Phẩm
DIỆU ÂM BỒ TÁT
Diệu Âm là âm thanh vi diệu, âm thanh mầu nhiệm. Phẩm này diễn
tả lại cuộc hành trình của Bồ Tát Diệu Âm từ thế giới Nhất Thiết
Tịnh Quang Trang Nghiêm nghĩa là trí tuệ không bị ô nhiễm, xa
xôi vời vợi đến thăm viếng cõi Phật Ta Bà của Đức Thích Ca Như
Lai rồi sau đó trở về cố quốc nên có thể gọi phẩm này là Diệu Âm
Bồ Tát Vãng Lai. Lai là đến, vãng là trở về. Tại sao ngài lại có
Diệu Âm? Bởi vì trong quá khứ vô lượng kiếp, ngài đã từng dùng
mười vạn thứ kỹ nhạc và 84.000 bát bảy
báu để cúng dường Phật Vân Lôi Âm Vương nên có tiếng nhiệm mầu.
Đây là lối giải thích theo nghĩa thông thường, còn nói theo “Lý”
thì Diệu Âm là âm thanh vi diệu, là tiếng nói huyền diệu trong
tâm của tất cả mọi chúng sinh. Đó là tiếng nói của chơn tâm,
tiếng nói thánh thiện để giúp con người sống gần và sống đúng
với chơn tánh thanh tịnh của mình.
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca, từ nơi
nhục kế phóng một đạo hào quang, rồi từ giữa đôi lông mày cũng
phóng một đạo hào quang rực rỡ khắp soi một trăm tám muôn ức
na-do-tha hằng sa thế giới chư Phật ở phương Đông. Xa hơn số thế
giới này, có một thế giới tên là Tịnh Quang
Trang Nghiêm. Tại nước ấy, có Phật hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí
đang thuyết pháp cho vô lượng vô biên Bồ-tát cung kính vây quanh
nghe. Hào quang lông mày của đức Phật Thích Ca soi khắp nước
Tịnh Quang.
Thông thường đức Phật phóng hào quang ở hai
chỗ:
v
-Một là từ nơi nhục kế ở trên đỉnh
đầu là chỗ cao tột nhất của con người nên đây là biểu trưng cho
trí tuệ của Phật, là kết quả tột cùng của sự giác ngộ.
v
-Hai là ở giữa chặn mày là biểu
trưng cho trí tuệ vô phân biệt tức là căn bản trí, là trí tuệ
không còn chấp bên này bên kia.
Đức Phật phóng hào quang từ nhục kế ở trên
đỉnh đầu rồi sau đó từ giữa đôi lông mày Ngài phóng một đạo hào
quang rực rỡ tức là dùng trí tuệ cao tuyệt nhất mà chiếu khắp
hằng sa thế giới chư Phật ở phương Đông. Nơi đó có một thế giới
là Tịnh Quang Trang Nghiêm và vị Phật hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương
Trí. Điều này nói lên rằng tuy đức Bổn Phật hiện hữu khắp nơi
trong vũ trụ, nhưng chúng sinh chỉ có thể biết sự hiện hữu của
Ngài qua giáo lý của đức Phật Thích Ca.
Ngày nay con người đang sống trong thế giới
thần thông nên có thể nói chuyện trực tiếp bằng điện thoại di
động với người thân tận bên kia quả địa cầu. Khi trung tâm không
gian NASA của Hoa Kỳ phóng những phi thuyền con thoi vào trong
quỷ đạo của địa cầu thì họ trực tiếp truyền hình tất cả những
sinh hoạt của những phi hành gia qua hệ thống vệ tinh viễn
thông nên tuy xa ngàn dặm mà cứ tưởng như đang nhìn thấy họ rất
gần. Hệ thống vệ tinh viễn thông rất chính xác nên giúp con
người thấy biết rõ ràng trực tiếp những tin tức, biến cố bất cứ
nơi nào trên thế giới cho nên những tiến bộ văn minh khoa học
đem con người gần lại với nhau hơn.
Nói về “Sự” thì đức Phật Thích Ca ở thế giới
Ta Bà này và cõi Tịnh Quang Trang Nghiêm của Phật Tịnh Hoa Tú
Vương Trí nghĩa là cái trí của vị Phật này đẹp đẽ, thơm tho,
thanh tịnh giống như những loài hoa, cách xa một trăm tám mươi
ức na do tha hằng sa thế giới nghĩa là đức Phật Thích Ca cho
chúng ta một khái niệm về không gian rất xa giữa hai thế giới.
Tuy xa nhưng định lực của Phật rất mạnh nên có thể phóng hào
quang đến đó và Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí cùng chư Bồ Tát liền
tiếp nhận. Nhưng thật ra xa là bao nhiêu? Có thể đo được bằng
mấy ngàn năm ánh sáng chăng?
Nhưng thật ra thế giới Tịnh Quang Trang
Nghiêm tuy xa mà rất gần nếu đứng về phương diện “Lý”. Bởi vì
Tịnh Quang Trang Nghiêm là thế giới mà tâm rất thanh tịnh, nhẹ
nhàng thánh thoát tự tại cho nên một khi chúng ta có tâm thanh
tịnh, sống gần với Chơn tánh của mình thì
mình đang sống trong thế giới Tịnh Quang Trang Nghiêm đó. Ngược
lại nếu con người chạy theo sắc, tài, danh, lợi thì chắc chắn sẽ
bị ái dục nhậm chìm và cõi tâm của họ lúc đó chính là cõi Ta Bà
vậy. Vì vậy thế giới là Nhất Chân, Bất nhị nghĩa là thế giới nào
và bất cứ ở đâu cũng vậy, không sai khác chỉ khác là ở cõi tâm
của con người. Do đó chúng sinh không cần phải cầu để về bất cứ
cõi nào mà chỉ cần huân tập cho tâm được trong sáng, thanh tịnh
thì thế giới họ đang sống sẽ là cõi thanh tịnh Niết bàn. Nói
cách khác hễ tâm thanh tịnh, ngồi đâu thì chỗ đó thành cực lạc,
ngược lại nếu tâm còn ưu tư phiền muộn, ngồi đâu thì chỗ ấy trở
thành cõi Ta Bà. Do đó, chúng sinh cố gắng tịnh tâm thì cực lạc
là đây, Niết bàn là thế giới này.
Vào thời đức Phật còn tại thế, ở Ấn Độ và
những quốc gia lân cận đâu phải ai cũng theo đạo Phật và nghe
theo lời dạy của Phật vì thế chỉ có người “Đồng thanh
tương ứng, đồng khí tương cầu” thì mới biết Phật và
nghe theo lời Phật dạy cho nên kinh mới có câu: “Dược y
bất tử bệnh, Phật hóa hữu duyên nhơn” nghĩa là thuốc là
để trị bệnh không chết chớ còn bệnh chết thì không có thuốc
chữa. Cũng như Phật chỉ hóa độ chúng sinh là những người có
duyên còn những người vô duyên thì Phật cũng không hóa độ được.
Mà đã có duyên với Phật pháp thì xa mà gần còn không có duyên
với Phật pháp thì tuy ở sát bên đức Phật mà như ngàn trùng xa
cách.
Bây giờ trong nước Nhất Thiết Tịnh Quang
Trang Nghiêm có một Bồ-tát tên là Diệu Âm, từ lâu đã trồng cội
đức, cúng dường, gần gũi vô lượng chư Phật, cho nên đã thành tựu
trí tuệ rất sâu và được nhiều thứ tam muội là: diệu tràng, pháp
hoa, tịnh đức, tú vương trí, vô duyên, trí ấn, giải nhất thiết
chúng sanh ngữ ngôn, tập nhất thế công đức, thanh tịnh, thần
thông du hí, huệ cự, trang nghiêm vương, tịnh quang minh, tịnh
tạng, bất cộng và nhật triền. Bồ-tát Diệu Âm được trăm ngàn muôn
ức hằng hà sa đại tam muội như thế.
Trong tiến trình khai, thị, ngộ, nhập Phật
Tri Kiến thì thâm nhập là phần chót, tức là thực hành cái trí
tuệ Phật. Trong phần thực hành, kinh lần lược giới thiệu từ Bồ
Tát Thường Bất Khinh là một sứ giả Như Lai đem một thông điệp
duy nhất đến cho nhân loại là “các ông, các bà, các anh, các chị
đều sẽ thành Phật”. Rồi kinh giới thiệu Bồ Tát Dược Vương thực
hiện một tam muội là Hiện Nhất Thiết Sắc Thân nghĩa là có khả
năng thấy mình trong nhiều sắc thân khác nhau. Chẳng những thế,
Bồ Tát Dược Vương còn thực hiện một tam muội khác là Giải Nhất
Thiết Chúng Sinh Ngôn Ngữ Đà La Ni nghĩa là có khả năng hiểu
được ngôn ngữ của mọi loài chúng sinh. Đến đây kinh giới thiệu
Bồ Tát Diệu Âm chẳng những có khả năng thực hiện những tam muội
ở trên, mà ngài còn đi xa và xa hơn nữa.
Vậy thế nào là tam muội và Bồ Tát Diệu Âm có
những tam muội gì?
Tam muội tức là chánh định nghĩa là an trụ
tâm vào một chỗ, một cảnh, không cho tán loạn, giữ gìn sự an
tĩnh, chỉ cho trạng thái thiền định. Định Nguyên thủy thì có Tứ
tĩnh lự (Tứ thiền) , Tứ vô sắc định lấy Thiện đẳng trì
(tam-ma-địa, tam muội) làm thể. Kinh A Hàm cho rằng ngoài Tứ
thiền Bát định còn có Tam tam muội (tam giải thoát môn): Không,
Vô tướng, Vô nguyện. Còn Đại thừa thì có có trên mấy trăm ngàn
thứ tam muội, nhưng ở đây kinh Pháp Hoa chỉ giới thiệu mười sáu
tam muội chính:
-Diệu tràng tướng tam muội: là có niềm
tin vững chắc và không lay chuyển rằng kinh Pháp Hoa là cốt tủy
của giáo lý Phật Đà.
-Pháp Hoa tam muội: là tin thâm sâu vào
các giáo lý của kinh Pháp Hoa và sau đó chính mình thực hành các
giáo lý ấy cho đến chỗ tột cùng. Tam muội Pháp Hoa bao gồm cho
mười lăm tam muội còn lại vì những tam muội kia là những thành
phần của Pháp Hoa tam muội. Tam muội này giúp hành giả nhận ra
Bổn Phật là vị Phật vĩnh hằng và Tích Phật là đức Phật Thích Ca
tuy hai, nhưng mà một cũng như hoa sen vậy nghĩa là hoa nở sen
hiện và hoa tàn thì sen thành.
-Tịnh đức tam muội: Tuy người có đức hạnh
thanh cao có tâm thanh tịnh, nhưng họ không chấp vào sự đức hạnh
của mình.
-Tú vương hí tam muội: Tú vương là vua
của các vì sao (tinh tú). Đây là thứ chánh định dùng trí tuệ
quyền xảo làm phương tiện để làm việc hí kịch tức là có người
diễn xuất và có người xem để chiếu soi căn cơ của chúng sinh.
-Vô duyên tam muội: Bất cứ duyên hay vô
duyên đều được độ khắp, không phân biệt thân sơ.
-Trí ấn tam muội: là tập trung để cho tâm
an trú vào một trạng thái tâm thức khiến cho trí tuệ sâu xa của
mình có thể tạo nên một ảnh hưởng tốt đẹp và mạnh
mẽ đối với những người ở gần chúng ta.
-Giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn tam
muội: là chánh định giúp hành giả thấu biết tất cả ngôn ngữ của
tất cả mọi loài chúng sinh.
-Tập nhất thiết công đức tam muội: là tập
trung tâm mình vào một ý niệm cho rằng tất cả công đức đều quy
về một để cho mình và tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật.
-Thanh tịnh tam muội: là thanh tịnh sáu
căn, không còn nhiễm cấu.
-Thần thông du hí tam muội: Dùng sức thần thông
tự tại diệu dụng mà hiện ra các sắc tướng để giáo hóa chúng sinh
và du hí nhân gian.
-Huệ cự tam muội: là tâm niệm ước mong
phóng ánh sáng trí tuệ của mình vào những người chung quanh
giống như một ngọn đuốc tỏa ánh sáng ra xa.
-Tịnh quang minh tam muội: giữ tâm mình
được tràn đầy thanh tịnh.
-Trang nghiêm vương tam muội: luôn hướng
tâm mình vào ý niệm sẽ là người đức hạnh để mang lại ảnh hưởng
tốt đến cho mọi người.
-Tịnh tạng tam muội: trong một niệm đắc
được thanh tịnh, khéo nhiếp vạn đức.
-Bất cộng tam muội: là có ý tưởng cố gắng
để đạt được trạng thái tâm giống như đức Phật rồi sau đó thực
hành lý tưởng đó đến chỗ rốt ráo tận cùng.
-Nhật triền tam muội: tuy tâm còn dao
động, nhưng ao ước đạt đến một trạng thái trí tuệ thanh tịnh như
mặt trời chiếu khắp.
Tuy kinh nói rất nhiều tam muội, nhưng trên
nguyên tắc một khi hành giả đi sâu vào thiền định để có chánh
định mà đốt thân hay đốt hai cánh tay như Bồ Tát Hỷ Kiến để phá
cho sạch Ngã chấp, pháp chấp và những cặp phạm trù đối đãi nhị
nguyên để không còn thấy Ta và người thì người đó đạt được tam
muội vững chắc nhất.
Chính đức Phật dạy rằng:
-Này các Tỳ kheo, đối với bất cứ những gì
là thân xác,
là cảm giác, thuộc về nhận thức, thói quen thường nhật, là
tri thức dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, thuộc
nội tâm hay bên ngoài, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay
tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì
phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để
tự nhủ rằng : "Đấy không phải là của tôi, tôi không
phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".
Vì thế một khi đã thực sự nhận biết rốt ráo
rõ ràng rằng trong ta không hề có “Cái Ta” hay
“Cái của Ta” thì lúc đó hành giả sẽ khám phá
một chân lý tuyệt vời độc nhất vô nhị, là tinh hoa cốt tủy của
Phật giáo mà ngày xưa chính đức Phật đã chứng dưới cội Bồ Đề là
Chân lý Vô Ngã. Vì tất cả các pháp là vô ngã
nên không có vật gì trên thế gian này có tự ngã, có chủ thể cả
cho nên vạn pháp là do duyên sanh nên chúng là huyễn tức là
Không. Từ nhận thức đó con người dễ dàng xa lìa tất cả sự tham
luyến, đam mê vật chất thì chính mình đã có tất cả tam muội rồi.
Tam muội là chánh định mà thường được ví như
lửa tức là lửa tam muội chơn hỏa. Hành giả dùng lửa tam muội này
để đốt hết lòng tham, lòng sân và lòng si mê để không còn dính
mắc. Thế gian tuy có trăm hình vạn tướng, nhưng không ngoài sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp và nó không hề làm ô nhiễm mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ý của người giác ngộ. Vì thế thế gian đối với
người tỉnh thức giác ngộ thì không có gì gọi là trần cả. Họ cũng
nhìn thấy sắc, tai vẫn nghe âm thanh, mũi vẫn ngữi hương vị,
lưỡi vẫn nếm mùi vị, thân vẫn tiếp xúc và ý vẫn tiếp xúc với
pháp, nhưng họ tuệ tri, giữ vững chánh niệm nên tâm sẽ không còn
bám víu vào thân xác, không còn bám víu vào giác cảm, không còn
bám víu vào sự nhận thức, không còn bám víu vào thói quen thường
nhật, không còn bám víu vào tri thức nên họ loại bỏ được những
tham vọng và sau cùng tự giải thoát ra khỏi mọi dục vọng thì
chính họ đã có tam muội rồi đó.
Thân tắm trong ánh sáng đức Phật Thích
Ca, Bồ-tát Diệu Âm liền bạch với Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí
rằng:
-Thế Tôn! Tôi sẽ sang thế giới Ta-bà, lễ
bái, gần gũi cúng dường Phật Thích Ca cùng ra mắt các Bồ-tát Văn
Thù, Dược Vương, Dũng Thí, Tú Vương Hoa,
Thượng Hành Ý, Trang Nghiêm Vương và Dược Thượng.
Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí nói với Bồ-tát
Diệu Âm:
Ngươi chẳng nên xem rẻ nước kia (thế
giới Ta-bà) mà tưởng là thấp kém. Này thiện nam tử, thế giới
Ta-bà cao thấp không bằng thẳng, dẫy đầy núi đất, núi đá và
những nhơ xấu, thân Phật thấp nhỏ, hình các Bồ-tát cũng nhỏ như
vậy, còn thân ngươi thì cao đến 42.000 do-tuần, thân ta đến 680
vạn do-tuần; thân ngươi mà còn đoan chánh bậc nhất. Như thế,
được trăm ngàn muôn phước làm cho hết sức sáng rỡ. Vì vậy sang
đến cõi Ta-bà, chớ nên xem khinh đừng sanh lòng nghĩ tưởng rằng
Phật, Bồ-tát cùng nhân dân cõi nước này là thấp thỏi yếu đuối.
Nếu nói theo “Sự” thì thế giới Ta Bà này rất
nhỏ bé so với thế giới của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, nhưng nếu
nói về “Lý” thì hai thế giới chẳng có gì khác biệt bởi vì khác
biệt là do tâm con người còn thế giới là Nhất chân, Bất nhị nên
không hề có khác biệt. Khi tâm con người còn phiền não vô minh
thì thấy cõi Ta bà là xấu xa, nhỏ bé. Nhưng bây giờ biết sống
với chánh niệm, có tư duy tỉnh thức thì cõi Ta Bà sẽ trở thành
trang nghiêm, thanh tịnh không khác gì thế giới của Phật Tịnh
Hoa Tú Vương Trí.
Ngày xưa khi Huệ Năng vào yết kến ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn thì được hỏi:
-Ngươi từ đâu đến?
Huệ Năng thưa:
-Từ Lãnh Nam đến.
-Đến đây để cầu việc gì?
-Con đến đây chỉ cầu làm Phật chớ không cầu
việc gì khác.
-Người Lãnh Nam không có Phật tánh thì làm
sao cầu làm Phật được?
-Người thì có Nam Bắc, chớ Phật tánh há có
Nam Bắc sao?.
Thế thì nếu nhìn từ hình tướng bên ngoài thì
thấy có người phương Nam, phương Bắc, người văn minh hay kẻ man
rợ, nhưng nếu xoay vào bản thể chân như tức là Phật tánh thì nó
bao trùm khắp cả, không hình tướng thì làm gì còn phân biệt ai
là người văn minh còn kẻ nào là người man rợ. Cái nhìn này mới
là cái nhìn bình đẳng nhất.
Ẩn dụ của kinh là nếu còn nhìn vào sắc tướng
sinh diệt thì còn tâm phân biệt cho nên thấy có cao có thấp, có
lớn có nhỏ, có thanh tịnh có phiền não, có Cực Lạc có Ta Bà. Còn
Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí là biểu tượng cho chơn tâm, Phật tánh
cho nên không còn những phạm trù đối đãi phân biệt cũng như Bồ
Tát Hỷ Kiến đốt thân và đốt hai cánh tay để đốt cho hết chấp Ngã
và những gì thuộc về chấp ngã và chấp pháp.
Bồ-tát Diệu Âm bạch:
-Thế Tôn! Con nay qua cõi Ta-bà là do sức
thần Như Lai, do thần thông du-hí của Như Lai, do công đức trí
tuệ, trang nghiêm của Như Lai.
Ở đây Bồ Tát Diệu Âm nhờ sức thần của Phật
mới có thể qua cõi Ta Bà, còn chúng sinh nếu không nhờ sức thần
của sự thức tỉnh giác ngộ của Phật tâm thì chính mình sẽ không
bao giờ biết được cõi tâm đang ở trong thế giới phiền não Ta Bà.
Vì thế nếu có chánh niệm tỉnh thức để biết rốt ráo những biến
hành của thân, thọ, tâm, pháp thì chính họ sẽ biết ngay lúc nào
họ ở cõi cực lạc và lúc nào đang bị đắm chìm trong biển ái sông
mê.
Lúc ấy, Bồ-tát Diệu Âm không rời khỏi chỗ
ngồi, thân chẳng lay động, nhập chánh định, dùng sức mạnh của
chánh định, tại núi Kỳ-xà-quật, cách chỗ Bồ-tát ngồi không xa,
hoá ra 84.000 hoa sen báu, cộng bằng vàng diêm-phù-đàn, cành
bằng bạc, nhụy bằng kim cương và đài bằng bảy báu.
Khi Bồ Tát Diệu Âm nhập chánh định và dùng
thần định này chuyển đến thế giới Ta Bà hiện ra hoa sen nghìn
cánh, nhụy, bông, lá, cộng đều làm bằng
bảy báu, gần núi Linh Thứu nơi Phật Thích Ca đang nói kinh Pháp
Hoa.
Bồ-tát Văn Thù thấy vậy mới bạch với đức
Thích Ca:
-Thế Tôn ! Do đâu mà có điềm tốt này?”
Đức Phật đáp:
-Đó
là điềm Bồ-tát Diệu Âm, từ nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí
muốn cùng 84.000 Bồ-tát đến cõi Ta-bà, để cúng dường, gần gũi,
lễ lạy ta và cũng muốn cúng dường nghe kinh Pháp Hoa.
Bồ-tát Văn Thù bạch:
-Thế Tôn ! Bồ-tát đó trồng cội lành gì,
tu công đức gì mà được sức đại thần thông như thế? Tu tam muội
gì? Cúi xin Thế Tôn nói cho chúng con biết tên tam-muội đó vì
chúng con muốn tu tam-muội ấy để thấy được sắc tướng và oai nghi
tiến, dừng tự tại của Bồ-tát Diệu Âm. Khi Bồ-tát tới, cúi xin
Thế Tôn dùng sức thần thông làm cho chúng con thấy được Bồ-tát.
Ngay cả Bồ Tát Văn Thù là biểu tượng cho căn
bản trí mà còn kinh ngạc về công năng chánh định của Bồ Tát Diệu
Âm nên yêu cầu Phật nói cái nhân tu hành của Bồ Tát Diệu Âm để
các ngài tu theo và nhân tiện muốn nhận diện Bồ Tát Diệu Âm
luôn.
Đức Thích Ca đáp:
Đức Đa Bảo Như Lai đã diệt độ từ lâu,
sẽ vì các ngươi mà hiện bày thân tướng của Bồ-tát Diệu Âm.
Tức thời Phật Đa Bảo bảo Bồ-tát Diệu Âm:
-Thiện nam tử ! Hãy đến đây, Văn Thù
muốn thấy thân của người đấy.
Tại sao Phật Thích Ca không chỉ bày thân
tướng Bồ Tát Diệu Âm cho thính chúng thấy mà phải đợi đến khi
Phật Đa Bảo gọi thì Bồ Tát Diệu Âm mới xuất hiện? Khi chưa có
hào quang của Phật chiếu đến thì thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang
Trang Nghiêm và cõi Ta Bà xa xôi vời vợi, nhưng khi hào quang đã
chiếu đến rồi thì hai thế giới bây giờ là Bất nhị, không còn
ngăn ngại. Điều này có nghĩa gì? Khi chúng sinh biết hồi quang
phản chiếu, quay vào tự tâm để thật sự sống với chơn tâm, Phật
tánh tức là sống với Bổn Phật Đa Bảo thì tất cả các tánh như
tánh nghe, tánh thấy, tánh nếm, tánh ngữi, tánh biết, tánh xúc
đều hiễn bày rõ ràng. Vì thế kinh nói ở đây chỉ khi nào Phật Đa
Bảo (Đa là vô cùng, Bảo là quý giá cho nên Phật Đa Bảo là vị
Phật vô cùng quý giá tức là Pháp thân Phật, bất sinh bất diệt)
tức là Phật tánh của mình gọi nghĩa là mình đang sống với chơn
tâm thì tánh nghe tức là Bồ Tát Diệu Âm mới xuất hiện. Còn Phật
Thích Ca là Ứng thân, là chỉ cho tướng sinh diệt nên không làm
cho tánh giác hiễn bày được.
Đoạn kinh này rất sâu sắc tuyệt vời để nhắc
nhở chúng sinh rằng Phật Đa Bảo lúc nào cũng hiện hữu trong tâm
của tất cả mọi người cho nên nếu biết sống đúng với chân lý,
sống trong chánh niệm tỉnh thức thì lúc nào cũng sống với tánh
Phật của chính mình. Ngược lại cả đời nếu chạy theo vô minh
phiền não, làm nô lệ cho tự kỹ cá nhân
thì cũng cái không gian này mà vĩnh viễn không bao giờ thấy được
Phật nghĩa là khoảng cách giữa tâm ta và Phật nghìn trùng xa
cách.
Nếu quán chiếu xa một chút nữa thì khi mê
thấy có Phật có pháp đến khi thức tỉnh thì không có Phật pháp
chi cả. Như vậy khi ngộ Phật pháp bỏ ở đâu mà không có? Khi mê
thì chúng sinh luôn dong ruỗi mong cầu cho nên Phật pháp ở bên
ngoài đến khi thức tỉnh thì lúc đó biết rằng tâm mình chính là
Phật, tâm mình là pháp. Nói rộng ra khi mê thì còn thấy có Phật
A Di Đà xa cách 42 cõi ức Phật nên mong cầu vãng sanh sang đó
đến khi thức tỉnh giác ngộ thì tâm mình chính là Phật A Di Đà và
thế giới mình đang sống chính là cõi cực lạc rồi.
Bấy giờ Bồ-tát Diệu Âm, đang ẩn mặt ở
nước kia, bèn cùng 84.000 Bồ-tát đồng qua cõi Ta-bà. Trải qua
các nước, đâu đâu đất cũng chuyển động 6 cách, hoa sen bảy báu
rưới như mưa, trăm ngàn nhạc trời chẳng trổi tự kêu, mắt của
Bồ-tát như cánh hoa sen xanh rộng lớn, diện mạo tốt đẹp hơn trăm
ngàn muôn mặt trăng họp lại, thân sắc vàng ròng trang nghiêm
bằng vô lượng công đức, oai đức rất thạnh, ánh sáng chói rực,
đầy đủ các tướng như thân bền chắc của Na-la-diên.
Mới nghe chúng ta cứ nghĩ rằng vì có oai thần
nên Bồ Tát Diệu Âm đi đến đâu thì các cõi nước đó trở thanh
trang nghiêm, cao quý, đẹp đẽ… nhưng thâm
ý của kinh là muốn nhắn nhủ chúng sinh rằng chính mình phải tự
thanh lọc thân tâm cho thật thanh tịnh thì Bồ tát Diệu Âm mới
xuất hiện và chính ta mới có thể nghe được những âm thanh huyền
diệu phát xuất từ bản tâm thanh tịnh nhiệm mầu.
Bồ-tát Diệu Âm vào đài bảy báu, bay lên
hư không cách đất bảy cây đa-la và cùng chư Bồ-tát vây quanh,
đến núi Kỳ-xà-quật ở cõi Ta-bà. Tới nơi rồi, Bồ-tát xuống đài,
lấy chuỗi ngọc giá trị trăm ngàn cúng dường đức Phật Thích Ca mà
bạch rằng:
-Thế Tôn ! Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí
có lời hỏi thăm Thế Tôn ít bệnh, ít buồn, đi đứng thơ-thới, và
hoạt động trong sự an-lạc không? Bốn đại có điều hoà chăng? Việc
đời nhẫn được chăng? Chúng sanh dễ độ chăng? Không có nhiều tham
dục, giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn, phải vậy
chăng? Không còn điều bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính Sa-môn, tà
kiến, tâm chẳng lành, năng hàng phục các ma oán chăng? Đa Bảo
Như Lai diệt độ từ lâu và trong tháp bảy báu, có đến nghe pháp
chăng? Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí lại dặn tôi hỏi thăm Đa
Bảo Như Lai có an ổn, ít buồn hay chịu đựng và ở lâu được chăng?
Thế Tôn! Tôi muốn thấy thân Phật Đa Bảo, cúi xin Thế Tôn chỉ cho
tôi được thấy.
Bồ Tát Diệu Âm và rất nhiều Bồ Tát từ thế
giới khác đến để đảnh lễ đức Phật Thích Ca và Phật Đa Bảo thì
theo thể lệ thông thường là trước vấn an chư Phật sau là hỏi
thăm việc giáo hóa chúng sinh ở thế giới Ta Bà. Nhưng những lời
vấn an chư Phật của Bồ Tát Diệu Âm là những tiếng lòng mầu nhiệm
trong tất cả mọi người để nhắc nhở chúng sinh phải sống đời đạo
hạnh, biết điều phục thân tâm, không chạy theo ái dục, tránh xa
tham dục, ngu si, giận hờn, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn. Đạo
Phật lấy trí tuệ và đạo đức làm nền tảng nên trước khi tu đạo
thánh thì phải thực hành đúng đạo làm người nghĩa là phải biết
hiếu để với cha mẹ, nhu hòa với tất cả mọi người, tránh xa tà
kiến. Đó là “Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian giác” là
vậy. Nói một cách tổng quát là đạo Phật là đạo không làm khổ
mình, không làm khổ người.
Vì thế tất cả những lời nói phát xuất từ Bồ
Tát Diệu Âm ở trên phải được hiểu đó là tiếng lòng mầu nhiệm của
ta để nhắc nhở cho ta sống đúng với chân lý, luôn sống trong
chánh niệm tỉnh thức để diệt trừ vô minh phiền não và hướng về
thế giới thanh tịnh Niết bàn.
Lúc đó, đức Phật Thích Ca nói với Phật Đa
Bảo:
-Bồ-tát Diệu Âm muốn ra mắt Ngài.
Đức Phật Đa Bảo liền nói với Bồ-tát Diệu Âm:
-Hay lắm!
Hay lắm! Vì cúng dường Phật Thích Ca, cùng nghe kinh Pháp Hoa và
thấy Văn Thù …mà ngươi đến cõi nầy
!.
Lúc bấy giờ, Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật
Thích Ca:
-Thế Tôn! Bồ-tát Diệu Âm trồng cội lành
gì, tu công đức nào mà có sức thần thông như thế?
Đức Phật đáp:
-Thuở quá khứ có Phật hịêu Vân Lôi Âm
Vương, nước tên là Hiện Nhất Thiết Thế Gian, kiếp tên Hỉ Kiến.
Suốt 12.000 năm, Bồ-tát Diệu Âm dùng 10 vạn
thứ kỹ nhạc cúng dường Phật Vân Lôi Âm Vương
cùng dâng 84.000 bát bảy
báu. Do nhân duyên quả báo đó mà nay sanh tại nước của Phật Tịnh
Hoa Tú Vương Trí và có sức thần như thế. Này Hoa Đức, ngươi nghĩ
sao? Diệu Âm Bồ-tát thuở xưa đó, chính nay là Bồ-tát Diệu Âm
đây. Bồ-tát Diệu Âm này đã từng cúng dường, gần gũi vô lượng
Phật, từ lâu vun trồng công đức, lại gặp hằng hà sa Phật.
Phần này kinh nói về sắc tướng và âm thanh
bởi vì hằng ngày hai yếu tố làm cho con người đau khổ nhiều nhất
là sắc và thanh tức là thấy và nghe. Tuy hương, vị, xúc, pháp
cũng tác hại, nhưng tầm quan trọng của nó không bằng sắc và
thanh.
Khi Phật Vân Lôi Âm Vương xuất hiện thì Bồ
Tát Diệu Âm đã sử dụng 10 vạn thứ kỹ nhạc
để cúng dường và có lẽ cũng vì sự kiện đó mà ngài có tên là Diệu
Âm tức là âm thanh vi diệu. Bồ Tát Diệu Âm đã dùng nhiều loại âm
nhạc khác nhau để cúng dường Phật trong suốt mười hai ngàn năm
và đồng thời cũng cúng dường Phật Vân Lôi Âm Vương 84.000 cái
bát ăn cơm làm bằng châu báu. Âm nhạc mà Bồ Tát Diệu Âm sử dụng
để cúng dường Phật không phải là loại âm nhạc than mây, khóc
gió, sầu thảm đau buồn hay thát loạn mà đó là những bản nhạc
biểu lộ cái giải thoát, cái tự tại thanh thoát của mình. Do đó
âm nhạc của Bồ Tát Diệu Âm được dựa trên nền tảng của trí tuệ
bởi vì cái trí tuệ đó là khả năng hiểu được lòng người và hiểu
hiểu được tiếng người cho nên âm nhạc đó có thể đi thẳng vào
lòng người nghe và chuyển hóa được người nghe theo Chánh pháp.
Ở phẩm trước, Bồ Tát Hỷ Kiến tức là tiền thân
của Bồ tát Dược Vương đã đốt thân và đốt hai cánh tay tức là bố
thí nội tài để cúng dường Phật. Đốt thân và đốt hai
cánh tay là đốt hết những quan hệ về chấp ngã và những cặp phạm
trù đối đãi phân biệt nhị nguyên là nguồn gốc phát sinh ra vô
minh phiền não. Nhưng bây giờ Bồ Tát Diệu Âm chỉ cúng dường âm
nhạc và những bát bảy báu là những món ngoại tài mà công đức lại
thù thắng hơn Bồ Tát Dược Vương?
Ngoại tài mà kinh muốn nói ở đây không nhất
thiết là những thứ âm nhạc bình thường hay những bình bát quý
báu để cúng dường cho Phật. Thật ra chư Phật đâu cần những thứ
này, các Ngài sống đời đơn giản, thanh tịnh nên tâm không còn
chấp vật nào là đồ quý báu hay thứ âm thanh nào là huyền diệu.
Mà ngoại tài nầy là ám chỉ cho sự cảm thọ
từ nhân duyên bên ngoài. Con người có khổ, có trầm luân cũng vì
thích cảm thọ rồi đưa những cảm thọ đó vào tâm, từ đó vọng tưởng
phát khởi khiến họ chạy theo tham đắm, dục tình và cuối cùng bị
nhận chìm trong ái dục. Thí dụ lục căn tiếp xúc với lục trần
chẳng hạn như khi mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngữi mùi
vị, lưỡi nếm mùi vị, thân cảm xúc nóng lạnh, mềm mại…
Trong sáu căn đó thì mắt và tai là hai căn nhạy
bén nhất và tiếp xúc với bên ngoài nhiều hơn cho nên nó có nhiều
cảm thọ hơn. Nhưng giữa mắt và tai thì lỗ tai nghe âm thanh là
nhạy bén hơn và ít bị ngăn ngại. Thí dụ ở trong căn phòng, nhưng
chúng ta có thể nghe được âm thanh chó sủa rất xa mặc dầu không
thể nào thấy được con chó. Hằng ngày nếu nghe lời khen, tiếng
tốt thì ta cảm thấy dễ chịu nên bám vúi vào cái dễ chịu đó mà
cho rằng đó là hạnh phúc. Nghe lời cay đắng, chữi mắng thì cảm
thấy bức rức, khó chịu rồi cho rằng cuộc đời là đau khổ, đáng
chán. Vì vậy kinh giới thiệu Bồ Tát Diệu Âm cúng dường âm nhạc
là để nhắn nhủ với chúng sinh rằng nghe thì nghe tất cả, nhưng
đừng dấy niệm phân biệt tốt xấu, khen chê vì chúng là ngoại
trần, không phải là ta hay cái của ta, thì không cảm thọ vui
buồn. Còn Bồ Tát Diệu Âm cúng dường bát bảy báu là chỉ cho sắc
pháp nghĩa là mắt tuy có thấy hình tướng, màu sắc mà không cảm
thọ vui hay buồn thì tâm sẽ được an tịnh. Thí dụ hiện tại chúng
ta đang sống trong thế giới đầy vật chất nên con người chạy theo
sắc tướng, đắm say theo hình sắc một cách mù quáng là chuyện
thường. Khi thấy một chiếc xe lộng lẫy thì sinh ra mê đắm. Thấy
cái nhà đẹp lòng si mê không muốn rời. Một chàng trai trẻ nhìn
một cô gái đẹp chân tay rụng rời chẳng muốn dời chân. Thấy người
bạn đeo một chiếc nhẫn kim cương to, bóng lộng khiến lòng ta
không vui, tủi thân. Vì thế Bồ Tát Diệu Âm cúng dường đến 84.000
bát bảy báu cho Phật là kinh muốn nhắn nhủ rằng trong thế gian
này có vô số vật chất như trân châu, đồ quý báu, nhưng cho dù là
quý báu đến đâu thì chúng cũng là loại vô thường hoại diệt, nay
có mai không. Nếu người tu Phật biết quán chiếu và sống với
chánh niệm tỉnh thức thì mắt vẫn thấy tất cả những vật thể trên
thế gian, nhưng xem nó chẳng có gì quan trọng thì không có những
cảm thọ vui buồn. Từ đó mới có thể làm chủ tâm mình mà tiến về
thế giới thanh tịnh Niết bàn được.
Âm thanh còn tác hại nhiều hơn sắc tướng cho
nên Bồ Tát Diệu Âm mới dùng đến 10 vạn
thứ kỹ nhạc trong suốt 12.000 năm để cúng dường Phật. Con người
nghe tiếng rồi phân biệt tốt xấu, khen chê, thị phi, phải quấy
vì thế kinh muốn nhắn nhủ rằng tuy thế gian có rất nhiều loại âm
thanh, tiếng nói, nhưng chúng đều là loại sinh diệt bên ngoài
nên đừng chấp đem vào tâm rồi tạo sự phân biệt tốt xấu, khen chê
cho nên nghe thì nghe tất cả, biết tất cả, nhưng không chấp vào
nó, không phân biệt thì sẽ không có cảm thọ vui buồn. Đó là ý
nghĩa của sự cúng dường âm nhạc.
Thật vậy, khi tai nghe những âm thanh, tiếng
nói không hài lòng khiến tâm bực bội, khó chịu. Ngược lại nghe
những lời bùi tai thì say đắm. Thí dụ như vợ chồng, con cái bất
ổn, thường hay cải vã, lời qua tiếng lại cũng vì tư tưởng khác
đồng chuyển qua lời nói làm cho người nghe chịu không nổi, đâm
ra bực tức, rồi sinh ra chửi bới, đánh đấm…
cuối cùng dẫn nhau ra tòa ly dị…
hoặc vào tù ra khám. Đó cũng tại vì chấp lời nói
kia là thật nên bị ngăn ngại. Bây giờ nếu hiểu Phật pháp thì
không chấp vào lời nói thị phi của người khác. Tại sao? Bởi vì
trên thế gian này chỉ có ta mới thật sự hiểu rõ ta mà thôi,
không một người nào khác có thể biết ta bằng ta được.
Thí dụ có người chê ta là người xấu hoặc khen
ta là người tốt thì họ chỉ dựa theo kiến giải và kinh nghiệm bản
thân của họ mà so sánh, đánh giá người khác chớ làm sao họ biết
ta bằng chính ta. Mình tốt bao nhiêu mình biết, mình xấu bao
nhiêu thì cũng chính mình biết. Vì thế nếu mình là người xấu mà
có người khen tặng mình mà mình nhận chẳng khác nào chính mình
tự lừa dối mình, sống trong ảo tưởng.
Ngược lại nếu mình là người tốt, luôn nghĩ thiện, nói lời lành
và làm việc thiện mà có ai chê ta thế này thế kia thì ta cứ mặc
họ vì cuộc sống nhẹ nhàng, thánh thoát, an vui, tự tại thì chính
ta đã có rồi đâu cần người đời trao tặng nữa. Nên nhớ những
tiếng thị phi, những lời khen chê thì ở đâu và bất cứ lúc nào
cũng có chẳng khác nào thời tiết nóng lạnh bất thường. Do đó
người biết tự chủ tâm mình là người không chạy theo khách trần
phiền não cho nên nghe thì nghe tất cả mà như không nghe gì hết,
trong ngoài tự tại, không còn ngăn ngại tức là “Văn thanh bất
thị thanh” thì chính ta đã cúng dường âm thanh phiền não, đau
khổ đó cho chư Phật rồi.
Cùng lý luận ấy, thấy thì cái gì cũng thấy,
thấy tất cả mà như không thấy gì hết, tâm không dính mắc, không
còn ngăn ngại là chúng ta cúng dường những cái thấy phiền não
cho chư Phật đó. Vì thế chúng sinh hằng ngày nên bồi dưỡng trí
tuệ của mình bằng cách sống trong tỉnh thức chánh niệm để biến
cuộc đời từ phiền não ưu bi trở thành thanh tịnh, thánh thoát,
an vui, tự tại. Thí dụ hằng ngày mắt vẫn thấy sắc như nhà to, xe
đẹp, áo lụa, quần là… Nếu là người thường
thì dễ bị nó lôi cuốn, nhận chìm, mê hoặc vào đó, nhưng đối với
người có tư duy chánh niệm thì nhận thức được hiện tượng của vạn
pháp là vô thường nên tâm họ không hề bị dính mắc. Họ quán rằng
vạn pháp là không nghĩa là tất cả mọi vật thể trong thế gian này
dù to lớn như mặt trời, mặt trăng hay nhỏ như hạt cát như vi
trần đều do duyên khởi tác tạo mà thành chớ không vật nào tự nó
sinh khởi hay tồn tại được cho nên vật thể là vô ngã, không có
tự thể nên tuy là có, là thấy sờ sờ ở đó nhưng một ngày nào đó
nó sẽ bị biến hóa, tiêu hoại nên gọi là không.
Do đó, cái không của Phật giáo là không tham
đắm, si mê, không chấp thủ chạy theo hình sắc sinh diệt chớ
không phải dùng thần thông hay quán làm biến đi tất cả. Người có
tư duy, chánh niệm khi thấy đóa hoa đẹp thì họ vẫn biết cái đẹp
của hoa đấy chứ, nhưng họ quán rằng đóa hoa là do trùng trùng
duyên khởi mà thành vì vậy đến tuần sau đóa hoa bắt đầu héo úa,
tàn phai rồi trở thành phân bón cho nên nhìn đóa hoa thì họ cũng
nhìn, cũng biết nó đẹp, nhưng không đắm nhiễm say mê, lúc nào
cũng tự tại với sắc đẹp. Lấy đóa hoa làm tiêu chuẩn để nhìn tất
cả những hình sắc khác trên thế gian này cho nên tuy mắt có nhìn
các loại trân châu bảo ngọc quý báu, đẹp đẽ đến đâu thì nó cũng
là loại vô thường hoại diệt. Ngược lại nếu nhìn theo con mắt của
phàm nhân thì tham đắm, say mê rồi chấp thủ đem về làm của riêng
cho mình đưa đến tranh chấp, chiến tranh giết hại lẫn nhau. Nói
tóm lại, người biết đạo thấy đẹp thì cũng biết là đẹp, nhưng họ
biết vật chất đó từ “Không” mà “Có” vì thế một ngày nào đó từ
“Có” sẽ trở thành “Không” cho nên thấy tất cả vật chất nhưng
không bị chúng lôi cuốn nhận chìm nên họ mới có an nhiên tự tại
được. Đó chính là “Kiến sắc phi can sắc” vậy.
Đối với phàm nhân thì sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp là trần, là ô nhiễm vì nó lôi cuốn nhận chìm con người
vào trong bể ái sông mê. Nhưng thật ra sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp là tự tánh thanh tịnh bản nhiên, không có ô nhiễm tội
lỗi chi cả. Thí dụ đóa hoa đâu có mê hoặc ai, nhưng khi con
người nhìn đóa hoa thì lòng tham phát khởi muốn chiếm hữu đóa
hoa đó làm của riêng cho mình. Vì thế cái nhìn có tham đắm trong
đó chớ đóa hoa chỉ là đóa hoa, vô tội họa. Vì thế người giác ngộ
thì sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp vẫn là sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp chớ không phải là lục trần, không có gì là ô
nhiễm.
Diệu Âm là tiếng nói thanh tịnh của lòng ta
để nhắc nhở cho nên khi con người làm việc thiện thì có Diệu Âm
nhắc nhở khuyến khích. Ngược lại nếu chúng sinh chạy theo tham
đắm, dục tình tạo những việc ác thì trong ta cũng có những tiếng
Vân Lôi Âm gào thét nhắc nhở chúng ta đừng dấn thân vào tội lỗi.
Nhưng màn vô minh dày đặc che lấp tâm tánh thuần lương khiến con
người bất chấp mà tạo ra tội nghiệp.
Tóm lại, ở phẩm trước, Bồ Tát Dược Vương đốt
thân và đốt hai cánh tay là để phá chấp Ngã và những cặp phạm
trù đối đãi thuộc về chấp ngã và chấp pháp tức là phá sắc uẩn.
Đến phẩm này, Bổ Tát Diệu Âm cúng dường âm nhạc và bát bảy báu
để phá những cảm thọ về thấy và nghe phát xuất từ thế giới bên
ngoài khi lục căn tiếp xúc với nó. Đây là phá thọ uẩn để xoay về
sống với Tri Kiến Phật hằng hiện hữu. Vì cảm thọ rất tế nhị và
sâu sắc nên kinh điển diễn tả thân tướng Bồ Tát Diệu Âm trang
nghiêm hơn thân tướng Bồ Tát Dược Vương là vậy.
Sau cùng đức Phật xác định rằng Diệu Âm Bồ
Tát thuở xưa chính là Bồ Tát Diệu Âm ngày
nay. Giống như Thường Bất Khinh Bồ Tát xưa kia nay đâu phải ai
xa lạ mà chính là đức Phật Thích Ca. Và xưa kia là Bồ Tát Nhất
Thiết Chúng sinh Hỷ Kiến thì nay là Bồ tát Dược Vương. Đây là
thể loại kinh Bổn Sự nói về những đời quá khứ xa xưa của những
người đệ tử Phật và của đức Phật. Vậy kinh Bổn Sự nói lên điều
gì? Nó nói lên một chân lý là con người có mặt trên quả địa cầu
hôm nay không chỉ là một lần mà đã trải qua không biết bao nhiêu
đời, lăn lộn, lên xuống, trôi nổi trong biển luân hồi và sẽ còn
tiếp nối như thế mãi mãi. Người học Phật không những thấy biết
rõ ràng sự hoại diệt, vô thường của thế gian mà còn thấy rốt ráo
sự trường tồn vĩnh cửu tức là tánh vô sanh vô diệt của vạn pháp
nữa. Bởi vì khi con người chết thì từ cái diệt này bắt đầu cho
sự sanh khác để tạo thành con người mới. Đó là hiện tượng quy về
bản thể và bản thể duyên khởi thành ra hiện tượng cho nên không
có cái gì là thật sinh hay cái gì là thật diệt nghĩa là sinh để
rồi diệt, diệt rồi lại sinh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận
nên sinh diệt, sống chết là chuyện thường, chẳng có gì quan
trọng nên không còn lo sợ, buồn phiền. Chúng sinh khi thấy mình
già yếu, bệnh tật thì đau khổ, lo âu, sợ sệt. Ngược lại, đối với
người biết đạo thì sống chết là chuyện bình thường, tử sanh là
trò dâu biển nằm trong chu kỳ bất biến tùy duyên rồi tùy duyên
bất biến thế thôi. Vì vậy với Phật nhãn của chư Phật thì nhìn
vạn pháp sanh mà không thật sanh và diệt nhưng không phải là mất
hẳn nghĩa là sinh để rồi diệt và diệt rồi để lại sinh, sinh sinh
diệt diệt vô cùng vô tận. Tất cả các pháp luôn vận hành biến
chuyển chớ không có pháp nào đứng yên, tồn tại, cố định cả nghĩa
là tất cả mọi hiện tượng trên thế gian này đều thuộc về hành
pháp hết. Hành có nghĩa là biến chuyển, không bao giờ cố định,
vĩnh cữu. Nhưng dựa theo giáo lý Phật Đà thì “Chư hành vô
thường, Thị sanh diệt pháp” nghĩa là tất cả hiện tượng vật chất
đều là hành pháp nên nó sanh diệt, diệt sanh liên tục từng sát
na, biến đổi khôn lường. Vì thế người đi trên con đường giải
thoát để có an lạc Niết bàn, có cái vui tịch diệt thì phải diệt
đi cái quan niệm sinh diệt nghĩa là đừng sợ chết và đừng tham
sống. Thế thì mục đích Phật nói kinh Bổn Sự là để nhắc nhở chúng
sinh về sự sinh tử, tử sinh trong cuộc đời nghĩa là không riêng
gì chúng ta mà chính đức Phật cũng đã trải qua biết bao nhiêu
lần sinh tử cho nên sinh, lão, bệnh, tử là một chân lý nên con
người đừng sợ mỗi khi mình có bệnh hay chết thì cuộc sống sẽ có
an vui tự tại.
-Này Hoa Đức, ngươi chỉ thấy thân
hình của Diệu Âm ở tại đây, chẳng dè Bồ-tát ấy hiện các thứ thân
hình, nơi nơi đều vì chúng sanh mà nói kinh điển này. Diệu Âm có
thể hiện thân Phạm Vương, Đế Thích, Tự tại thiên, Đại tự tại
thiên, Thiên đại tướng quân, Tỳ sa môn thiên vương, Chuyển luân
thánh vương, Tiểu vương, Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà la môn,
Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hoặc hiện thân vợ tể
quan, hoặc hiện thân trai, gái, trời, rồng, dạ xoa, người cùng
không phải loài người mà nói kinh này. Bao nhiêu địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh và ở đâu có tai nạn, Diệu Âm đều có khả năng cứu
giúp, thậm chí đến trong hậu cung vua chúa, Bồ-tát cũng biến làm
thân người nữ mà nói kinh nầy.
Nếu nói về “Sự” thì Bồ Tát Diệu Âm vì lòng đại từ đại bi, thương
xót chúng sinh nên hiện đủ loại thân để hòa đồng và cứu giúp họ.
Nhưng hiện thân thế nào? Đây là chỗ đáng để ý bằng không thì
chẳng những không thấu hiểu được thâm ý của kinh mà còn dễ rơi
vào mê tín dị đoan, trái với luật nhân quả của đạo Phật. Đừng
bao giờ nghĩ rằng Bồ Tát Diệu Âm hiện thân bằng hình tướng thật
của con người để nói chuyện, an ủi, cứu giúp chúng sinh. Mà hiện
thân thuyết pháp độ sanh ở đây là chính Bồ Tát Diệu Âm ở trong
mọi người chúng ta. Chúng ta có thể là vua, là quan, là công
chức, là người nông phu, là vị bác sĩ, ông kỷ sư, cô thư ký,
người thợ dệt, kẻ lái đò, hay bất cứ là ai trên thế gian này thì
lúc nào trong tâm hồn cũng có tiếng nói huyền diệu của Bồ Tát
Diệu Âm luôn nhắc nhở chúng ta tiến tu trên con đường thánh
thiện. Không có người nào mà không có. Đây mới chính là thâm ý
của kinh và là sự mầu nhiệm của Phật pháp. Nói cách khác bất cứ
giai cấp nào, trình độ nào, căn cơ nào, con người thuộc bất cứ
chủng tộc nào hay ở bất cứ chỗ nào trên quả địa cầu này đều có
những ý niệm lành tức là có Diệu Âm trong họ rồi.
Nhưng Bồ Tát Diệu Âm cứu nhân độ thế như thế
nào?
Khi chúng ta sắp làm việc thiện thì lắng nghe trong ta đã có âm
thanh nhắc nhở, khuyến khích chúng ta hoàn thành việc thiện đó.
Ngay cả việc ác thì từ trong lòng cũng có tiếng nói để nhắc nhở
cảnh báo chúng ta đừng làm việc ác. Cả hai đều là Bồ Tát Diệu Âm
đã hiện ra từ trong căn tánh của chúng ta để nhắc nhở từng hành
động thiện, ác của chúng ta. Nếu con người biết nghe theo những
âm thanh huyền diệu đó và thực hành đúng như vậy thì chính mình
sẽ có biết bao lợi ích và tránh xa biết bao tai họa. Thí dụ khi
đi chợ thấy có vật đẹp, tâm tham liền nổi dậy muốn đánh cắp vật
đó. Ngay vào sát na đó, Diệu Âm tức là tiếng lòng của mình cảnh
báo làm cho ta thức tỉnh nên ý niệm tham biến mất. Đó là Bồ Tát
Diệu Âm đã cứu nạn cho chúng ta rồi đó. Tại sao? Nếu con người
chạy theo lòng tham mà đánh cắp đồ vật của kẻ khác, rủi bị bắt
thì sẽ vào tù ra khám, nhục nhã biết bao. Đó là chưa kể sự cắn
rứt của lương tâm. Khi có người chữi mắng thì lúc đó Diệu Âm
cũng hiện lên để nhắc nhở chúng ta thực hành tánh nhẫn nhục,
không cần lời qua tiếng lại đi đến đánh đấm nhau rồi phải vướng
mắc tai họa, nên mọi chuyện qua đi. Đó là Bồ Tát Diệu Âm đã cứu
nạn cho chúng ta rồi đó. Do đó Bồ Tát Diệu Âm đã hiện ra trong
thân của chúng ta để nhắc nhở chúng ta làm việc thiện và tránh
xa việc ác thì cuộc đời sẽ vô cùng hạnh phúc mà không cần phải
cầu nguyện, van xin ai hết. Sự huyền diệu ở đây là chúng sinh có
chịu lắng nghe tiếng nói Diệu Âm trong lòng của mình hay không?
Nếu biết nghe theo tiếng nói Diệu Âm huyền diệu ấy thì trong sát
na đó chính mình đang sống trong tỉnh thức chánh niệm, làm chủ
lấy những biến hành của thân, thọ, tâm, pháp thì không bao giờ
những điều bất hạnh hay tai họa có thể xảy ra cho họ được. Đấy
là Bồ Tát đã cứu chúng ta vậy, chớ đừng
mơ ước ảo huyền nghĩ rằng bình thường thì không
chịu làm lành lánh giữ, chạy theo tham đắm dục
tình đến khi đối diện với tai họa mới cầu nguyện, van xin thì Bồ
Tát nào đến cứu ta đây?
Nếu tin rằng có vị Bồ Tát Diệu Âm thật sự có thể cứu rỗi chúng
sinh tránh khỏi tai họa thì khi lở giết người rồi ngồi đó cầu Bồ
Tát để cảnh sát đừng bắt chúng ta vào tù có được không? Thật vậy
ngay cả những người làm điều sai trái, tội lỗi đều được Bồ Tát
Diệu Âm nhắc nhở cảnh báo trước chứ, nhưng họ không nghe theo
nên chân mới sa vào vũng bùn tội ác.
Cũng vậy, trên thế gian này đâu có bậc cha mẹ nào dạy con những
điều hư hỏng, nhưng nghe hay không là do người con cho nên đứa
con nào biết nghe lời cha mẹ thì nó trở thành người tốt, có cuộc
sống êm đềm hạnh phúc. Ngược lại, đứa con nào không nghe lời mà
chạy theo cờ bạc, hút xách, rượu chè, ăn chơi, bê tha, trụy lạc
thì tương lai đen tối, chẳng những nó làm khổ đời nó mà còn làm
khổ cho cha mẹ suốt cả cuộc đời. Nhưng tại sao cha mẹ có hai đứa
con mà một đứa ngoan còn đứa kia thì hư hỏng? Đây chẳng
có gì mới lạ mà chỉ là nhân duyên quả bảo cho nên tuy cùng cha
mẹ, nhưng mỗi đứa con đến thế giới này bằng hai căn nghiệp khác
nhau nên sự hấp thụ và hành xử không giống nhau. Mặc dù là đứa
con hư hỏng, nhưng trong nó cũng có đầy đủ tiếng nói Diệu Âm
khuyến khích, réo gọi làm điều lành và lánh xa điều ác, nhưng
nghiệp chướng của nó quá nặng nề thành ra những tiếng nói Diệu
Âm đó không có tác dụng, không thể thay đổi cuộc đời nó được vì
vậy nó phải chịu khổ.
Kinh có câu: “Dược y bất tử bệnh, Phật hóa hữu duyên
nhơn” nghĩa là thuốc là để trị bệnh không chết chớ còn
bệnh chết thì không có thuốc chửa. Cũng như Phật chỉ hóa độ cho
những ai có duyên với Phật pháp còn những người vô duyên thì
Phật cũng không hóa độ được. Nói thế có nghĩa là tuy Phật pháp
thậm thâm vi diệu nhiệm mầu, nhưng nếu chúng sinh không quay về
nương tựa Phật pháp thì Phật pháp cũng không giúp gì cho họ
được. Nhưng làm sao để quay về? Khi chúng sinh nhận thức được
rằng cuộc đời là những chuổi dài đau khổ, cái hạnh phúc đang có
là cái mầm cho những nỗi khổ về sau cho nên muốn hết khổ, có an
vui tự tại thì Phật pháp sẽ là cứu cánh của cuộc đời. Nương theo
Phật pháp để làm chủ lấy thân tâm, luôn sống trong tỉnh thức
chánh niệm thì cuộc đời sẽ hoàn toàn thay đổi, chuyển mê thành
ngộ, chuyển đau khổ thành an lạc Niết bàn.
Vì sự huyền diệu đó mà Bồ Tát Diệu Âm có thể hiện trên sáu tỷ
thân người là như vậy nghĩa là thế giới có bao nhiêu con người
là có bấy nhiêu hiện thân của Bồ Tát Diệu Âm. Tiếng nói Diệu Âm
này không nhất thiết chỉ dành cho Phật tử, những người quy y Tam
Bảo, mà nó có trong tất cả mọi chúng sinh. Người theo đạo Thiên
Chúa giáo cũng có tiếng nói này, kẻ theo đạo Bà la môn cũng nghe
rất rõ Diệu Âm này. Thậm chí, những người không theo bất cứ tôn
giáo nào thì tiếng nói Diệu Âm vẫn réo gọi trong tâm hồn họ rất
huyền diệu chằng sai khác vì tất cả mọi chúng sinh đều có sẳn
Phật tánh (Buddha Nature) rồi.
Bồ Tát Diệu Âm thành tựu được như thế là vì ngài có tam muội
“Hiện Nhất Thiết Sắc Thân” là biểu tượng cho tiếng nói thánh
thiện, trong sáng trong tâm hồn của tất cả mọi chúng sinh. Vì
vậy, chúng sinh không cần phải đi tìm đâu xa, không cần van xin
cầu nguyện, mà chỉ cần xoay vào trong lắng nghe tiếng nói thánh
thiện đó để nhắc nhở, réo gọi ta luôn làm lành lánh dữ, giữ tâm
ý thanh tịnh thì cuộc đời chắc chắn sẽ trong sáng, nhẹ nhàng,
thanh thoát, an vui và tự tại.
-Hoa Đức, Bồ-tát Diệu Âm này hay cứu
hộ các chúng sanh trong cõi Ta-bà, vì chúng sanh mà nói kinh
Pháp Hoa, tuy vận dụng thần thông biến hoá như thế mà trí tuệ
sáng soi cõi Ta-bà, khiến tất cả chúng sanh, mỗi mỗi đều được sự
hiểu biết của mình, còn trong hằng hà sa thế giới mười phương
cũng đều được như vậy. Nếu phải dùng hình Thanh Văn, Duyên Giác,
Bồ-tát hay Phật để độ thoát chúng sanh thì Diệu Âm liền hiện ra
hình ấy mà nói pháp. Thậm chí phải diệt độ để độ thoát chúng
sanh thì cũng thị hiện diệt độ.
Đoạn kinh này rất hay, ý nghĩa tuyệt vời,
nhưng đừng hiểu rằng Bồ Tát Diệu Âm khi nghe chúng sinh gặp hoạn
nạn cầu cứu thì ngài hiện thân cứu giúp. Trên thế giới ngày nay
có biết bao thiên tai, động đất, núi lửa, sóng thần…
là do sự chuyển động của trái đất. Đó là chưa kể
do lòng tham của con người phá hũy môi trường sống của chính
mình qua chiến tranh, qua những cuộc thí nghiệm nguyên tử, qua
tàn phá thiên nhiên, đốt rừng tiêu hủy cây cối…
tạo nên những ảnh hưởng dây chuyền nguy hiểm cho
nhân sinh. Con người cũng vì muốn thỏa mãn lòng tham mà đi ngược
lại với thiên nhiên nên hàng ngày lấy lên từ lòng đất, từ lòng
biển hàng triệu thứ từ kim cương đến vàng, bạc, nhôm, sắt, khí
đốt, dầu hỏa rồi lại thải ra hàng triệu tấn chất độc tác hại gây
ra lầm than qua thiên tai, động đất, sóng thần, bảo lụt, hạn
hán. Khi tai họa xảy ra, con người lo sợ nên cầu nguyện, van xin
mà vẫn chết. Ở Hoa Kỳ hàng năm những cơn gió lốc và những cơn
bảo tố đã giết chết biết bao người. Mới đây nhất ngày 11 tháng 3
năm 2011 ở Nhật Bản có trận động đất với cường độ 9.0 mang theo
nhiều ngọn sóng thần cao đến 40 thước (133 ft) đã quét sạch
nhiều thành phố dọc theo bờ biển về phía Đông Bắc. Có trên
15.846 người chết, 3.320 người mất tích và trên 125.000 tòa nhà
lẫn cao ốc bị hủy diệt. Nhật Bản là quốc gia Phật giáo cho nên
khi gặp biến cố tai trời ác nước như thế thì dĩ nhiên ai cũng
cầu nguyện Bồ Tát Diệu Âm đến cứu giúp, nhưng nếu có thì tại sao
số người chết và sự tàn phá cao đến như vậy? Bồ Tát có thần
thông diệu dụng thì tại sao lại không chống nổi sức của sóng
thần để cứu muôn dân? Thật ra, sự sống chết của con người là do
ân oán nhân quả của họ cho nên Phật trời không bao giờ can dự
vào.
Vì thế cứu độ ở đây phải được hiểu là Bồ Tát
Diệu Âm phát ra tiếng nói thánh thiện từ trong lòng của mỗi
chúng sinh để nhắc nhở, khuyến khích, động viên họ làm việc
lành, tránh việc ác và giữ tâm ý cho được thanh tịnh thì cuộc
sống sẽ có an vui, tự tại. Nên nhớ ngày xưa đức Phật Thích Ca
hằng ngày cũng phải ôm bình bát đi xin cơm thính chúng, nếu Ngài
có thần thông diệu dụng thiên biến vạn hóa, chỉ cần niệm thần
chú thì bát cơm tự đầy cần gì phải đi xin. Nếu đức Phật không
làm được thì không có một vị Bồ Tát nào có thể làm được. Cái
tinh hoa của Phật giáo là phát triển trí tuệ và sống bằng trí
tuệ nên Phật giáo là khoa học và vượt hẳn khoa học vì tất cả
những gì đức Phật tìm ra con đường giải thoát giác ngộ rất phù
hợp với tiến trình khám phá của khoa học. Vì thế đừng đem những
ảo tưởng mê tín hoang đường làm oen ố truyền thống thanh cao của
Phật giáo.
Vậy thế nào là cõi Ta Bà?
Khi tâm của chúng sinh đang bị dày vò, buồn
bực, đau khổ, phiền muộn, đau thương, trắc trở, rối rắm, bất
bình, bất mãn, bất an thì lúc đó chúng ta đang ở trong thế giới
Ta Bà. Nhưng khi chúng sinh nhớ đến Bồ Tát Diệu Âm nghĩa là
chúng ta nhớ đến Chánh niệm nên quay về sống với tỉnh thức thì
tất cả những ưu phiền đó tan biến vì vậy kinh mới nói Bồ Tát độ
chúng sinh trong cõi Ta Bà là vậy.
Vậy cõi Ta Bà ở đâu? Cõi cực ở đâu?
Cõi Ta Bà là cõi tâm của chúng sinh. Nếu
chúng sinh bị đau khổ, buồn phiền, ray rức dày vò thì lúc đó tâm
họ trở thành cõi Ta Bà và từ đó nhìn ra ngoài họ thấy toàn thế
giới này cũng đầy dẫy khổ đau như vậy. Nói cách khác khi tâm
mình bực bội, buồn phiền thì nhìn đâu cũng không bao giờ thấy có
an vui, đẹp đẽ. Mà Bồ Tát Diệu Âm đến thì cõi Ta Bà trở thành
trong sáng, thanh tịnh, đẹp đẽ. Tại sao? Bất cứ lúc nào tâm ta
đau khổ mà chúng ta quay vào trong để nghe tiếng nói mầu nhiệm,
thanh tịnh của lòng mình thì tất cả những buồn phiền kia tức thì
tan biến. Do đó khi tâm không còn buồn phiền, đau khổ thì lúc đó
tâm họ sẽ nhẹ nhàng, thanh thoát và từ đó họ nhìn thế giới bây
giờ rất tự tại, không còn tranh chấp, buồn phiền nữa nghĩa là
cũng cái thế giới đó mà bây giờ biến thành cõi cực lạc. Vì vậy
tâm an thì thế giới an và tâm bình có thế giới bình là vậy.
Thế giới vũ trụ là nhất chân, bất nhị cho nên
nếu cõi Ta Bà đã an tịnh thì tất cả những thế giới kia cũng sẽ
an tịnh.
Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật:
-Thế Tôn ! Bồ-tát Diệu Âm ở trong tam
muội nào có thể biến hiện ở các nơi và trong nhiều thân hình như
thế?
Phật đáp:
-Tam
muội đó gọi là: Hiện nhất thiết sắc thân.
Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát này, 84.000
Bồ-tát cùng đi với Bồ-tát Diệu Âm đều được tam muội Hiện Nhất
Thiết Sắc Thân.
Khi Bồ-tát Diệu Âm cúng dường đức Phật
Thích Ca và tháp Đa Bảo xong rồi trở về nước mình, các nước của
Bồ-tát trải qua đều chấn động, trên hư không mưa hoa sen báu,
nhạc trời tự trổi như lúc đi. Về đến nước rồi, Bồ-tát cùng
84.000 Bồ-tát vây quanh đến trước Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí
bạch rằng: Thế Tôn! Con đến cõi Ta-bà làm lợi ích cho chúng
sanh, đã ra mắt lễ lạy, cúng dường đức Phật Thích Ca, ra mắt
tháp Phật Đa Bảo lại gặp các Bồ-tát Văn Thù, Dược Vương, Dũng
Thí và cũng đã làm cho 84.000 Bồ-tát này được tam muội Hiện nhất
thiết sắc thân.
Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát này 42.000
người cõi nhân thiên được vô sanh pháp nhẫn, còn Bồ-tát Hoa Đức
được Pháp Hoa tam muội.
Tam muội Hiện Nhất Thiết Sắc Thân là Bồ Tát tâm của tất cả mọi
người, ai cũng có, cho nên Diệu Âm Bồ Tát ở trong tâm của mọi
người tức là của nhất thiết sắc thân vì vậy bất cứ ai cũng có
Diệu Âm. Lúc Phật nói phẩm Diệu Âm Bồ Tát thì 84.000 Bồ Tát cùng
đi với Bồ Tát Diệu Âm đều chứng được “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân”
tam muội nghĩa là bất cứ Bồ Tát nào cũng đều có trong tâm của
chúng sinh. Trở lại phẩm Tùng Địa Dũng Xuất thì trong tâm của
chúng sinh có hằng hà vô số Bồ Tát hạnh, nhưng bình thường chúng
sinh sống trong vô minh phiền não nên không biết, đến khi Phật
khai thị thì Bồ Tát từ trong đất (tâm) ào ào xuất hiện. Số Bồ
Tát đông hơn cát của sáu muôn sông Hằng chính là Bồ Tát tâm của
chúng ta đó. Nó thiên biến vạn hóa trùng trùng điệp điệp vì tâm
không có ngằn mé, bao la vô cùng vô tận. Tuy mỗi chúng sinh đều
có Bồ Tát tâm, Bồ Tát hạnh, nhưng nếu đức Phật không khai thị
chỉ bày thì chính họ cũng không hề biết mình có những đức hạnh
cáo quý đó. Cũng như trong mỗi chúng sinh đều có Phật tánh,
nhưng đâu có ai biết và sử dụng cái Phật tánh thiêng liêng của
mình nên suốt cuộc đời cứ mãi sống trong điên đão khổ đau.
Bây giờ đã biết trong tâm có hàng hà vô số Bồ Tát, con người có
thể biểu hiện bằng đem tâm đại từ, đại bi ấy phục vụ chúng sinh
mà mang lại lợi ích cho mình, cho người và cho tất cả.
Phật Thích Ca là thỉ giác còn Phật Đa Bảo là bổn giác nghĩa là
Phật Thích Ca là sự hiễn lộ của Phật Đa Bảo trong một không
gian, thời gian nhất định. Vì thế mới nghe tưởng là có hai vị
Phật, nhưng trên thực tế thì tuy hai mà một. Thí dụ Phật Đa Bảo
là dầu hỏa còn nằm sâu dưới lòng đại dương cả mấy ngàn năm chưa
được khai phá. Đến khi con người có đủ kỷ thuật tân tiến nên lấy
nó lên khỏi lòng đất thì dầu hỏa bây giờ chính là thỉ giác tức
là Phật Thích Ca. Đó là lý do tại sao Phật giáo Đại thừa lý luận
rằng không có chứng đắc hay thành Phật bởi vì chứng đắc hay
thành Phật chẳng qua là trở về với bổn giác tức là Phật Đa Bảo
đã có sẵn chớ không phải thành tựu cái gì mà mình chưa bao giờ
có. Cũng như tấm kiếng vốn đã trong sáng, nhưng vì bụi bám làm
cho nó mờ mịt. Đến khi lau sạch bụi mờ (vô minh phiền não) thì
tấm gương sáng (Phật tánh) trở lại chớ đâu phải tấm gương chưa
bao giờ sáng. Vì vậy Phật Đa Bảo hay Phật tánh thì lúc nào cũng
có trong mỗi chúng sinh, nhưng con người không nhận biết nó vì
họ đang bị màn vô minh hắc ám che đậy. Đến khi thanh lọc thân
tâm thanh tịnh thì Phật tánh hiễn bày tức là Phật Đa Bảo hiện
thành Phật Thích Ca. Nếu không có Phật tánh này thì không bao
giờ có kinh Pháp Hoa và dĩ nhiên không có phần thọ ký.
Thế nào là vô sanh pháp nhẫn?
Vô sanh pháp nhẫn nghĩa là nói lên tánh vô
sanh của vạn pháp tức là sanh mà không thật sanh, sanh để rồi
diệt và diệt mà không phải thật diệt, diệt để rồi lại sanh, sanh
sanh diệt diệt vô cùng vô tận. Nói cách trong thế gian nhân
duyên trùng trùng nương gá tác động hình thành thì gọi là sanh
và khi nhân duyên trùng trùng tan rã thì gọi là diệt. Vì thế
sanh không thật sanh và diệt cũng không thật diệt. Vì ngộ được
chân lý vô sanh nên xem tấm thân thất đại này cũng như mây tụ
tán hợp tan vậy thôi. Mà đã là “Ngũ uẩn phù hư không khứ
lai” thì con người chẳng có gì phải sợ khi tấm thân này
còn và chẳng có gì đau khổ khi nó mất.
Khi chúng sinh đã thấu hiểu vô sanh pháp nhẫn
thì họ sẽ không còn điên cuồng nhắm mắt chạy theo sắc, tài,
danh, lợi một cách mù quáng vì có tranh giành chiếm đoạt thì vạn
pháp từ “Có” một ngày nào đó sẽ trở thành “Không” ngay cả tấm
thân của họ cũng không thoát khỏi định luật này. Vì thế cuộc
sống bây giờ trở nên nhẹ nhàng thanh thoát thanh tịnh hơn nhiều
và con đường tiến về giải thoát sẽ dễ dàng, ít chông gai hơn.
Bồ Tát Diệu Âm trở về thế giới Nhất Thiết
Tịnh Quang Trang Nghiêm cho nên cõi Ta Bà không còn rực rỡ nữa
nghĩa là nếu chúng ta không còn lắng nghe tiếng nói thánh thiện
trong lòng của mình thì chắc chắn mình sẽ chạy theo ái dục và
chìm trong biển ái sông mê nên tâm bây giờ không còn trong sáng
nữa tức là mình đang sống trong cõi tâm Ta Bà rồi. Vì vậy nếu
chúng sinh không có khả năng lắng nghe Diệu Âm tức là tiếng nói
mầu nhiệm của chơn tâm thanh tịnh thì cõi lòng của ta sẽ trở về
với bao nghiệt ngã đau thương, với cuộc sống của vô minh phiền
não vô cùng vô tận.
∆
TOP |
NEXT
|