm như biển rộng, cao siêu như núi
lớn, thông suốt tự tại, bất tư nghì tức là Sơn Hải Tuệ.
Nhưng làm thế nào có thể cúng dường 62 ức Phật được? Tìm
đâu cho ra 62 ức Phật để cúng dường? Phật mà kinh nói ở đây
không phải là ứng thân Phật như đức Phật Thích Ca trong thế giới
Ta Bà này mà chính là Pháp thân Phật, là Như Lai Viên Giác Diệu
Tâm, là cái tâm Phật vốn sẵn có trong mỗi chúng sinh. Vì thế khi
làm một việc thiện, nói lời lành, ý nghĩ trong sáng thì ngay
thời điểm đó chính ta đã cúng dường cho Phật tâm, Phật tánh của
chúng ta rồi. Mỗi ngày trong tâm của chúng ta có biết bao tâm
niệm, miệng ta nói biết bao nhiêu lời và thân ta làm biết bao
hành động. Bây giờ nếu con người sống trong tĩnh thức chánh niệm
thì mỗi ngày họ nên chuyển tất cả những ý niệm thành ra ý niệm
lành, chỉ nói lời nói thiện và dĩ nhiên làm những việc tốt thì
chính họ đã cúng dường vô lượng vô biên chư Phật trong tâm của
họ rồi. Vì thế nếu chúng sinh biết giữ tâm ý khiến cho thân khẩu
ý được thanh tịnh thì chính họ đã cúng dường cho vô lượng hằng
sa Phật. Có được như vậy thì tâm mới Định và từ đó trí tuệ sẽ
phát sinh để chứng nghiệm chân lý tức là thành Phật.
Có vài tư tưởng để trao dồi thân tâm, giữ
vững chánh niệm:
- Sở dĩ con người đau khổ chính vì họ mãi đeo
đuổi những thứ sai lầm.
- Nếu ta không muốn rước phiền não vào mình,
thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho mình được.
Vì chính tâm ta không buông xuống nỗi.
- Chính ta phải luôn mở lòng khoan dung lượng
thứ cho chúng sanh, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm
tổn thương ta, ta phải buông bỏ, mới có được niềm vui đích thực.
-Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm
hối hận cho ngày mai.
-Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng gây
thương tổn, đừng khoe tài cán của mình, đừng phô điều xấu của
người, tự nhiên sẽ hóa thù thành bạn.
- Thế giới vốn không thuộc về mình, vì thế ta
không cần vứt bỏ nó, cái cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp.
Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng không thuộc về ta.
- Nếu một người chưa từng cảm nhận sự đau khổ
khó khăn thì rất khó cảm thông cho người khác. Bạn muốn học tinh
thần cứu khổ cứu nạn, thì trước hết phải chịu đựng được khổ nạn.
-Chúng ta không thể thay đổi được thế giới
xung quanh, nhưng chúng ta có thể sửa đổi chính mình, đối diện
với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ.
-Khi ta vui, phải biết rằng niềm vui này
không phải là vĩnh hằng. Khi ta đau khổ thì hãy nghĩ rằng nỗi
đau này cũng không trường tồn.
Tại sao thọ mạng của Phật Sơn Hải Tuệ là vô
lượng? Không lẽ Phật sống đời không chết? Nếu nói về ứng thân
Phật như Phật Thích Ca thì phải chịu sinh, lão, bệnh, tử của
luật vô thường của tạo hóa. Nhưng Phật mà kinh nói ở đây chính
là Pháp thân Phật. Trong thế giới bản thể Chơn Không thì không
có khái niệm về không gian và thời gian nên tuổi thọ của Phật là
vô lượng.
Cõi nước của ngài là Thường Lập Thắng Phan
nghĩa là thường dựng cây cờ chiến thắng bởi vì với trí tuệ sâu
thẳm như biển cả, núi cao thì không có tà thuyết ngoại đạo nào
có thể địch nổi. Kiếp tên Diệu Âm Biến Mãn tức là kiếp đó có
tiếng nhiệm mầu khắp cả.
Nói xong, Thế Tôn đọc một bài kệ lập lại
nghĩa trên.
Lúc bấy giờ, 8.000 Bồ tát mới phát tâm,
đều nghĩ:“Chúng ta chưa nghe các vị Bồ tát lớn được thọ ký như
thế, cớ sao mà các Thanh Văn lại được như vậy”.
Đức Phật biết tâm niệm ấy, bèn bảo rằng:
-Nầy các thiện nam tử, ấy vì ở nơi
Phật Không Vương, ta và A-nan đã đồng thời phát tâm cầu sự giác
ngộ vô thượng. A-nan thường ưa học rộng, còn ta thì siêng cần
tinh tấn, cho nên ta đã được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
còn A-nan thì theo bản nguyện, hộ trì pháp ta và trong tương
lai, tiếp tục hộ trì pháp tạng của Chư Phật, để giáo hóa thành
tựu chư Bồ tát. Bổn nguyện của ông như thế nên đặng thọ ký dường
ấy.
Trong Phật giáo Đại thừa thì danh từ Bồ Tát
được dùng cho tất cả mọi người phát tâm tu theo con đường đại
hạnh vì người cứu độ chúng sinh. Trong khi đó, Phật giáo Nguyên
thủy thì danh từ Bồ Tát chỉ dành để gọi cho Thái tử Tất Đạt Đa
trước khi tu thành Phật. Con số 8.000 Bồ Tát mới phát tâm là ẩn
dụ của kinh bởi vì kinh lấy số 8 để ám chỉ cho bát thức tâm
vương: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý
thức, Mạt na thức và A lại da thức. Mới phát tâm nghĩa là còn
phải tu đến khi chuyển A lại da thức thành Như Lai Tạng, Bạch
Tịnh Thức tức là Đại Viên Cảnh Trí thì công thành quả mãn.
Nhắc lại trong kinh Lăng Nghiêm, có 52 giai
vị mà một Bồ Tát phải trải qua:
► Thập Tín
có công năng giúp cho hành giả
thành tựu tín hạnh.
v
Tín tâm: Nhất tâm quyết định, mong
muốn thành tựu Phật quả.
v
Niệm tâm: Thường tu niệm Phật,
Pháp, Tăng, giới, thí, thiên.
v
Tinh tấn tâm: Nghe Bồ tát tạng,
siêng năng tu tập thiện nghiệp không gián đoạn.
v
Định tâm: Tâm an trụ vào sự vào
nghĩa, xa lìa cả hư ngụy, phù phiếm và nhớ tưởng phân biệt.
v
Huệ tâm: Nghe Bồ tát tạng, tư duy
quán sát, rõ biết các pháp vô ngã vô nhân, tự tánh không tịch.
v
Giới tâm: Thọ trì giới luật của Bồ
tát khiến cho thân, khẩu, ý thanh tịnh, không phạm các lỗi, nếu
nó phạm thì sám hối trừ hết.
v
Hồi hướng tâm: Hồi hướng các thiện
căn cho tất cả chúng sinh.
v
Hộ pháp tâm: Phòng hộ tâm mình,
không khởi phiền não.
v
Xả tâm: Buông xả tất cả.
v
10)Nguyện tâm: Lúc nào cũng nguyện
tu tập các điều thanh tịnh.
► Mười Thánh vị sau là Thập Trụ:
v
Sơ Phát Tâm Trụ: Khi đã phát được
tín tâm ở trên thì bây giờ Bồ Tát phát triển thêm trí tuệ, khế
hợp với chân lý Và tin vào tự tâm của mình là Phật, phát tâm
rộng lớn và tu hành viên mãn để hoàn thành Phật đạo.
v
Trì Địa
Trụ: Nương theo tâm tánh chân thật để trừ sạch những thói quen,
những tập khí mê lầm.
v
Tu Hành Trụ: Tâm tánh hiện tiền,
mọi việc sáng tỏ, dạo khắp mười phương làm Phật sự mà
không chướng ngại.
v
Sinh Quý Trụ: Nhờ diệu hạnh ở
trước khế hợp với diệu lý nên sinh vào nhà Phật làm Pháp vương
tử.
v
Phương Tiện Cụ Túc Trụ: Tu tập vô
lượng thiện căn, tự lợi, lợi tha, phương tiện đầy đủ.
v
Chính tâm trụ: Tâm tướng đồng như
Phật, từ bi hóa độ chúng sinh cũng đồng như Phật.
v
Bất thoái trụ: Phát triển cả từ bi
lẫn trí tuệ để cho ngày một thêm tiến mãi đến chỗ diệu viên.
v
Đồng Chân Trụ: Có đầy đủ mười thân
của Như Lai là Bồ Đề thân, Nguyện thân, Hóa Thân, Lực thân,
Trang nghiêm thân, Uy thế thân, Ý sanh thân, Phúc thân, Pháp
thân và Trí thân. Tuy chưa được Nhất thiết Chủng trí, nhưng hành
giả có đầy đủ trí thể nghĩa là tâm ấy là Phật.
v
Pháp Vương Tử Trụ: Ra khỏi thánh
thai, chính mình làm Phật tử.
v
Quán Đảnh Trụ: Bồ Tát đã là Phật
tử, làm được Phật sự cho nên Phật dùng nước trí Quán Đảnh
cho vị ấy.
► Mười Thánh vị sau là Thập Hạnh:
v
Hoan hỉ hạnh: Hành giả dựa theo
phương tiện đầy đủ tu hành, lìa bỏ được ý riêng mà tùy theo căn
cơ dục vọng của chúng sinh mà hóa độ họ.
v
Nhiêu ích hạnh: Khi tiêu trừ hết
các phiền não khổ đau thì có cái an lạc Bồ Đề để làm những việc
lợi ích cho tất cả chúng sinh.
v
Vô sân hận hạnh: Phật giáo Đại
thừa chủ trương tự giác cốt để giác tha nghĩa là tùy duyên, tùy
thời hóa độ, không trái với căn cơ của chúng sinh.
v
Vô tận hạnh: Tùy thuận các loài mà
hiện thân hóa độ, phát Bồ Đề nguyện rộng lớn không cùng.
v
Ly si loạn hạnh: Thấu hiểu thật
tướng của vạn pháp là vô tướng tức là Không tướng nên tùy theo
căn cơ mà dạy bảo tất cả pháp môn, không có sai lầm.
v
Thiện hiện hạnh: Biết không có
pháp thì thân khẩu ý vắng lặng, không còn trói buộc, không đắm
trước mà không bỏ việc giáo hóa chúng sinh.
v
Vô trước hạnh: Trải qua các cõi
nhiều như số hạt bụi cho nên cúng Phật cầu pháp mà tâm không
nhàm chán. Vì vắng lặng quan sát các pháp nên không đắm trước
đối với tất cả.
v
Tôn trọng hạnh: Tôn quý tu tập các
pháp như thiện căn, trí tuệ…nên tất cả đều thành tựu, nhờ đó
càng tiến tu hạnh tự lợi và lợi tha.
v
Thiện pháp hạnh: Thành tựu các
pháp như Tứ vô ngại…thành tựu các thiện pháp giáo hóa, giữ gìn
chánh pháp, không là tuyệt hạt giống Phật.
v
Chân thật hạnh: Thành tựu Đệ Nhất
Nghĩa Đế như lời nói mà thực hành, thực hành như lời nói tức là
lời nói đi đôi với hành động. Tất cả các hạnh đều không rời thật
tướng, không có sinh, không có ngăn trở, tất cả đều là tự tánh
thanh tịnh bản nhiên.
Tóm lại, tu Thập Hạnh hành giả có 4 mục đích:
v
Nhàm chán thế giới hữu vi.
v
Cầu Bồ Đề, đầy đủ Phật đức.
v
Muốn cứu độ chúng sinh trong đời
hiện tại và vị lai.
v
Cầu Thật tế, chứng Pháp Như.
► Mười Thánh Vị sau đó là Thập Hồi
Hướng:
v
Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh Ly
Chúng Sinh Tướng Hồi Hướng: Hành giả tu hành, trí tuệ mở mang,
phương tiện đầy đủ, trong Nhất Nhân Pháp Giới làm các Phật sự,
đồng thời xa lìa những vọng tưởng còn lại. Trong khi hóa độ
chúng sinh diệt cho hết các ý niệm tướng năng độ, sở độ mà xoay
tâm vô vi hướng về tự tánh Niết bàn.
v
Bất Hoại Hồi Hướng: Diệt trừ những
cái có thể diệt trừ và xa rời tất cả các sự xa rời.
v
Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng:
Đồng với sự hồi hướng của chư Phật 3 đời nghĩa là tu hành không
đắm sinh tử`, không lìa Bồ Đề.
v
Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng: Hồi
hướng thiện căn tu được đến khắp mọi nơi, từ Tam Bảo đến chúng
sinh để cúng dường làm lợi ích.
v
Vô Tận Công Đức Tạng Hồi Hướng:
Tùy hỉ tất cả vô tận thiện căn, hồi hướng làm Phật sự để được vô
tận công đức thiện căn.
v
Tùy Thuận Bình Đẳng Thiện Căn Hồi
Hướng: Trong chỗ lý trí viên dung, đồng như Phật địa, phát huy
những nhân hạnh thanh tịnh, hồi hướng đạo Bồ Đề.
v
Tùy Thuận Đẳng Quán Nhất Thiết
Chúng Sinh Hồi Hướng: Tăng trưởng tất cả thiện căn, hồi hướng
làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Hồi hướng thuận theo bản lai
tự tánh, quán tất cả chúng sinh, tất cả chư Phật đều bình đẳng
không sai không khác.
v
Như Tướng Hồi Hướng: Thuận theo
tướng Chân Như mà hồi hướng thiện căn đã thành tựu.
v
Vô Phược Giải Thoát Hồi Hướng: Đối
với tất cả các pháp không dính mắc, chấp trước, được tâm giải
thoát. Hồi hướng thiện pháp, thực hành hạnh Phổ Hiền, đầy đủ các
công đức.
v
Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng: Tu
tập tất cả vô tận thiện căn rồi hồi hướng các thiện căn này,
nguyện cầu vô lượng công đức trong Nhất chân pháp giới vì
trong đó tất cả sự vật đều bình đẳng như hư không.
Tóm lại, hồi hướng nghĩa là dùng tâm đại bi
cứu độ tất cả chúng sinh.
► Sau cùng, trong kinh Hoa Nghiêm,
phẩm Thập Địa nói lên mười giai vị của Bồ tát là:
v
Hoan hỷ địa
(Sơ địa) (Pramudità): Khác với lý tưởng của Nguyên thủy là tìm
sự giải thoát Niết bàn cho riêng mình thì ở đây Đại thừa giới
thiệu một lý tưởng cao đẹp hơn nhằm giúp cho tất cả mọi chúng
sinh giải thoát mọi phiền não vô minh. Khi diệt được các pháp
tướng mê lầm, chỗ giác ngộ đã đến cùng tột, diệt trừ được phân
biệt ngã chấp, pháp chấp nên tâm bắt đầu có được pháp lạc nên
mới gọi là hoan hỷ địa tức là sơ địa.
v
Ly cấu địa
(Uimada): là giác vị lìa bỏ tâm sai lầm, phá giới, phiền não
cấu.
v
Phát quang địa
(Prabhàkari): đến đây Bồ-tát thấu biết tánh vô thường của tất cả
vạn vật trong thế gian vũ trụ nên nội tâm càng thanh tịnh thì
trí tuệ càng sáng suốt.
v
Diệm huệ địa
(Arcismati): trong giai đoạn này, Bồ-tát bắt đầu thực hành sự an
nhiên tự tại và cắt dứt những thứ ô nhiễm, vô minh. Đến giai vị
này hành giả đã lìa bỏ kiến giải phân biệt, dùng lửa trí tuệ
thiêu đốt củi phiền não nhờ đó mà ngộ được bản thể trí tuệ. Lúc
ấy trí tuệ được sáng suốt tỏ tường và dĩ nhiên sự giác ngộ được
viên mãn.
v
Nan thắng địa
(Sudurjayà): Đến đây, Bồ-tát bắt đầu phát huy tinh thần bình
đẳng đồng nhất và giác ngộ nhờ vào thiền định giúp Bồ-tát biết
thấu suốt tục đế và chân đế viên dung bất nhị. Giác vị này đã
thành tựu trí xuất thế gian, nương vào năng lực phương tiện tự
tại mà cứu độ các chúng sinh khó cứu độ.
v
Hiện tiền địa
(Abhimukhi): Khi vào được giai đoạn này, Bồ-tát sẽ trực diện với
thực tại và sẽ ý thức được sự đồng nhất của tất cả mọi hiện
tượng. Và bấy giờ Bồ-tát sẽ nhận biết rằng vô vi chân như hoàn
toàn không nhiễm, không tịnh, thường hằng hiện tiền tức là tự
tánh của chân như hiện rõ có được đại trí.
v
Viễn hành địa
(Dùrangamà): Đến đây Bồ-tát có đủ dữ kiện để tiến vào giải thoát
Niết bàn, nhưng họ dừng lại vì còn trách nhiệm cứu giúp tất cả
chúng sinh cùng được giải thoát như mình. Họ biết rằng đến đây
tất cả đều là chân như, không có gì không phải là chân như, vô
cùng vô tận.
v
Bất động địa
(Acalà):
Đến đây Bồ-tát thấu biết rốt ráo sự bất sinh của tất cả hiện
tượng vạn hữu trong thế gian. Khi đã trải qua “vô sanh pháp
nhẫn” Bồ-tát thấu biết sự tiến hóa và thoái hóa của nhân sinh vũ
trụ. Vì vậy, tâm Bồ-tát thường trụ không thay đổi, tuyệt đối
không bị phiền não làm lay động.
v
Thiện huệ địa
(Sàdhumti): Đến đây Bồ-tát có thể phát hiện ra vô số thân để hóa
độ chúng sinh với đấy đủ bốn trí vô ngại. Đó là Ý thức thành ra
Diệu Quan Sát Trí, tiền ngũ thức thành ra Thành Sở Tác Trí, Mạt
na thức trở thành Bình Đẳng Tánh Trí và A Lại da thức sẽ thành
Đại Viên Cảnh Trí. Bồ tát dùng năng lực vô ngại để thuyết pháp,
hoàn thành hạnh lợi tha và trí tuệ được tự tại.
v
Pháp vân địa
(Dharmameghà): Khi Bô-tát công phu đầy đủ, công đức trí tuệ và
từ bi viên mãn có thể che chở cho vô lượng chúng sinh thì gọi là
nhập vào Pháp vân địa tức là Thập địa Bồ-tát vậy. Lúc ấy Bồ tát
được đại pháp thân, có năng lực tự tại.
Đến đây Bồ-tát đã có đồng một giác tánh bình
đẳng với Như Lai nên gọi là Đẳng giác Bồ-tát. Sau cùng Bồ-tát
chỉ cần giác ngộ sinh tướng vô minh thì tức thì chứng được Nhân
địa Như Lai tức là đạt được Diệu giác.
Bồ-tát chuyển Dị Thục thức thành ra Bạch
Tịnh thức rồi vào Kim Cương địa mà phát sinh Nhất thiết chủng
trí, Nhất thiết trí trí, tùy duyên hóa hiện, độ thoát chúng sinh
mà không rời tự tánh thanh tịnh Niết bàn
cho đến tột đỉnh nhân quả đồng thời là hoàn thành Phật đạo tức
là thành Phật.
Dựa theo Phật giáo Đại thừa thì sự chứng đắc
của các vị Bồ Tát từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi
Hướng còn thấp hơn các vị A la hán trong hàng Thanh Văn. Các vị
Bồ Tát từ Sơ Địa đến Thất Địa thì gọi là
Bồ Tát Đăng Địa trong đệ nhi A Tăng Kỳ. Và sau cùng Bồ Tát từ
Bát Động Địa đến Pháp Vân Địa thì gọi là Bồ Tát đệ tam A Tăng Kỳ
tức là Đại Bồ Tát hay Ma Ha Bồ Tát. Những vị Bồ Tát này trí tuệ
cao hơn các vị A la hán.
Vì thế đoạn kinh trên nói rằng vào thời Phật
Không Vương, Tôn giả A Nan cùng với Phật Thích Ca đồng phát tâm
Vô thượng Bồ Đề. Nhưng A Nan chỉ thích học rộng nghe nhiều nên
chưa thành Phật. Phật Thích Ca tinh tấn nỗ lực tu hành nên ngày
nay Ngài đã thành Phật. Còn A Nan thì còn hộ trì pháp Phật, giáo
hóa các vị Bồ Tát . Do vậy các vị A la hán có thể giáo hóa cho
Bồ Tát cho đến các vị Bồ Tát Đăng Địa.
Đạo Phật là đạo thực hành cho nên trước hết
đức Phật giảng giải cho biết giáo lý Ngài muốn nói cho đến khi
đệ tử thấu hiểu rõ ràng. Lần thứ hai hiểu rồi thì phải cố gắng
tu. Lần thứ ba tu rốt ráo thì sẽ chứng đắc, tự mình nghiệm chứng
được chân lý. Do đó nếu người tu Phật dậm chân tại chỗ ở giai
đoạn thứ nhất tức là chỉ học cho biết thì không bao giờ hưởng
được hương vị giải thoát cũng như nói ăn mà không ăn thì không
bao giờ no được. Tiến trình được gọi là Văn, Tư, Tu. Ngược lại,
nếu người tu mà thiếu phần học thì cũng như người mù đi trong sa
mạc dễ sa hầm sụp hố, chính mình không lợi ích mà cũng chẳng
giúp được cho người.
Lòng rất vui mừng, A-nan tức thời nhớ lại
tạng pháp của vô lượng ngàn muôn ức Phật thuở quá khứ, luôn cả
lời nguyện của mình.
Ở trước Phật, ông A Nan thay lời đại chúng,
xin được nói lên một bài kệ tán dương Đức Phật, cùng phát nguyện
và trình lên những điều tâm đắc của tận đáy lòng :
Diệu trạm tổng trì bất động Tôn
Thủ Lăng Nghiêm vương thế hy hữu
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân.
Nguyện kim đắc quả thành bảo vương.
Hoàn độ sa thị hằng sa chúng.
Tương thử thâm tâm phụng trần sát.
Thị tắc danh vi báo Phật ân.
Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh
Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập
Như nhất chúng sinh vị thành Phật.
Chung bất ư thử thủ Nê Hoàn.
Đại hùng đại lực đại từ bi
Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc
Linh ngã tảo đăng vô thượng giác
Ư thập phương giới tọa đạo tràng.
Thuấn-nhã-đa tánh khả tiêu vong
Thước-ca-la tâm vô động chuyển.
Dịch là :
Cao quý hay! Thủ Lăng Nghiêm Vương ít
có
Là pháp diệu trạm, bất động tổng trì
Đây là những lời tán thán Pháp thân thanh
tịnh nhiệm mầu, vắng lặng ứng hiện đến khắp tất cả nên gọi là
Diệu trạm. Tuy nói Pháp thân mà vẫn trọn vẹn ba thân. Vì Pháp
thân là thể của các pháp và có đầy đủ ba đức nên gọi là Tổng
trì. Thân Phật biến khắp pháp giới, ứng hiện đến với tất cả quần
sanh và tùy duyên cảm ứng khắp mọi nơi mà luôn an trú ở cội
Bồ-đề nên gọi là bất động. Trọn câu này là muốn chỉ cho Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni.
Ông A Nan vì thấy Phật có 32 tướng tốt và 80
vẻ đẹp nên sanh tâm yêu thích mới phát tâm xuất gia nên Đức Phật
mới chỉ cho ông thấy tuy thân Phật rực rỡ huy hoàng, nhưng cũng
chỉ là ứng thân sinh diệt cho nên sự phát tâm xuất gia như vậy
là hư vọng, không chính đáng. Nay nhờ ơn Phật khai thị nên diệu
ngộ được tâm mình mà thấy được Pháp thân Phật. Ban đầu, A Nan
thỉnh Phật khai thị con đường tu tập thiền định thì Phật dạy
rằng :‟Có pháp tam-ma-đề gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
Vương” sẽ giúp ông phá vọng hiển chơn để thấu tột nguồn nhất
chân mà chứng nhập chân lý. Vì đã ngộ được thể của định nên ông
khen ngợi pháp này là hiếm có.
Trừ hết tướng điên đảo ức kiếp của con
Không trải A Tăng Kỳ mà được pháp thân
Xưa ông A Nan chấp vọng tưởng điên đảo mà cho
là chân thật, nay nhờ liễu ngộ nên phiền não biến mất,
điên đảo tiêu trừ. Xưa chỉ biết thân tâm huyển vọng, nay cũng
thân ngũ uẩn mà ngộ được pháp thân mà không cần trải qua A Tăng
Kỳ kiếp.
Tôi nguyện từ nay cho đến khi thành
Phật
Độ chúng sinh như số cát sông Hằng
Đem thân tâm phụng sự vi trần quốc
Thế mới đủ đáp đền thâm ân Phật.
Phật giáo Đại Thừa luôn khuyến khích người đệ
tử Phật vì chúng sinh hoằng pháp độ sinh. Tâm niệm rằng :
‟Thượng cầu thành Phật, hạ hóa chúng sinh” là cách đền ơn Phật
thực tiễn nhất.
Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho :
Đời ác trược tôi thề vào trước
Còn một chúng sinh chưa thành Phật
Thì tôi không nhận hưởng Niết Bàn
Đời ngũ trược ác thế
mà tôn giả A Nan nguyện vào để cứu chúng sinh còn trầm luân
trong chốn bụi trần, thống khổ chớ không lo an lạc thanh tịnh
Niết bàn cho riêng mình. Ngài nguyện độ tất cả chúng sinh rồi
mới thành Phật. Đây là lời thề nguyện rộng lớn mà có lẽ chưa có
vị A la hán nào trong hàng Thanh Văn phát nguyện như vậy. Ngài
Địa Tạng Bồ-tát cũng phát nguyện rằng : ‟Khi nào còn chúng sinh
trong chốn u minh thì Ngài nguyện sẽ không thành Phật”.
Bạch đấng Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi
Tôi hy vọng xét trừ vi tế hoặc
Để sớm lên Vô Thượng Bồ-đề
Tôi sẽ làm Phật sự khắp mười phương
Tôn giả A Nan tuy ngộ được Pháp thân, nhưng
đây mới chỉ là kiến đạo chớ chưa phải là chứng đạo. Vì thế trong
A Nan vẫn còn vô minh vi tế ẩn núp thâm sâu rất khó tiêu trừ cần
phải dùng oai lực dũng mãnh của thiền định mới có thể phá được.
Một khi những kiến hoặc đã tiêu tan thì con đường để viên thành
Phật quả sẽ không còn xa. Khi thành Phật thì Ngài sẽ độ chúng
sinh mười phương thế giới bao la vô cùng vô tận.
Hư không dù hết, nguyện tôi không
cùng.
Thuấn-nhã-đa là hư không. Thước-ca-la là kiên
cố. Đây là lời thệ nguyện để nói lên tâm bất thối kiên cố. Tuy
hư không, vô hình vô tướng, bao la vô cùng vô tận mà còn có thể
tiêu tan, còn tâm kiên cố và nguyện lực của Ngài A Nan không bao
giờ lay chuyển.
Bấy giờ Phật bảo La-hầu-la:
-Đời sau ngươi sẽ đặng làm Phật hiệu
là Đạo Thất Bảo Hoa Như Lai. Ngươi sẽ cúng dường chư Phật
Như Lai đông như vi trần trong mười thế giới và thường vì các
đức Phật mà làm trưởng tử như hiện nay.
Đức Phật Đạo Thất Bảo Hoa đó, cõi
nước trang nghiêm, kiếp số thọ mạng, giáo hóa đệ tử, chánh pháp
và tượng pháp cũng đồng như Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như
Lai không khác. Ngươi sẽ làm trưởng tử cho Phật Sơn Hải Huệ, rồi
về sau sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng một bài
kệ…
Sau đó Phật liền thọ ký cho Tôn giả La Hầu La
sẽ cúng dường các đức Phật nhiều như số hạt bụi của mười thế
giới. Vì Ngài trong đời quá khứ đã phát nguyện làm trưởng tử cho
mỗi vị Phật ra đời cho nên trước khi thành Phật, ngài sẽ là
trưởng tử cho Phật Sơn Hải Huệ. Khi tu mật hạnh viên mãn, Ngài
sẽ thành Phật Ngài hiệu là Ðạo Thất Bảo Hoa Như Lai nghĩa là vị
Phật bước đi trên hoa bảy báu. Đời này A Nan với La hầu La liên
hệ tình chú cháu, nhưng vô lượng về sau thì La Hầu La sẽ làm con
của A Nan trước khi La Hầu La thành Phật.
Thấy các bậc hữu học, vô học 2.000 người
ý căn nhu nhuyễn, tịch nhiên thanh tịnh, một lòng nhìn Phật,
Phật bèn nói với A-nan:
-Tất cả những người ấy sẽ cúng dường
chư Phật Như Lai đông như vi trần trong 50 thế giới, cung
kính hộ trì pháp tạng, rốt sau đồng thời, ở các nước trong mười
phương, mỗi mỗi đều được thành Phật, đồng một hiệu là Bảo Tướng
Như Lai, sống lâu một kiếp, cõi nước trang nghiêm số đệ tử Thanh
Văn, Bồ Tát và thời gian chánh pháp, tượng pháp thảy đều đồng
nhau.
Lúc đó, các hàng hữu học, vô học nghe
đức Phật thọ ký, vui mừng hớn hở như được rưới nước cam lộ.
Sau cùng đức Phật thọ ký cho tất cả 2.000
người hữu học và vô học cúng dường chư Phật hằng sa số trong 50
thế giới và cung kính hộ trì pháp tạng sẽ thành Phật và có chung
Phật hiệu là Bảo Tướng Như Lai. Trí tuệ quang minh của Phật như
đèn sáng chiếu khắp. Con số 50 thế giới là kinh muốn dùng con số
năm để ám chỉ cho ngũ uẩn mà kinh Lăng Nghiêm có nói 50 ngũ uẩn
ma là không thật như hư đóm trong hư không. Tại sao? Bởi
vì một người khi đã chứng đắc quả A la hán thì tất cả các chủng
tử hữu lậu đã tan biến và trong họ chỉ còn chủng tử vô lậu nghĩa
là tất cả phiền não khổ đau và những nguyên nhân đưa đến phiền
não khổ đâu cũng không còn. Đó là các ngài đã chứng chân lý Vô
Ngã nghĩa là trong họ không hề có “Cái Ta” hay “Cái của Ta”.
Trong thì Ngã không, ngoài thì Pháp không, trong ngoài tự tại
thì hết chấp. Trong khi đó, phàm nhân thì tin chắc rằng thân ngũ
uẩn của mình là thật, là Ta, là của Ta và là sở hữu của Ta, sống
giữ chết mang theo cho nên có sống chết, tranh đấu để bảo vệ Ta
và cái của Ta vì thế mới có phiền não, khổ đau. Vì thế kinh nói
họ phải cúng dường chư Phật nhiều như vi trần trong 50 thế giới
là họ phải tính tấn nỗ lực tu hành thì mới có giải thoát được.
Cứ mỗi việc lành họ thực hành là cúng dường cho một vị Phật, một
tư tưởng thiện là cúng dường cho một vị Phật và cứ thế mà làm.
Mỗi ngày chúng ta phát sinh biết bao tư tưởng, nếu bây giờ
chuyển hết hàng ngàn hàng vạn tư tưởng đó thành ra ý niệm lành
thì chúng ta đã cúng dường cho vô số chư Phật rồi. Lời nói và
hành động cũng thế.
Hai ngàn vị Thanh Văn được Phật thọ ký, lòng
dâng lên bao nổi vui mừng cũng như thọ hưởng nước cam lộ mát dịu
từ đức Thế Tôn. Con người cũng vì có ý niệm chấp ngã nên đại đa
số ai cũng muốn sống lâu, sống thọ để hưởng những lạc thú trên
thế gian. Phản ứng tự nhiên khi nghe đến chết là họ nghĩ ngay
đến sự chia lìa những gì mình quý mến thương yêu nhất. Chết là
bỏ lại tài sản mà mình vun bồi, xây dựng bao nhiêu năm, xa cách
cha mẹ, vợ chồng, con cái, lo sợ cuộc hành trình đơn độc này sẽ
như thế nào và dĩ nhiên không biết tương lai mình sẽ đi về đâu?
Nhưng xét cho cùng thì thế gian là vô thường, do duyên giả hợp
chớ có cái gì bền chắc muôn đời hay cái gì thật sự là của Ta
đâu? Khi sanh ra Ta thì Ta đâu có vợ chồng con cái, nhà cao cửa
rộng vì thế tất cả là của thế gian chớ đâu phải của riêng Ta cho
nên khi duyên tan rã thì của thế gian trả lại hết cho thế gian
ngay cả tấm thân mà Ta gọi là của Ta cũng phải trả lại cho đời.
Đức Phật dạy rằng bóng cây hướng nào thì cây sẽ ngã theo hướng
đó cho nên nếu đời này ta kiến tạo rất nhiều thiện phước thì
kiếp sau sẽ được thọ báo vào chỗ an lành để hưởng lấy phước lợi.
Ngược lại nếu ta tạo nhiều ác nghiệp thì đời sau phải chịu sinh
vào chốn trầm luân, thọ khổ nhiều hơn vui. Do đó nếu không còn
chấp ngã nghĩa là không còn tham luyến cái Ta và những gì thuộc
về Ta thì sự sống chết là chuyện thường, xem chuyện tử sanh là
trò dâu bể tức là Có trở thành Không và Không biến thành Có. Đó
là vạn pháp sanh mà không thật sanh và diệt mà không bao giờ mất
hẳn vì thế hãy sống nhẹ nhàng thanh thoát, an vui tự tại ngay
giây phút này chớ đứng quá quan tâm chết sẽ đi về đâu tức là tự
mình tạo ra cho mình thêm nỗi khổ. Vì vậy nếu chúng sinh diệt
được ý niệm sinh diệt trong tâm thì chính họ sẽ có niềm vui tịch
diệt tức là đạt đến cứu cánh Như Như bất động.
Tóm lại về phần thọ ký thì kinh Pháp Hoa có
ba phẩm:
1)Trong phẩm Thí Dụ, đức Phật thọ ký cho Tôn
giả Xá lợi Phất sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai rồi đến
phẩm Thọ Ký, đức Phật bắt đầu thọ ký cho các đại đệ tử như Xá
Lợi Phất, Đại Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Mục Kiền Liên.
2)Phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký thọ ký thì Phật
thọ ký Tôn giả Phú Lâu Na rồi đến 500 vị A la hán khác.
3)Đến phẩm này, đức Phật lại thọ ký cho ngài
A Nan và La Hầu La là hai vị Tỳ kheo trẻ nhất trong số những vị
Tỳ kheo xuất sắc trong Tăng đoàn. Rồi sau đó Phật mới thọ ký cho
tất cả mọi người.
Đức Phật thọ ký cho tất cả mọi người là vì
trong mỗi chúng sinh đã có sẵn tri kiến Phật tức là chất Phật
nên đức Phật mới thọ ký được chớ đừng hiểu rằng đức Phật là một
đấng quyền uy tối thượng muốn ban ơn cho ai thì ban hoặc muốn
giáng họa cho ai thì giáng. Đức Phật là đấng đại từ đại bi thì
việc giáng họa cho người dĩ nhiên không bao giờ có, nhưng
còn thương người nào thì ban ơn, chúc
phúc cho họ thì cũng không có. Bằng chứng là Tôn giả A Nan cả
đời theo chân làm thị giả cho đức Phật mà vẫn không chứng đắc
Thánh quả vì A Nan không chịu tu mà chỉ muốn học rộng nghe
nhiều. Tuy mang tiếng là đệ nhất đa văn, nhưng ông không tu
thiền na, không có đại định nên không thể tiêu diệt những vẫn
đục của thập triền, thập sử mà cứ dậm chân tại chỗ ở quả nhập
lưu là Tu Đà Hoàn. Vì thế không thể hiểu Phật như là một đấng
thần linh, một đấng siêu nhiên thì con đường học Phật mới tiến
bộ được.
1)Thập triền: là mười món
phiền não nương vào tham, sân, si mà khởi, tương ưng với tâm
nhiễm ô, tạo các ác hạnh để trói buộc chúng sinh trong sinh tử.
ü
-Vô tàm: Không biết hổ thẹn.
ü
-Vô quý: Không biết hổ thẹn đối
với những tội lỗi do mình tạo ra khi bị người khác thấy biết.
ü
-Tật: Tâm đố kỵ đối với những việc
hưng thịnh của người khác.
ü
-San: Bỏn sẻn, keo kiệt.
ü
-Hối: Hối hận vì những lỗi xấu của
mình đã làm, khiến tâm bất an.
ü
-Miên: Mê ngủ khiến tâm mờ tối,
không có năng lực tỉnh xét.
ü
-Điệu cử: Thân dao động khiến tâm
không yên, không thể nào thành tựu các thiền quán.
ü
-Hôn trầm: Thần thức u mê, thân
tâm không có năng lực an trụ trong thiện pháp.
ü
-Phẫn: Đối với cảnh trái ý mình
thì sinh tâm tức giận, đánh mất chánh niệm.
ü
-Phú: Che đậy tội lỗi của mình.
Nếu hằng ngày chúng sinh không giữ vững chánh
niệm, sống trong tĩnh thức thì mười món này sẽ trói buộc (triền)
con người không có lối thoát.
2)Thập sử: Căn bản phiền não
có sáu món là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Phần ác kiến
lại chia làm năm phần: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ,
Giới cấm thủ. Thập sử là tên gọi dựa theo Duy Thức Học còn tên
thông thường là Tư Hoặc và Kiến Hoặc trong phần Tập Đế. Do đó
con đường duy nhất để có giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi là
phải phá cho được Tư Hoặc và Kiến Hoặc chứng đắc thánh quả A la
hán. Năm món tham, sân, si, mạn, nghi gọi là năm món “độn
sử” bởi vì nó ngấm ngầm sai sử con người cũng như than
đỏ trong tro làm chướng ngại ba món vô lậu Giới Định Tuệ. Ví dụ,
cũng vì muốn thỏa mãn lòng tham mà có người dám làm những chuyện
tày trời, phạm luân thường đạo lý, không kể hậu quả sau này sẽ
vào tù ra khám. Khi cơn giận nổi lên thì bất chấp phải trái ngay
cả giết người họ cũng làm. Hoặc một khi lòng si mê tham đắm dục
tình bùng cháy trong tâm, người đàn bà có thể giết chồng, bỏ con
để chạy theo tiếng gọi của con tim. Nói chung hằng ngày tham,
sân, si, mạn, nghi sai sử chúng ta trên mọi phương diện, từng
giây từng phút, từng sát na. Vì thế chỉ có chánh niệm tỉnh thức
mới đánh thức con người để quay về sống đúng với chơn tánh của
mình tức là chính mình đã chặt đứt những sợi dây vô hình
cột chân cột tay chúng ta vào con đường bất thiện.
Tóm lại, học Phật là để nhận thức Chân lý, để
chuyển hóa tất cả những vọng thức phân biệt đối đãi (vọng tâm
điên đảo) để có cuộc sống an vui, tự tại và cuối cùng đạt đến
cứu cánh tối thượng là giải thoát giác ngộ tức là giải thoát
hoàn toàn ra khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau và tâm trí
bừng sáng để thấy biết rốt ráo tận cùng, trực nhận Chân lý.
∆ TOP |
NEXT
|