PHẦN TỔNG LUẬN
Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh vô cùng quan trọng đối với Phật
giáo Đại thừa vì kinh ẩn chứa một triết lý rất thâm sâu huyền
diệu. Cấu trúc của kinh rất chặt chẻ, mạch lạc trải dài suốt 28
phẩm.
Nhưng cốt tủy của kinh vẫn là xác định rằng “Chư Phật chỉ do một
đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian”. Và bản hoài của chư
Phật là muốn cho chúng sinh “khai,
thị, ngộ, nhập Phật tri kiến”nghĩa
là đức Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập
cái thấy biết của Phật và cũng chính là cái thấy
biết của Pháp Hoa vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Đó
là trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng có đầy đủ tri kiến
Phật, là trí tuệ bổn lai đều giống như Phật.
Vậy Phật tri kiến mà đức Phật muốn nói ở đây chính là chơn tâm,
là Phật tánh thường có vĩnh hằng, nhưng vì bị vô minh che lấp
nên con người không thấy biết chơn tánh hằng giác của mình. Cái
bổn tánh này ví như mỏ vàng đang đợi khai phá, chưa được hiển
lộ. Vì thế đức Phật muốn chúng sinh khai mở tri kiến Phật của
mình để có sự thanh tịnh, an lạc ngay trong cõi đời có tan có
hợp này cũng giống y như Phật vậy. Cũng ví như vàng ròng còn
trộn lẩn với đất cát sỏi đá, Phật tánh và phiền não cũng vậy.
Phiền não còn, Phật tánh biến mất cho nên nếu chúng sinh hóa
giải được một phần phiền não thì có được một phần Bồ-đề. Mà có
Bồ-đề là có giác ngộ. Dựa theo tinh thần Pháp Hoa, nhân duyên
lớn nhất để đức Phật xuất hiện trên thế gian này là khai mở, chỉ
bày khiến cho chúng sinh mở toang tri kiến Phật của họ và giúp
cho chúng sinh thanh tịnh hóa tri kiến Phật đó.
Thế thì cấu trúc của kinh Pháp Hoa như thế nào?
Tuy kinh có tất cả 28 phẩm, nhưng phẩm Tựa chỉ nói lên tổng quát
toàn bộ của kinh cho nên phẩm này không nằm trong hệ thống
“Khai, thị, ngộ, nhập” Tri Kiến Phật.
Nội dung của kinh bắt đầu từ phẩm Phương Tiện đến phẩm Phổ Hiền
Bồ Tát bao gồm toàn bộ ý nghĩa của Pháp Hoa. Đó là “Khai, thị,
ngộ, nhập cái trí tuệ Phật nhiệm mầu này.
Trước hết phần Khai Tri Kiến Phật gồm các phẩm Phương
Tiện, Thí Dụ, Tín Giải, Dược Thảo Dụ, Thọ Ký, Hóa Thành Dụ, Ngũ
Bá Đệ Tử Thọ Ký, Thọ Học Vô Học Nhơn Ký và phẩm Pháp Sư.
Phần Thị Tri Kiến Phật chỉ có phẩm Hiện Bảo Tháp.
Phần Ngộ Tri Kiến Phật gồm có phẩm Đề Bà Đạt Đa, Trì, An
Lạc Hạnh, Tùng Địa Dõng Xuất, Như Lai Thọ Lượng, Phân Biệt Công
Đức, Tùy Hỷ Công Đức, Pháp Sư Công Đức, Thường Bất khinh Bồ Tát,
Như Lai Thần Lực và Chúc Lụy.
Sau cùng phần Nhập Tri Kiến Phật gồm có các phẩm Dược
Vương Bồ Tát Bổn Sự, Diệu Âm Bồ Tát Vãng Lai, Quán Thế Âm Bồ Tát
Phổ Môn, Đà-la-Ni, Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự và Phổ Hiền Bồ
Tát Khuyến Phát.
Trải suốt chiều dài của 22 phẩm đầu, kinh đã lần lượt giới thiệu
nhiều lần cái trí tuệ Phật đó để người đệ tử Phật thấy biết rõ
ràng tức là khai, thị, ngộ Tri Kiến Phật của mình. Nhưng
quan trọng nhất vẫn là phần thâm nhập tức là phần thực hành để
tự mình chứng nhập cái Tri Kiến Phật đó.
Vậy làm thế nào để thâm nhập cái trí tuệ Phật này?
Cốt lõi để thâm nhập Tri Kiến Phật hay khám phá cái trí tuệ Phật
ở trong Ta là trở về với trạng thái thanh thoát nhẹ nhàng, không
dính mắc, bám víu
hay chấp thủ cũng như dòng sông trí tuệ tuôn chảy bỗng nhiên bị
cái đê ngũ uẩn ngăn chận. Vì thế muốn dòng sông trí tuệ không
còn bị ngăn ngại thì phải phá cho hết cái đê ngũ uẩn. Sắc uẩn
cũng phá, thọ uẩn cũng phá, tưởng uẩn cũng phá, hành uẩn cũng
phá và sau cùng thức uẫn cũng phá. Kinh Pháp Hoa, lần đầu tiên
trong kho tàng kinh điển Đại thừa, vén bức màn bí mật để hiển lộ
bộ mặt thật của Phật tánh, chơn tâm hay Tri Kiến Phật. Vì Phật
tánh là bản thể chơn như nên từ trước đến nay không ai dám đá
động đến nó. Lục Tổ gọi nó là “Vô nhất vật” do vậy không ai dám
xâm phạm đến nó bởi vì đụng đến nó thì nó không còn vô nhất vật
nữa rồi. Bản thể chân như là một cái gì quá trừu tượng chằng
khác nào nắm bắt những làn hương nghĩa là thấy đó mà không bao
giờ nắm bắt nó được. Nhưng may mắn thay, kinh đã bật mí để chúng
ta có cái nhìn rõ ràng hơn cái “vô nhất vật” này. Đó là chỉ cần
phá tan ngũ uẩn thì bức màn che Phật tánh bắt đầu mở rộng và cái
“vô nhất vật” đó sẽ từ từ hiển lộ chớ không còn nằm trong trí
tưởng tưởng của con người nữa.
Trước hết, trong phẩm Dược Vương Bồ Tát, Bồ Tát Dược Vương đốt
thân và hai tay để cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức thì
đây là phá sắc uẩn.
Sắc uẩn
là yếu tố vật chất bao gồm vật lý - sinh lý, có bốn yếu tố vật
chất căn bản là đất (Tóc, lông, móng răng, da, thịt, gân, xương,
tủy, thận, tim, gan, ruột, lá lách, phèo, phổi, bao tử, thực
phẩm chưa tiêu, phẩn), nước (Mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước
mắt, nước mỡ, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu),
gió (Gió hướng lên khiến ta nôn, gió hướng xuống giúp nước tiểu
và phẩn ra ngoài, gió trong ruột, gió ngoài ruột nhưng nằm trong
bụng, mọi tác động của cơ thể như đi, đứng, ngồi, co, duỗi v.v…
hơi thở ra vào), lửa (Thân nhiệt, sức nóng làm cho cơ thể tưởng
thành, già nua, nhiệt độ quá cao khiến chúng ta khó chịu và than
phiền là quá nóng, nhiệt độ cần thiết để tiêu hóa thức ăn). Các
yếu tố do bốn đại tạo ra thuộc về sinh lý như: mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân; các đối tượng của giác quan như: hình sắc, âm thanh,
mùi vị, vật xúc chạm. Khi tứ đại kết hợp thì chúng ta có hình
dáng và nếu không nhìn bằng cặp mắt trí tuệ thì chúng ta sẽ thêm
vào cái hình dáng đó là Tôi, của Tôi, đàn ông, đàn bà… Do ý niệm
sai lầm này khiến sự dính mắc phát sinh trong tâm ta. Như vậy
yếu tố vật chất là thân thể hay ngoài thân thể, thuộc vật chất
hay năng lượng, thuộc thời gian hay không gian đều bao hàm trong
sắc uẩn. Thân thể là sắc uẩn, vì vậy chúng không phải là một
thực thể độc lập mà là một hợp thể vật chất biến động và mâu
thuẫn như mảng bọt trên mặt nước hay nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy thân
tứ đại chỉ là những bọt vật chất tạm bợ. Thân thể muốn tồn tại
phải nương vào các duyên bên ngoài như ánh sáng mặt trời, thức
ăn thức uống, không khí, nhà cửa, xe cộ...vì thế thân tứ đại là
vô thường, vô ngã tức là Không.
Vì vậy bất cứ sự chấp thủ, tham ái thân thể (sắc uẩn), hoặc bất
cứ một đối tượng vật lý, sinh lý nào cũng đều tiềm ẩn nguy cơ
đau khổ cho nên đức Phật đã dạy rằng “Ai cho rằng sắc uẩn
là Ta, là của Ta, là tự ngã của Ta thì chắc chắn gặt hái đau
khổ, thất vọng, sầu muộn, vấp ngã và tai nạn”.
Kế đến phẩm Diệu Âm Bồ Tát Vãng Lai thì Bồ Tát Diệu Âm đã sử
dụng 10 muôn
thứ kỹ nhạc để cúng dường cho Phật Vân Lôi Âm Vương thì đây là
phá thọ uẩn.
Thọ uần:
Thọ là cảm giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà
sinh ra thọ. Đức Phật dạy có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc
mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân
với vật cứng-mềm, ý với đối tượng tâm ý. Cảm giác theo Phật giáo
không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà là cảm xúc, một
biểu hiện sâu hơn của cảm giác; cảm giác có ba loại: một là cảm
giác khổ, hai là cảm giác vui sướng, ba là cảm giác không vui
không khổ. Tất cả những loại cảm thọ ấy tạo thành một dòng sông
cảm thọ tâm lý chi phối hệ thống tâm thức, chúng sinh khởi biến
hiện thay đổi vô chừng; chúng chuyển biến vô tận, vô thường, vô
ngã và hiện hữu có điều kiện. Chấp thủ vào cảm thọ bao giờ cũng
sai lầm và gặt hái khổ đau.
Đến phẩm này, Bồ Tát Quán Thế Âm phá tưởng uẩn để giúp chúng
sinh hết sợ.
Tưởng uẩn:
là nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối tượng là cái gì, đây
là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của
giác quan. Sự nhận biết đối tượng có hai loại: một là nhận biết
đối tượng bên ngoài như mắt thấy sắc nhận biết đó là cái nhà,
chiếc xe, tai nghe âm thanh nhận ra tiếng chim hót, tiếng khen,
lời chửi mắng...; hai là khả năng nhận biết đối tượng bên trong,
tức là các đối tượng tâm lý như những khái niệm, hồi tưởng, ký
ức, kinh nghiệm... Như vậy, tưởng uẩn là cái thấy, cái biết của
mình về con người, hoặc sự việc hay sự kiện. Vì vậy, tri giác là
một trong những tác dụng của thức.
Sự có mặt của tri giác là sự có mặt của kinh nghiệm. Tri giác
tùy thuộc vào những kinh nghiệm đã qua cho nên khi thấy đóa hoa
thì biết đây là đóa hoa bởi vì cái tri giác về đóa hoa đã có sẵn
trong A lại da thức. Nhưng làm thế nào để biết đóa là đóa hoa?
Khi ý thức muốn so sánh thì Mạt na thức liền chuyển tư tưởng đó
vào A lạ da thức và sau khi so sánh các kinh nghiệm của các đóa
hoa đã có trong đó xong thì một lần nữa Mạt na thức liền chuyển
ý tưởng đó cho tưởng uẩn thành ra “tri giác” tức là “sự thấy”
hay là “sự nhận ra” vật đó là đóa hoa. Vì vậy tri giác dễ bị
đánh lừa bởi kinh nghiệm, do vì thực tại thì luôn sinh động. Vì
sao? Bởi vì chúng ta chỉ thấy đóa hoa dựa theo quan niệm
của mình chớ không thấy thật tánh của đóa hoa tức là “tự
nó thật sự là”. Khi nhìn đóa hoa chúng ta cho rằng mình
đang nhìn đóa hoa, nhưng đóa hoa là tên do mình đặt cho nó chớ
tự nó “không phải là” đóa hoa “hay là”
đóa hoa. Mà thật chất của nó là sự tổng hợp của đất, nước, gió,
lửa qua trùng trùng duyên khởi kết thành hình tướng rồi chúng ta
đặt tên hình tướng đó là đóa hoa. Nói vậy thì trong đóa hoa có
nước, nhưng chúng ta có thấy trời mưa hoa rơi xuống đâu? Trong
hoa có ánh sáng mặt trời, nhưng ngoài trời đâu có rơi hoa? Trong
hoa có phân bón, nhưng trong các thùng phân bón làm gì có hoa?
Do đó thật tánh của hoa là không tánh vì hoa là do sự kết hợp
của trùng trùng duyên khởi chớ đóa hoa không tự nó có hay tồn
tại được. Vì vậy cái biết của tri giác là cái biết “không
thật” mà là cái biết của duyên khởi cho nên tri giác tồn tại
có điều kiện, vì vậy chúng vô thường, trống rỗng; và do duyên
sinh nên tri giác đầy hư vọng mà ta thường gọi là vọng tưởng.
Ngoài sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn thì ngũ uẩn còn có hành uẩn và
thức uẩn nữa. Phẩm Đà-la-ni kế tiếp là phá hành uẩn.
Hành uẩn:
Hành có nghĩa là các hiện tượng tâm lý mang tính chất tạo tác
nghiệp, có năng lực đưa đến quả báo của nghiệp, nói cách khác là
tạo động lực tái sinh. Hành uẩn là những hiện tượng tâm lý còn
được gọi là tâm sở. Duy thức học chia thành 51 tâm sở gồm cả
thọ, tưởng, tức là cảm giác và tri giác cũng gọi là hành. Nhưng
ở đây không xếp cảm giác và tri giác vào nhóm hành vì thọ và
tưởng không có khả năng tạo nghiệp và quả của nghiệp. Hành uẩn
tồn tại nhờ các điều kiện do duyên sinh nên chúng vô thường,
trống rỗng và biến động bất tận. Mỗi uẩn chỉ có thể làm công
việc của chính nó. Thọ uẩn chỉ kinh nghiệm lạc thọ, khổ thọ và
vô ký thọ. Tưởng uẩn đóng vai trò nhận ra đối tượng là cái gì.
Thức uẩn chỉ làm nhiệm vụ nhận biết đối tượng (chỉ biết thấy,
biết nghe, biết ngửi v.v...). Nhưng hành uẩn có đặc tính là phản
ứng hay tác động của tâm. Hành uẩn là nguyên nhân của đi, đứng,
nằm, ngồi, co, duỗi, di chuyển, cười, nói, nghĩ, thấy,
nghe... và tất cả những hoạt động khác.
Do sự kích thích của hành uẩn nên tất cả hành động về thân,
khẩu, ý xảy ra. Bởi vậy, thân, khẩu, ý là sự biểu hiện của hành
uẩn, nhưng khi hành uẩn biểu hiện qua thân, khẩu, ý người ta
hiểu lầm rằng: Đó là linh hồn, tự ngã, tôi, ta.
Và sau cùng phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự là phá luôn thức
uẩn.
Thức uẩn:
Thức là có khả năng rõ biết, phản ánh thế giới hiện thực. Khi
giác quan tiếp xúc với đối tượng, thực nhận biết sự có mặt của
đối tượng, thức không nhận ra đối tượng ấy là gì, là cái gì, màu
gì... đó là chức năng của tri giác (tưởng); thức chỉ nhận biết
sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả
những hình ảnh đi ngang qua nó. Thức có tám loại nên gọi là bát
thức tâm vương: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân
thức, ý thức, mạt na thức và A lại da thức. Thức là nền tảng của
thọ, tưởng, hành. Thức là Tâm vương còn thọ, tưởng, hành là Tâm
sở. Duy thức triển khai bát thức tâm với mục đích khai
thác các khía cạnh sâu kín của thức. Mạt na thức là ý căn, là
căn cứ của ý thức đồng thời nó cũng có tác dụng nhận thức sự tồn
tại của một thực thể, một bản ngã. A lại da thức là cái kho dung
chứa tất cả những chủng tử của kinh nghiệm, ký ức, kiến thức và
tất cả những chủng tử thiện ác hay vô ký. Mặt khác, A lại da
thức làm căn bản cho các hoạt động tâm lý trở về sau khi không
còn điều kiện hoạt động. Nhờ khả năng bảo tồn của A lại da thức
mà các hiện tượng tâm lý phát khởi trở lại khi hội đủ các yếu
tố. Có thể hiểu A lại da thức như là một cái kho chứa và Mạt na
thức là người giữ kho. Chính Mạt na thức vào trong cái kho để
chuyển các chủng tử ra hay vào mà Duy thức gọi là hiện hành hay
biến hành và từ đó tưởng uẩn mới biết được vật đó là gì.
Mặc dù thức uẩn là nền tảng của tâm lý nhưng nó không tồn tại
độc lập, không thể tự chủ bởi vì thức uẩn có tồn tại cũng bởi do
duyên sinh. Thí dụ nếu không có sắc, thọ, tưởng, hành thì không
thể nào có thức được cho nên mối quan hệ của ngũ uẩn là bất khả
phân ly vì vậy đạo Phật không chấp nhận có một thức nào đó độc
lập, tự chủ như khái niệm về một linh hồn bất tử chẳng hạn. Tuy
A lại da thức là một cái kho chứa nhóm, nhưng nó biến chuyển vận
hành liên tục không ngừng nghĩ, có lúc chuyển chủng tử mới vào
và có khi đưa chủng tử ra gọi là biến hành. Vì sự biến chuyển
này mà con người mới có thể tu thành Thánh nhân hay trở thành ác
quỷ. Còn linh hồn là cố định, bất biến cho nên đạo Phật phủ nhận
có một linh hồn sống giữ chết đem về. A-lại-da hàm chứa mọi nội
dung của thức. Nội dung này luôn luôn biến đổi theo hoàn cảnh
sống và theo hành động của chúng sanh mang nó. Chính đây là năng
lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi,
nó đẩy A-lại-da hay Thức nương gá vào một thân thể mới vừa tượng
hình có hoàn cảnh phù hợp với nó. Đó là ý nghĩa của “linh hồn đi
đầu thai” mà Phật giáo gọi là Thức đi đầu thai. Thức được hiểu
như là dòng chảy liên tục của các ý niệm. Các ý niệm này tuỳ
thuộc nhiều yếu tố khác mà phát sinh, đức Phật gọi quá trình tuỳ
thuộc phát sinh nầy là “duyên khởi” (paticasamupàda). Thức chỉ
là một mắc xích trong 12 mắc xích duyên khởi mà thôi. Do
đó, khái niệm “thức” của Phật giáo khác nhau với "linh hồn bất
tử" của các tôn giáo khác rất lớn. Chính sự tiếp nối của các ý
niệm tương tục nầy mà thức đi tái sanh, lên xuống trong 3 cõi 6
đường, chứ không phải là một linh hồn bất tử, vĩnh hằng như cách
hiểu của các tôn giáo khác.
Dựa theo khoa học thì vật lý là sự vật chưa có cái biết, chưa có
sự sống. Sinh lý là sự vật có sự sống mà chưa có cái biết. Còn
tâm lý là có sự sống, có cái biết mà chưa có phân biệt đó là cảm
giác tức là thọ uẩn. Thế thì vật lý là trần, sinh lý là
căn và tâm lý là thức. Dựa theo Duy thức thì căn tiếp
xúc với trần sinh ra thức tức là sinh lý tiếp xúc với vật lý thì
tâm lý phát hiện. Và tâm lý đầu tiên là cảm giác tức là thọ uẩn.
Tuy nhiên mỗi uẩn đều nương tựa vào các uẩn kia mà tồn tại. Thí
dụ trong sắc uẩn có thọ uẩn và trong thọ uẩn có sắc uẩn rồi. Khi
chúng ta có một cảm giác đau khổ, khó chịu thì cái cảm giác này
gồm luôn cả thân thể và tri giác, tâm tư và thức.
Tuy con người là sự kết hợp của ngũ uẩn, nhưng mỗi uẩn là vô
thường, vô ngã nên toàn khối cũng là vô thường, vô ngã tức là
Không chẳng khác nào như cây chuối không có lõi, chỉ là sự kết
tập của các bẹ chuối. Khi thấu rõ bản chất thật của con người và
vũ trụ mà chúng ta đang sống thì chúng ta sẽ không còn bám víu
vào cái thân giả hợp, sẽ không còn thấy nó là Ta hay là của Ta
thì những phiền não khổ đau sẽ đoạn diệt.
Bát Nhã Tâm Kinh vỏn vẹn có 260 chữ, nhưng quan trọng nhất của
Tâm Kinh vẫn nằm ở câu đầu: "Quán tự tại Bồ-tát hành thâm
Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ
nhứt thế khổ ách". Đoạn kinh Bát Nhã này chú trọng đến vấn
đề thoát khổ. Con người sẽ thoát khổ, theo Bát-nhã, khi thực
hành trí tuệ Bát-nhã sâu xa, soi rọi rõ ngũ uẩn là Vô ngã
tức là Không. Thấy biết ngũ uẩn là Vô ngã là thấy biết
tất cả các pháp là Vô ngã nghĩa là khổ là Vô ngã và người cảm
thọ khổ cũng là Vô ngã, bởi cả hai đều là duyên sinh. Khi biết
mình là vô ngã, người cũng là vô ngã, thế gian vũ trụ đều là vô
ngã thì hẳn là không còn có một thứ khổ ách nào ràng buộc cả.
Quan trọng nhất là chúng sinh thấy rõ ngũ uẩn là Vô ngã thì
không còn chấp thủ ngũ uẩn là mình, là của mình, hay là tự ngã
của mình. Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Đấy là đường vào
giải thoát.
Vì thế một khi hành giả phá tan ngũ uẩn không còn chấp ngã, chấp
pháp tâm trí rỗng rang thì trong họ sẽ phát sinh trí tuệ và trí
tuệ này chính là trí tuệ Phật tức là cái biết như thật về tánh
Vô Ngã và lý Duyên Khởi của các pháp.
Như vậy, một khi đã thực sự nhận biết rốt ráo rõ ràng rằng trong
ta không hề có “Cái Ta” hay “Cái của Ta” thì lúc
đó hành giả sẽ khám phá một chân lý tuyệt vời độc nhất vô nhị,
là tinh hoa cốt tủy của Phật giáo và cũng là Tri Kiến Phật của
kinh Pháp Hoa mà ngày xưa chính đức Phật đã chứng dưới cội Bồ Đề
là Chân lý Vô Ngã.
Tuy căn bản của phiền não là Kiến hoặc và Tư hoặc, nhưng cái gốc
để tạo ra những phiền não đó chính là chấp Ngã. Chấp Ngã đã phá
thì chấp pháp cũng theo đó mà diệt bởi vì trong thì Ngã Không và
ngoài thì Pháp Không, trong ngoài tự tại tức là có giải thoát.
Vì thế nếu diệt được chấp Ngã (Vô Ngã) thì tất cả những vô minh
phiền não cũng tan biến theo.
Con người có trở về với bổn tánh, chơn tâm hay Phật tánh chỉ khi
nào họ đạt được cái trí tuệ này thì lúc đó họ sẽ an trú trong sự
thấy biết tánh bình đẳng của tất cả mọi sự vật hiện tượng và tất
cả khái niệm hay ý niệm về những cặp phạm trù đối đãi phân biệt
sẽ biến mất. Vì lẽ đó mà kinh Pháp Hoa còn được biết đến như là
kinh Trí Tuệ.
Hãy lắng nghe đức Phật thuyết giảng về giáo lý Vô Ngã, là bài
pháp thứ hai cho nhóm ông Kiều Trần Như để chuyển bánh xe pháp:
-Này các tỳ kheo, hình tướng (thân xác) không
phải là cái Ngã (theo định nghĩa thông thường thì cái 'ngã' hay
'atman' có
thể hiểu như là linh hồn). Nếu như hình tướng đúng
thật là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì hình tướng đâu phải gánh
chịu bệnh tật, và đối với thân xác thì người ta có thể bảo rằng
: "Đối với tôi thì thân xác của tôi [chỉ có thể] như thế này mà
không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì thân xác
không phải là cái Ngã [cho nên] thân xác phải gánh chịu bệnh
tật (vô thường) và người ta sẽ không thể nào có thể bảo
rằng : "Đối với tôi thì thân xác của tôi [chỉ có thể] như thế
này mà không thể là như thế khác được".
-Này các tỳ kheo, giác cảm không phải là cái Ngã. Nếu
như giác cảm đúng là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì giác cảm đâu
có phải gánh chịu bệnh tật , và [như thế] đối với
giác cảm người ta sẽ có thể bảo rằng:"Đối với tôi thì giác cảm
của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như
là thế khác được". Trong khi đó, bởi vì giác cảm không phải là
cái Ngã [cho nên] giác cảm phải gánh chịu bệnh tật
và người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì
giác cảm của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là
như thế khác được”.
-Này các tỳ kheo, sự nhận thức không phải là cái Ngã.
Nếu như sự nhận thức, này các tỳ kheo, đúng là cái Ngã thì sự
nhận thức đâu có phải gánh chịu bệnh tật (sự lầm lẫn), và [như
thế] đối với sự nhận thức người ta sẽ có thể bảo rằng : "Đối
với tôi thì sự nhận thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà
không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì sự
nhận thức không phải là cái Ngã [cho nên] sự nhận
thức phải gánh chịu bệnh tật và đối với sự nhận thức thì người
ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì sự
nhận thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể
là như thế khác được".
-Này các tỳ kheo, thói quen thường nhật không phải là cái
Ngã. Nếu như thói quen thường nhật, này các tỳ
kheo, đúng là cái Ngã thì thói quen thường nhật đâu phải gánh
chịu mọi thứ bệnh tật , và [như thế] đối với thói
quen thường nhật người ta sẽ có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì
thói quen thường nhật của tôi [chỉ có thể] như thế
này mà không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì
thói quen thường nhật không phải là cái Ngã [cho nên] thói
quen thường nhật phải gánh chịu bệnh tật, và đối với thói quen
thường nhật thì người ta sẽ không thể nào
có thể bảo rằng :
"Đối với tôi thì thói quen thường nhật của tôi [chỉ có
thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".
-Này các tỳ kheo, tri thức không phải là cái Ngã. Nếu
như tri thức đúng là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì tri thức đâu
có phải gánh chịu bệnh tật (những sự diễn đạt sai lầm),
và [như thế] đối với tri thức người ta sẽ có thể bảo
rằng: "Đối với tôi thì tri thức của tôi [chỉ có
thể] như thế này mà không thể như thế khác được". Trong
khi đó, bởi vì tri thức không phải là cái Ngã [cho nên] tri
thức phải gánh chịu bệnh tật và đối với tri thức người ta sẽ
không thể nào có thể bảo rằng: "Đối với tôi thì tri thức của tôi [chỉ
có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Hình tướng trường tồn hay vô
thường?
- Bạch Thế tôn, hình tướng là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì nó là những gì khổ đau hay
hạnh phúc?
- Bạch Thế tôn, là những gì khổ đau.
- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu
sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng:
"Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi"
hay không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Giác cảm trường tồn hay vô
thường?
- Bạch Thế Tôn, giác cảm là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì nó là những gì khổ đau hay
hạnh phúc?
- Bạch thế tôn, là những gì khổ đau.
- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu
sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng:
"Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi"
hay không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Sự nhận thức trường tồn hay vô
thường?
- Bạch Thế Tôn, sự nhận thức là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay hạnh phúc?
- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.
- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu
sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng:
"Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi"
hay không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Thói quen thường nhật trường
tồn hay vô thường?
- Bạch Thế Tôn, thói quen thường nhật là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay hạnh phúc ?
- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.
- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu sự
biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng:
"Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi"
hay không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Tri thức trường tồn hay vô
thường?
- Bạch Thế Tôn, tri thức là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay hạnh phúc ?
- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.
- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu sự
biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng:
"Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi"
hay không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
-Tóm lại, này các tỳ kheo, đối với bất cứ những gì là
thân xác, là giác cảm, là thói quen thường nhật, hay
thuộc vào sự nhận thức
dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, thuộc nội tâm hay
bên ngoài, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay tuyệt diệu,
cách xa hay bên cạnh, thì
phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để
tự nhủ rằng: "Đấy không phải là của tôi, tôi không phải là
các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".
-Tóm lại, này các tỳ kheo, bất cứ những gì là tri thức,
dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội tâm hay ngoại
cảnh, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay tuyệt diệu, cách xa
hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ
không sai lầm để tự nhủ rằng: "Đấy không phải là của tôi, tôi
không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".
-Này các tỳ kheo, nếu biết nhìn mọi sự vật bằng cách như thế
thì một người đệ tử hiểu biết sẽ không còn bám víu vào thân
xác, không con bám víu vào giác cảm, không còn bám víu vào sự
nhận thức, không còn bám víu vào thói quen thường nhật, không
còn bám víu vào tri thức. Khi loại bỏ được chúng thì sẽ
không còn tham vọng nữa. Khi nào không còn bám víu nữa thì người
đệ tử ấy cũng sẽ tự giải thoát cho mình khỏi mọi dục vọng. Khi
đã tự giải thoát khỏi mọi dục vọng thì người đệ tử ấy cũng sẽ
chợt nhận ra rằng: "[Thế ra] sự giải thoát cũng
chính là như thế đấy!", và người đệ tử ấy cũng sẽ hiểu
được là: "Tất cả mọi sự tái sinh đã bị hủy diệt, chỉ có Con
đường Đạo hạnh tinh khiết là tồn tại, những gì phải chấm dứt đã
chấm dứt, không còn bất cứ gì lưu lại để chờ đợi được thực hiện,
không còn lại gì nữa để mà hình thành".
Tóm lại, đức Phật thị hiện giáo hóa chúng sinh, chuyển bánh xe
pháp cũng không ngoài mục đích muốn chúng sinh ngộ nhập Phật Tri
Kiến tức là thể nghiệm và sống được với chơn tâm của mình. Vì
thế Phật mới dạy rằng: ”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật
tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả chúng sinh,
ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Nhưng nếu
chúng sinh đều có Phật tánh thì tại sao đến nay chúng ta vẫn
chưa thành Phật? Cũng chỉ vì tâm của chúng sinh chất đầy vọng
tưởng, chấp trước. Vậy chúng ta chấp cái gì? Chấp “cái Ta”
tức là bản ngã và cái “của Ta” tức là ngã sở hữu cho nên
không buông bỏ được những hưởng thụ vật chất trong thế gian. Con
người luôn níu kéo, nắm bắt mãi, càng có thì càng chấp trước
thêm và ham thích hưởng thụ nên chưa thể thành Phật. Cho nên đức
Phật mới dạy rằng: “Do vọng tưởng và chấp trước mà tất cả
chúng sinh không thể chứng đắc, không thể thành Phật” là
vậy.
Trong phần thâm nhập Tri Kiến Phật, kinh Pháp Hoa đã hé mở cho
hành giả thấy được ánh sáng của Tri Kiến Phật bằng cách phải phá
tan cái đê ngũ uẩn. Vì vậy cốt lõi của kinh Pháp Hoa và cũng là
cứu cánh của phần thâm nhập là phá cho hết ngũ uẩn. Sắc uẩn cũng
phá, thọ uẩn cũng phá, tưởng uẩn cũng phá, hành uẩn cũng phá và
sau cùng thức uẩn cũng phá luôn. Một khi hành giả đã phá sạch
ngũ uẩn nghĩa là không còn chấp:
-Thân thể này không phải là tôi, là của tôi.
-Những cảm thọ sướng khổ cũng chẳng liên quan gì đến cái tôi.
-Cái tâm đang quán sát cũng không phải là linh hồn của tôi.
-Và tất cả những đối tượng của tâm như ý thức và hành thức cũng
không phải là của tôi.
Phá ngũ uẩn là phá chấp Ngã và chấp pháp tức là chứng đắc chân
lý Vô Ngã mà chính đức Phật đã chứng dưới cội Bồ Đề. Thế thì cái
Tri Kiến Phật mà kinh Pháp Hoa nói ở đây chính là trí tuệ Phật
tức là cái biết như thật về tánh Vô Ngã và lý Duyên Khởi của các
pháp. Cái biết như thật trong trí tuệ chánh niệm tỉnh giác là sự
thấy biết rốt ráo rõ ràng từ kinh nghiệm khắp toàn thân, tâm. Mà
cái thực tại Vô Ngã (No-self) chỉ có thể thành tựu qua công phu
thiền định và lúc đó lòng chấp thủ về chủ thể lẫn đối tượng sẽ
không còn hiện hữu. Một khi hành giả thực sự chứng nghiệm ngũ
uẩn là Vô ngã thì không còn chấp thủ ngũ uẩn là mình, là của
mình, hay là tự ngã của minh thì họ sẽ đạt đến đỉnh cao trí tuệ
ngang hàng với trí tuệ Phật mà kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến
Phật. Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Đây là đường vào giải
thoát, an vui, tự tại, Niết bàn.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Lê Sỹ Minh Tùng
∆ TOP |