Phẩm
PHÁP SƯ
Pháp sư là vị thầy thông hiểu chánh pháp,
sống với chánh pháp và truyền bá chánh pháp, mà pháp được nói là
kinh Diệu Pháp Liên Hoa tức là Tri Kiến Phật vốn đã có sẵn trong
mỗi chúng sinh. Do đó Pháp sư Pháp Hoa là vị thầy truyền bá,
giảng nói, thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa. Vì trong tất cả mọi
chúng sinh đều có Tri Kiến Phật giống y như Phật nên Ngài mới
thọ ký cho đời sau sẽ thành Phật. Do đó nếu chúng sinh không có
sẵn chất vàng này thì Phật không bao giờ dám thọ ký cho ai cả vì
Ngài không phải là đấng thần linh, nắm toàn quyền thưởng phạt
trong tay. Vì thế thọ ký chẳng qua là lời khuyến khích của đấng
đạo sư để giúp con người tăng thêm năng lực mà tự mình vun bồi
phước đức, công đức và phát triển trí tuệ để đạt đến cứu cánh
tối thượng là thành Phật. Nói cách khác tuy Phật có thọ ký cho
chúng sinh, nhưng chúng
sinh phải tự mình hóa giải hết vô minh phiền não để chứng nghiệm
chân lý chớ Phật không cho ta quả vị Phật được.
Để dạy cho tám muôn Đại Sĩ, khi bấy giờ
Phật nói với Bồ-tát Dược Vương rằng:
-Trong đại chúng đầy đủ hạng người
Chư Thiên, Long Vương, Càn-thát-bà, A-tu-la…Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di,
Thanh Văn, Duyên Giác cho đến những người cầu thành Phật
đạo. Không để riêng ai, nếu người nào ở trước Phật nghe kinh
Diệu Pháp Liên Hoa, một câu một bài kệ nhẫn đến một niệm tùy hỉ,
Như Lai đều thọ ký họ là người sẽ thành tựu quả Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Đối với Phật nhãn thì Ngài nhìn tất cả đều là
chúng sinh tức là ai ai cũng đều có Tri Kiến Phật nghĩa là đã có
đầy đủ nhân tố tức là có hột giống Phật để tu thành Phật. Vì thế
nếu chúng sinh nghe kinh Pháp Hoa ngay cả chỉ cần một câu hay
một bài kệ với tâm tùy hỉ thì cũng được Phật thọ ký cho thành
Phật. Trong pháp hội này có đầy đủ mọi hạng người từ Thanh Văn,
Duyên Giác, trời người, chư thiên, long vương, quỷ thần đều được
Phật thọ ký hết, không bỏ sót một ai.
Phật dạy tiếp: Sau
Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa một
câu một bài kệ cho đến một niệm tùy hỉ, Như Lai cũng thọ
ký cho quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Người nào thọ trì, đọc, tụng, giảng
nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa cung kính cúng dường bằng
các thứ trân bảo, hương thơm, trang nghiêm đẹp đẽ… Dược Vương
nên biết các người đó đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, đã
thành tựu đại nguyện, vì thương xót chúng sanh mà sanh vào nhân
gian đấy.
Tuy chúng ta sinh vào thời không có Phật,
nhưng dựa theo kinh Pháp Hoa đức Phật dạy rằng sau khi Ngài nhập
diệt, có người nghe kinh Pháp Hoa cho dù chỉ là một câu, một bài
kệ, hay một niệm với tâm hoan hỉ thì cũng được Phật thọ ký sẽ
thành Phật. Tại sao lại phải hoan hỉ? Hoan hỉ là hân hoan chấp
nhận rằng trong ta đã có sẵn Tri Kiến Phật tức là Phật nhân rồi
sau đó nỗ lực tinh tấn tu hành thì sẽ đạt đến Phật quả. Vì thế
người hội nhập Pháp Hoa là người lúc nào cũng biết rằng mình là
Phật, chúng sinh là Phật, ai ai cũng là Phật thì từ đó tinh thần
vô ngã vị tha sẽ nở rộng trong tâm vì cảm nhận được nỗi khổ của
người là nỗi khổ của mình và niềm vui của người cũng là niềm vui
của chính mình.
Người nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên
chép được thì người đó là Pháp sư Pháp Hoa nghĩa là người đó
phải tin và hiểu nghĩa lý của kinh Pháp Hoa thấu suốt.
Cung kính cúng dường bằng các thứ trân bảo,
hương thơm đẹp đẽ để cúng dường kinh Pháp Hoa tức là cúng dường
mười muôn ức Phật…không có nghĩa là chúng sinh phải tìm những
thứ trân bảo quý giá đắc tiền để cúng dường chư Phật mà thâm ý
kinh muốn nói là chúng sinh phải cố gắng vun bồi cái tánh giác
tròn đầy của mình trong mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh. Đó là phải
giữ thân, khẩu, ý thanh tịnh. Một ý niệm lành là đã cúng dường
cho một vị Phật, một lời nói thiện là đã cúng dường cho
một vị Phật khác, một hành động tốt là đã cúng dường cho một vị
Phật nữa. Cứ thế mà làm thì những chủng tử thiện sẽ đưa con
người trở về gần với chơn tánh của mình tức là đã cúng dường
hằng sa chư Phật rồi.
Dược Vương! Nếu có người hỏi trong
thời vị lai, những chúng sanh nào sẽ được thành Phật thì nên chỉ
những người vừa kể trên mà nói rằng những người đó sẽ thành
Phật. Vì sao? Nếu có người trai lành, gái tốt nào thọ trì, đọc
tụng, biên chép, giảng nói dầu là một câu của kinh Diệu Pháp
Liên Hoa và dùng các thứ hương hoa, báu vật mà cúng dường, thì
người đó đáng được nhân gian chiêm ngưỡng và cúng dường như cúng
dường Phật vì đó là hàng Đại Bồ tát đã thành tựu Chánh Giác
nhưng vì thương chúng sanh mà nguyện sanh trên đời để phân biệt
giảng nói kinh Pháp Hoa. Dược Vương nên biết ! Người đó từ
bỏ phước báu thanh tịnh để sanh vào đời trược ác, vì chúng
sanh mà truyền bá giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau Như Lai
diệt độ, nếu có người trai lành gái tốt có thể vì riêng một
người mà nói kinh Pháp Hoa nhẫn đến một câu kinh phải biết người
đó là sứ giả của Như Lai. Như Lai sai làm việc của Như Lai, còn
nói chi người ở trong đại chúng vì nhiều người giảng nói !
Tuy kinh có nói ở đời sau có những Pháp sư
truyền giảng kinh Pháp Hoa, nhưng truyền giảng ở đây là phải nói
đúng ý kinh, hợp với chủ đích của kinh, nói đúng chân lý chớ
không đưa người nghe vào mê hồn trận nào là tôn thờ, lạy lục, lễ
bái, cầu xin Phật hay Bồ Tát thì đây đâu phải là Pháp Hoa tức lả
chỉ thấy hình tướng mà không thông được lý nhiệm mầu. Giảng như
vậy thà đừng giảng còn ích lợi hơn đưa con người vào con đường
mê muội. Thọ trì, biên chép, giảng nói cách nào mà chúng sinh
nhận biết rằng chính họ là Phật thì mới nói đúng Pháp Hoa. Nói
xa hơn là khi đã thâm hiểu Pháp Hoa thì không cần lạy cúng vị
Phật nào để cầu xin sự ban ơn, gia bì vì chính mình là Phật rồi,
chính mình cũng có đầy đủ chất Phật là Tri Kiến Phật rồi. Vì vậy
muốn thực sự trở thành Phật thì chỉ cẩn kiểm soát thân khẩu ý.
Nếu thân khẩu ý hoàn toàn thanh tịnh thì mình là Phật bằng không
thì mình là chúng sinh do đó mê là chúng sinh, thức tỉnh là giác
ngộ, là Phật. Đạo Phật luôn dạy chúng sinh sống theo chân lý,
sống đúng với chân lý và sống phù hợp với chân lý.
Dược Vương! Nếu có người bất thiện,
dụng ác tâm ở trước Phật chê mắng Phật suốt một kiếp tội còn
nhẹ. Nếu có người hung hãn chưỡi mắng người tại gia hay xuất gia
thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì tội rất nặng.
Tại sao? Nếu chê mắng Phật thì chỉ chê mắng
có một vị Phật mà Phật ở đây có thể chỉ là Phật tướng, Phật
đồng, Phật gổ thì tội còn nhẹ. Còn người biết thọ trì, ghi chép,
giảng nói, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì mọi người sẽ biết mình là
Phật, tương lai mình sẽ thành Phật vì thế nếu chê bai mắng nhiếc
việc làm của họ chẳng khác nào xúc phạm đến vô lượng chư Phật
tương lai làm họ thoái tâm Bồ Đề thì tội chắc chắn sẽ nặng hơn
nhiều. Kinh Kim Cang có dạy rằng:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.
Dịch là:
Nếu thấy Ta bằng sắc tướng
Nghe Ta bằng âm thanh
Người nầy đi đường tà
Không thấy được Như Lai.
Một lần nữa chính đức Phật dạy chúng sinh
phải phá trừ Vô minh vọng chấp để đạt được trí tuệ Bát Nhã thì
mới thật thấy và thật nghe được Phật. Trái lại, nếu còn vô minh
vọng chấp có nghĩa là chấp có sắc tướng hay âm thanh của Phật
thì không bao giờ thấy được Phật. Bởi thế nên Phật mới quở là
“Người nầy đi đường tà” tức là vọng thì sẽ không bao giờ thấy
được Như Lai. Như thế nếu từ cửa Bát Nhã là cửa “Không” chúng ta
bước vào trong nhà thì bây giờ mới thấy được tâm Phật của mình.
Nếu sống với tâm Phật nầy là mở rộng cánh cửa giải thoát để
chứng ngộ Niết bàn. Nhưng đây là một thứ Niết bàn tự tánh thường
vắng lặng mà thường sáng suốt. Nó vẫn thường bộc lộ sáng suốt
nơi chư Phật mà vẫn thường sẵn có nơi mọi loài chúng sinh. Mà
kinh gọi là Phật tánh, là Chơn tâm, là Như Lai tạng. Chính tự
tánh Niết bàn nầy có đầy đủ bốn đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
“Thường” nghĩa là không bị chi phối bởi tánh vô
thường, khi nào cũng như khi nào, không lên bổng xuống trầm,
không còn già trẻ, sống chết đổi thay.“Lạc” là
không còn khổ não lo buồn, an vui tự tại. “Ngã”
là được hoàn toàn tự chủ và không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi
phối. “Tịnh” là không còn ô nhiễm, luôn luôn
thanh tịnh, trong sáng.
Kinh nói tội nặng không có nghĩa là Phật sẽ
đọa mình vào địa ngục hay Phật sai nam tào bắc đẩu đến xóa sổ mà
tội nặng là mình không chấp nhận chính mình có khả năng thành
Phật, chính mình không tin khả năng chuyển hóa thân khẩu ý của
mình cho thật thanh tịnh để Phật chất được hiển lộ. Do đó tội
nặng là tự mình chôn vùi cuộc đời của mình vào trong bể trầm
luân, không có lối thoát thế thôi chớ có ai bắt tội mình đâu. Vì
thế trong kinh Địa Tạng có câu: “Tội hành
nghiệp cảm” nghĩa là con người làm biết bao tội nghiệp trái với
chơn lý thì chính họ sẽ cảm lấy cái quả báo nó sẽ đến với họ do
đó Phật giáo phủ nhận hoàn toàn chủ thuyết Thượng đế vì nếu
Thượng đế sinh ra ta thì ai sinh ra Thượng đế? Cho nên chính ta
mới là Thượng đế của chính mình, chính ta mới có đủ khả năng và
năng lực làm chủ cuộc đời của mình và chỉ có ta mới thay đổi
được định mệnh của mình chớ không ai khác.
Dược Vương! Người đọc tụng kinh Pháp
Hoa, phải biết người đó dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang
nghiêm mình. Như Lai dùng vai mà vác người đó. Mọi người nên
dùng những thứ: hương hoa, kỹ nhạc quý báu nhất trong cõi đời
để cúng dường. Vì sao? Bởi vì nghe pháp của người đó nói trong
khoảng giây lát bèn được tỏ ngộ chân lý rốt ráo đối với quả Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Để lập lại nghĩa trên đức Thế Tôn nói một
bài kệ.
Người đã có đức tin vững chắc nơi kinh Pháp
Hoa thì người đó dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang nghiêm
cho mình. Tại sao? Bởi vì họ lấy trí tuệ nhận thức chân lý của
Phật dạy để áp dụng trong đời sống của mình thì mình sẽ được sự
an lành, có sự giải thoát như Phật. Hằng ngày chúng sinh nên
kiểm soát thân khẩu ý của mình, phải biết sống trong thức tĩnh
và luôn giữ chánh niệm thì những ác niệm, tà kiến không bao giờ
dấy động trong tâm của mình. Vọng niệm tan biến thì tịch diệt
hiển bày, thân tâm tự tại.
Rồi đức Phật dạy tiếp:
-Dược Vương ! Kinh điển của ta có thể
nói nhiều vô lượng, đã nói đang nói và sẽ nói mà trong đó kinh
Pháp Hoa khó tin và khó hiểu. Kinh nầy là tạng bí yếu của
chư Phật, không thể truyền trao khinh suất bừa bãi cho những
người không đúng đối tượng căn cơ. Đây là thứ kinh chư Phật giữ
gìn cẩn mật chưa từng diễn nói. Bởi vì Như Lai còn tại thế nói
ra còn nhiều người oán ghét huống chi sau khi Như Lai diệt độ.
Dược Vương nên biết: Sau Như Lai diệt
độ, người nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói cho người
khác nghe, Như Lai lấy y mà trùm, người đó được chư Phật trong
mười phương hộ niệm. Như Lai lấy tay xoa đầu và người đó cùng
với Như Lai ở chung.
Từ khi đức Phật thành đạo cho đến khi Ngài
nói kinh Pháp Hoa thì Ngài thuyết rất nhiều nào là Tứ Diệu Đế,
nào là Thập Nhị Nhân duyên…nhưng kinh Pháp Hoa mới là bậc nhất
vì nghĩa lý siêu xuất của nó nên tuy Pháp Hoa là đệ nhất kinh
văn mà lại là kinh khó tin, khó hiểu nhất. Cái tuyệt của kinh là
chỉ thẳng Tri Kiến Phật, là chỗ giác ngộ viên mãn mà Phật đã
thành tựu và Ngài biết mỗi chúng sinh cũng có sẵn cái Tri Kiến
Phật giống y như Phật nên Ngài mới khai mở, chỉ bày, làm
tỏ ngộ và thâm nhập cái thấy biết của mình để chúng
sinh tu thành Phật như Ngài. Kinh Pháp Hoa là tạng pháp quan
trọng và bí mật nhất của mười phương chư Phật nên phải có đúng
đối tượng mới có thể tiếp thọ và thọ trì nó được. Khi Phật nói
kinh Pháp Hoa thì có một số người chẳng những không tin mà còn
sinh tâm oán hận vì vậy mai sau khi Phật nhập diệt thì chắc chắn
số người xem thường, phỉ báng sẽ không ít.
Mãi sau khi đức Phật nhập diệt, nếu có người
thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa cho người
khác nghe thì sẽ được Phật lấy y Cà sa trùm lên người đó và còn
được mười phương chư Phật luôn gia bị bảo hộ cho người đó và
được Phật lấy tay xoa đầu khiến cho họ khai mở đại trí tuệ. Có
thật như thế chăng? Nếu chúng ta thọ trì kinh Pháp Hoa tức là
chúng ta tin nhận nơi mình có Tri Kiến Phật tức là trong ta đã
có Phật (tánh) hiện hữu thường hằng rồi. Nói cách khác thọ trì
kinh Pháp Hoa là biết ta là Phật, chúng sinh là Phật, ai ai cũng
đều là Phật vì vậy Phật xoa đầu, lấy y trùm hay ở với chúng ta
là vậy. Nên nhớ chữ Như Lai mà kinh dùng
ở đây không phải là đức Phật Thích Ca mà chỉ cho Pháp thân, Phật
tánh, Tri Kiến Phật, là bản thể thanh tịnh của tất cả mọi chúng
sinh.
Dược Vương! Ở nơi chốn nào có kinh
nầy hoặc giảng nói hoặc đọc tụng nên xây tháp bằng bảy báu cao
rộng đẹp đẽ mà trong đó không cần tôn trí xá lợi. Bởi vì trong
đó có toàn thân Như Lai rồi. Nên dùng các thứ hương hoa, trân
bảo, tràng phan… để cúng dường tháp. Người nào thấy tháp lễ bái
cúng dường, phải biết những người đó đã gần gũi với quả Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tại sao Phật dạy bất cứ ở nơi nào mà có người
giảng nói, đọc tụng kinh Pháp Hoa hoặc có kinh Pháp Hoa thì nên
xây tháp bằng bảy báu cao rộng đẹp đẽ mà trong đó không cần để
Xá Lợi? Bởi vì kinh Pháp Hoa nói về Tri Kiến Phật tức là Phật
tánh sẵn có nơi mỗi chúng sinh cho nên có kinh Pháp Hoa là có
Pháp thân, Phật tánh hiện bày ở đó rồi nên không cần Xá Lợi nữa.
Còn người đọc tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa là người tin rằng
chính mình có Phật tánh tức là mình là Phật, mình sẽ thành Phật.
Mà con đường để viên thành Phật quả thì chúng sinh phải giữ gìn
thân khẩu ý cho thanh tịnh. Mỗi ý niệm lành, một lời nói thiện
hay một hành động tốt là những trân bảo để cúng dường cho vị
Phật trong tâm của chúng ta. Nếu nói về vật chất thế gian thì
bảy báu là vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, trân châu, san hô và mã
não. Nhưng ở đây, bảy báu là bảy con đường thiện xảo đưa con
người từ mê đến giác, từ phàm đến Thánh. Đây chính là Thất Thánh
Tài và gồm có: Giới, Tín, Văn, Sám hối, Tinh tấn, Buông xả và
Trí tuệ.
Vàng
là vật cao quý chẳng khác gì Giới
Bạc
là sự thay trắng đổi đen nên ám chỉ cho Tín tức
là lòng tin tưởng vào Phật pháp, không còn nghi ngại.
Lưu ly
là lưu chuyển tượng trưng cho Văn
tức là tánh nghe.
Xà cừ
có hình tướng xấu xa nên ám chỉ cho Sám
hối.
Trân châu
là thanh cao tượng trưng cho Tinh tấn.
San hô
thì tượng trưng cho Buông xả.
Mã não
thì sáng chói tượng trưng cho Trí tuệ.
Bồ tát hành đạo mà chưa thấy chưa
nghe được kinh Diệu Pháp Liên Hoa là Bồ tát chưa khéo tu đạo Bồ
tát. Những chúng sanh cầu Phật đạo, hoặc thấy hoặc nghe, nghe
rồi tin hiểu thọ trì nên biết người đó đã gần gũi với quả Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi. Thí như có người khát nước đào
giếng ở gò cao, đào thấy đất còn khô,
biết rằng
nước còn xa, ra công đào không thôi, lần thấy đất ướt rồi thấy
đến bùn, tâm người đó quyết chắc biết rằng nước ắt gần. Bồ
tát cũng vậy, thọ trì, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa phải
biết quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đối với Bồ tát đó gần
kề.
Phật dạy rằng Bồ Tát
hành đạo mà chưa nghe thấy kinh Pháp Hoa thì họ chưa khéo tu đạo
Bồ Tát. Tu hạnh Bồ Tát là vì người quên mình cho nên nếu không
biết kinh Pháp Hoa nghĩa là không biết trong mỗi chúng sinh đã
có mầm giống Phật, là Phật tánh thường hằng vĩnh cữu vì thế khi
biết mọi người là Phật thì các hạnh của Bồ Tát dễ thực hành bởi
vì làm việc cho Phật thì họ không câu chấp trong khi phục vụ cho
người thì có lúc tiến có lúc lùi. Thêm nữa, người trở về với
Phật tánh của chính mình là người gần với Phật rồi nên họ rất
gần với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ở đây Phật dùng thí dụ con đường trở về với
Phật tánh cũng như người đào giếng. Muốn đào một cái giếng sâu
bảy, tám thước thì trước hết đào lớp đất cứng trên mặt, rồi sau
đó tới lớp đất mịn và sau cùng mới tới lớp đất ướt. Cũng vậy,
người nào biết thọ trì giảng chép kinh Pháp Hoa là chính họ tự
đặt đầy đủ niềm tin rằng họ sẽ thành Phật. Đây là Phật nhân rất
cần thiết làm nhân địa tu hành để hoàn thành Phật quả tức là có
đi mới có đến vì thế họ đang đi trên còn đường Vô thượng Bồ Đề
nên Phật nói họ sắp thành Phật là vậy.
Dược Vương! Nếu Bồ Tát nào nghe kinh
Pháp Hoa mà kinh nghi sợ sệt đó là Bồ tát mới phát tâm. Nếu hàng
Thanh Văn nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt đó là hàng Thanh Văn
tăng-thượng-mạn.
Kinh Pháp Hoa là Phật chỉ thẳng Tri Kiến Phật
cho nên nếu tin nhận trong ta đã có sẵn cái Tri Kiến Phật này
làm nhân địa tu hành thì người đó nhất định sẽ thành Phật. Tri
Kiến Phật là Phật nhân còn thành Phật là Phật quả. Do đó nếu Bồ
Tát tu là để thành Phật mà khi nghe kinh Pháp Hoa lại lo sợ thì
đủ biết hạng Bồ Tát này chỉ là phát tâm Bồ Tát, là người mới bắt
đầu nên chưa hiểu, chưa tin. Ngược lại đối với hàng Thanh Văn là
những người chứng đạo mà không muốn tiến tu để hoàn thành Phật
đạo thì Phật gọi họ là những người tăng thượng mạn hay định tánh
A la hán. Nhắc lại khi Phật bắt đầu nói kinh Pháp Hoa thì có
trên 5.000 người gồm A la hán và cư sĩ nam, nữ đã rời pháp hội.
Phật nói tăng thượng mạn là ám chỉ cho những người này.
Dược Vương! Nếu có trai lành gái tốt
sau Như Lai diệt độ muốn vì hàng tứ chúng mà nói kinh Pháp Hoa
thì nên ở trong nhà Như Lai, mặc y Như Lai và ngồi trên tòa của
Như Lai mà thuyết kinh. Nhà Như Lai là tâm từ bi. Y Như Lai là
nhẫn nhục. Tòa Như Lai là “ Vạn Pháp Giai Không”.
Dược Vương, Phật dù ở thế giới khác
xa xăm nhưng Phật sai hàng hóa nhơn, hàng tứ chúng (Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di) đến nghe pháp và tin nhận
thuận theo không chống trái. Nếu nói pháp ở chổ vắng Như Lai sai
Thiên Long, Càn Thát Bà… đến nghe pháp. Phật dù ở nước khác
nhưng khiến người nói pháp luôn luôn được thấy thân ta. Nếu có
quên sót câu lối. Như Lai sẽ nhắc cho họ nói kinh được đầy đủ.
(Để
lập lại nghĩa trên Thế Tôn nói một bài kệ.)
Sau khi đức Phật nhập diệt, ở đời sau nếu có
người muốn nói kinh Pháp Hoa thì người đó phải ở trong nhà Như
Lai, mặc y Như Lai và ngồi trên tòa của Như Lai mà diễn thuyết.
Thế nào là nhà Như Lai? Nhà Như Lai là có đủ tâm đại từ bi rộng
lớn đối với tất cả chúng sinh. Tâm đại bi là tâm thương xót
chúng sinh, xem sự đau khổ của chúng sinh là sự đau khổ của
chính mình, làm việc vì người không quảng ngại khó nhọc, chấp
nhận nghịch cảnh mà tâm không sân hận, kiên nhẫn giúp người vượt
qua bể khổ sông mê. Mặc y Như Lai là có tâm nhu hòa, nhẫn nhục
đối với mọi khổ chướng, không có lửa vô minh nóng giận. Ngồi tòa
Như Lai là phải có trí tuệ rộng lớn thấy rõ thật tướng của vạn
pháp là Không tướng bởi vì tất cả các pháp không có tự thể cố
định cho nên vạn pháp là Không.
Tại sao Phật đưa ra ba điều kiện để một người
có thể giảng nói kinh Pháp Hoa thay vì chỉ đọc tụng, thọ trì hay
biên chép giảng nói bình thường? Kinh Pháp Hoa là kinh nói về
Tri Kiến Phật tức là trí tuệ của Phật. Mà Tri Kiến Phật là Phật
tánh, là tánh giác vốn có sẵn nơi mỗi chúng sinh, nhưng vì bị vô
minh vọng chấp che lấp. Vì thế muốn cho cái tánh giác này được
hiển lộ thì phải phát triển trí tuệ để thấy biết rõ ràng thật
tướng của tất cả các pháp không có tự thể cố định chỉ tùy duyên
tạm có nên huyễn hóa không thật.Thí dụ hằng ngày mắt vẫn thấy
sắc như nhà to, xe đẹp, áo lụa, quần là…Nếu là người thường thì
dễ bị nó lôi cuốn, nhận chìm, mê hoặc vào đó, nhưng đối với
người có tư duy chánh niệm thì nhận thức được hiện tượng của vạn
pháp là vô thường nên tâm họ không hề bị dính mắc. Họ quán rằng
vạn pháp là không nghĩa là tất cả mọi vật thể trong thế gian này
dù to lớn như mặt trời, mặt trăng hay nhỏ như hạt cát như vi
trần đều do duyên khởi tác tạo mà thành chớ không vật nào tự nó
sinh khởi hay tồn tại được cho nên vật thể là vô ngã, không có
tự thể nên tuy là có, là thấy sờ sờ ở đó nhưng một ngày nào đó
nó sẽ bị biến hóa, tiêu hoại nên gọi là không. Do đó, cái không
của Phật giáo là không tham đắm, si mê, không chấp thủ chạy theo
hình sắc sinh diệt chớ không phải dùng thần thông hay quán làm
biến đi tất cả. Người có tư duy, chánh niệm khi thấy đóa hoa đẹp
thì họ vẫn biết cái đẹp của hoa đấy chứ, nhưng họ quán rằng đóa
hoa là do trùng trùng duyên khởi mà thành vì vậy đến tuần sau
đóa hoa bắt đầu héo úa, tàn phai rồi trở thành phân bón cho nên
nhìn đóa hoa thì họ cũng nhìn, cũng biết nó đẹp, nhưng không đắm
nhiễm say mê, lúc nào cũng tự tại với sắc đẹp. Lấy đóa hoa làm
tiêu chuẩn để nhìn tất cả những hình sắc khác trên thế gian này
cho nên tuy mắt có nhìn các loại trân châu bảo ngọc quý báu, đẹp
đẽ đến đâu thì nó cũng là loại vô thường hoại diệt. Ngược lại
nếu nhìn theo con mắt của phàm nhân thì tham đắm, say mê rồi
chấp thủ đem về làm của riêng cho mình đưa đến tranh chấp, chiến
tranh giết hại lẫn nhau. Nói tóm lại, người biết đạo thấy đẹp
thì cũng biết là đẹp, nhưng họ biết vật chất đó từ “Không” mà
“Có” vì thế một ngày nào đó từ “Có” sẽ trở thành “Không” cho nên
thấy tất cả vật chất nhưng không bị chúng lôi cuốn nhận chìm nên
họ mới có an nhiên tự tại được. Đó chính là “Kiến sắc phi can
sắc” vậy. Người học Phật không những thấy biết rõ ràng sự hoại
diệt, vô thường của thế gian mà còn thấy rốt ráo sự trường tồn
vĩnh cửu tức là tánh vô sanh vô diệt của vạn pháp nữa. Bởi vì
lúc đóa hoa tàn úa thì từ cái diệt này bắt đầu cho sự sanh khác
để tạo thành đóa hoa mới. Đó là hiện tượng quy về bản thể và bản
thể duyên khởi thành ra hiện tượng cho nên không có cái gì là
thật sinh hay cái gì là thật diệt nghĩa là sinh để rồi diệt,
diệt rồi lại sinh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận nên sinh
diệt, sống chết là chuyện thường, chẳng có gì quan trọng nên
không còn lo sợ, buồn phiền. Chúng sinh khi thấy mình già yếu,
bệnh tật thì đau khổ, lo âu, sợ sệt. Ngược lại, đối với người
biết đạo thì sống chết là chuyện bình thường, tử sanh là trò dâu
biển nằm trong chu kỳ bất biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến
thế thôi.
Con người có khổ, có nhiều tham vọng, có sống
chết bảo vệ những cái có của họ cũng vì họ chấp thế gian là
thật, nhà cửa là thật, xe cộ là thật, thân này là thật ngay cả
vọng tưởng cũng cho là thật. Bây giờ hãy quán rằng “vạn pháp
giai không” nghĩa là thân này là do duyên giả hợp tạm có, thế
gian vũ trụ cũng là tướng duyên hợp không thật ngay cả vọng
tưởng cũng là tướng duyên hợp chợt hiện chợt mất. Vì vậy khi
biết thân này không thật, cảnh vật không thật, vọng tưởng không
thật, tiền tài danh vọng như giấc mộng, như huyễn hóa, như bọt
nước, như bong bóng trời mưa, như làn sương buổi sáng, như ánh
điện chóp nhanh, có đó rồi mất đó, rốt cuộc chẳng có gì.
Nếu người có đủ ba điều kiện trên mà vì chúng
sinh nói kinh Pháp Hoa thì Phật sẽ sai hóa nhân và hàng tứ chúng
đến để nghe pháp. Người nói kinh Pháp Hoa là người tin rằng
chính mình có Tri Kiến Phật tức là có Phật tánh rồi cho nên họ
có thuyết kinh Pháp Hoa ở bất cứ nơi nào thì ở nơi đó đã có Phật
gia hộ cho họ.
Tóm lại, trong phẩm này đức Phật tán thán
kinh Pháp Hoa là kinh quý hiếm nhất trên đời vì thế Phật tán
thán những ai biết thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa
cho mọi người để cho họ biết rằng trong họ đã có sẵn Tri Kiến
Phật. Tri Kiến Phật là Phật nhân và từ đó con người sẽ tinh tấn
nỗ lực loại bỏ hết vô minh phiền não để trở về với Phật quả của
mình tức là thành Phật. Muốn trở thành một vị pháp sư lỗi lạc để
truyền bá kinh Pháp Hoa thì phải hội đủ ba điều kiện là có tâm
đại từ bi, biết nhu hòa nhẫn nhục và sống bằng trí tuệ Bát Nhã.
Sau cùng nếu chúng sinh biết thọ trì, đọc
tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa thì chính họ đã phát huy chủng tử
Phật tức là Tri Kiến Phật trong họ rồi. Nói thế không phải Tri
Kiến Phật chỉ dành cho những người biết kinh Pháp Hoa, đọc kinh
Pháp Hoa, giảng nói kinh Pháp Hoa hay biết một bài kệ hay một
chữ kinh Pháp Hoa mà thật ra Tri Kiến Phật đã có sẵn trong tất
cả mọi chúng sinh cho dù họ không biết gì về kinh Pháp Hoa cả.
Nói cách khác biết đọc, tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa thì được
Phật thọ ký cho thành Phật, nhưng không biết gì về kinh Pháp Hoa
cũng vẫn được Phật thọ ký như thường. Tuy nhiên, muốn thành tựu
cái Tri Kiến Phật đó người đệ tử Phật phải thực hành rốt ráo ba
điều kiện Phật dạy ở trên chớ không chỉ là lễ bái, trì tụng
suông mà cho là đủ công đức sẽ thành Phật. Vì vậy thành Phật thì
ai cũng có khả năng thành, nhưng thật sự có thành hay không còn
tùy thuộc ở chúng sinh có đứng đắn thực hành ba điều kiện Phật
dạy hay không.
Phẩm này cho thấy tầm quan trọng của Pháp
cũng quan trọng như Phật. Chúng sinh thường cúng dường Phật thì
ở đây kinh dạy rằng cúng dướng Pháp cũng có đầy đủ phước đức như
cúng dường Phật vậy cho nên niệm Pháp cũng tương đương với niệm
Phật vì đó là niệm tâm tức là thức tỉnh cái Tri Kiến Phật vốn có
của mình. Đến đây là phần kết thúc của phần Tích môn (đức Phật
lịch sử tức là Phật Thích Ca) dựa theo luận thuyết Thiên Thai
tông của Đại sư Trí Khải và chuẩn bị mở cửa để vào pháp giới Bổn
môn, là thế giới của mười phương chư Phật quá, hiện, vị lai.
∆ TOP |
NEXT
|