Phẩm
PHƯƠNG TIỆN
Phương
là phương pháp và tiện là tiện dụng. Theo tiếng Phạn, phương
tiện là Upaya, có nghĩa là những phương pháp đem ra ứng dụng
tùy theo căn cơ, hoàn cảnh xã hội và trình độ của mọi chúng
sinh để thiết lập và giải quyết tạm thời mà đưa chúng sinh vào
con đường giải thoát giác ngộ tức là nghiệm chứng Chân lý. Mà
Chân lý chỉ có thể thực chứng chớ không thể diễn bày bằng ngôn
ngữ hay kinh điển,
vì thế giáo lý nhà Phật không có mục đích trình bày Chân lý mà
chỉ muốn dùng phương tiện để hướng dẫn người tu hành sáng suốt
để tự mình đạt đến cứu cánh tối thượng là chứng được Chân lý.
Một phương tiện cho dù thiện xảo tới đâu cũng không thể nào áp
dụng cho tất cả mọi trường hợp và cho tất cả mọi người vì thế
mà Đức Thế Tôn mới chế ra 84 ngàn pháp môn tức là 84 ngàn
phương tiện và cũng là 84 ngàn cánh cửa để đi vào căn nhà giác
ngộ. Chúng ta tham thiền, niệm Phật, trì chú, tu theo Tứ Diệu
đế, Thập nhị Nhân Duyên hay Lục độ ba-la-mật, tu nhà, tu chợ,
tu chùa …tất cả đều là phương tiện. Vì thế tất cả những phương
pháp tu trên thế gian nầy chỉ là phương tiện, những liều thuốc
nhiệm mầu giúp chúng sinh phá tan màng vô minh hắc ám mà thấy
được ánh sáng Chân Lý. Nhưng phương tiện không phải là cứu
cánh. Phương tiện là nhân mà cứu cánh mới là quả. Phương tiện
là giả mà cứu cánh là thật. Cái vô minh lớn nhất của con người
là chấp phương tiện với cứu cánh. Vì thế người tu Phật chỉ
nương theo phương tiện để đạt cứu cánh, nương theo ngón tay để
thấy mặt trăng. Nhưng đừng lầm phương tiện là cứu cánh, đừng
nhìn ngón tay mà quên đi mặt trăng và đừng chấp kinh điển là
Chân lý. Đừng nhìn vào ngón tay chỉ mặt trăng mà quên đi luồng
ánh sáng tuyệt vời phát xuất từ mặt trăng. Do đó khi đạt được
cứu cánh thì phải bỏ phương tiện, hết bệnh thì bỏ thuốc, tới bờ
thì phải bỏ chiếc bè để lên bờ giác ngộ chớ đừng vác bè lên vai
mà thêm nặng nhọc khổ đau.
Phẩm
Tựa đã trình bày nhân duyên của bộ kinh này. Sau phần nhân
duyên, kinh giới thiệu phẩm Phương tiện, là phẩm cương lĩnh nói
lên điều quan trọng, thiết yếu của kinh. Và sau đó, từ phẩm thứ
hai đến phẩm thứ chín sẽ bổ túc làm cho phẩm Phương tiện được
thấu hiểu nhiều hơn.
Bấy giờ
đức Thế Tôn xuất định bảo Xá-Lợi-Phất:
-Trí
tuệ của chư Phật sâu sa vô lượng, hàng Thanh Văn, Duyên Giác,
Bích-Chi-Phật không thể biết được. Bởi vì trí tuệ đó là kết quả
của quá trình gần gũi vô số chư Phật, tu hành vô lượng đạo pháp
viên mãn, dũng mãnh tinh tấn. Trí tuệ và sự hiểu biết sâu xa
chưa từng có của Phật, giáo hóa theo thời, tùy cơ nói pháp ý
nghĩa khó lường.
Trong
phẩm Tựa, đức Phật phóng hào quang, hiện điềm lành rồi nhập
chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ. Đến phẩm này, đức Phật nhận biết
căn cơ của thính chúng đã thuần thục nên Ngài mới xuất định để
nói thời pháp tối quan trọng mà Ngài đã ấp ủ suốt 40 năm. Vậy
nỗi niềm của Phật là gì? Sau khi Ngài thành đạo, Phật bắt đầu
nói tam tạng kinh điển theo thứ lớp nào là Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ tát thừa. Nhưng đấy chỉ là quyền, là phương tiện chớ
chưa phải là cứu cánh. Thế mà hàng Thanh Văn sau khi công phu
khổ hạnh, chứng đắc thánh quả A la hán thì cho rằng đã đạt đến
cứu cánh viên mãn nên trên chẳng cần cầu Phật đạo và dưới cũng
chẳng quan tâm đến độ chúng sinh nghĩa là lối tu hành như vậy
chỉ lợi mình mà chẳng lợi người. Cao hơn nữa, hàng Duyên Giác
tu theo giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên trở thành Bích Chi Phật
cũng thế. Các ngài cho rằng mục đích tối hậu để có giải thoát
Niết bàn đã thành tựu nên không có gì để học nữa. Đến thời điểm
này, Phật bắt đầu khai thị một tư tưởng hoàn toàn mới lạ đối
với họ chẳng khác nào như một tiếng sét đánh ngang tai làm mọi
người choáng váng. Sở dĩ đức Phật có trí tuệ siêu việt là vì
Ngài gần gũi với vô số chư Phật trong khắp mười phương thế giới
nên có cơ hội tu vô lượng pháp. Do đó đức Phật giáo hóa chúng
sinh tùy thời, tùy cơ nên không có chúng sinh nào mà không được
độ.
Xá-Lợi-Phất ! Sau khi thành Phật Như Lai vận dụng nói nhiều thí
dụ, phân tích các thứ nhân duyên, diễn bày nhiều ngôn giáo,
linh họat trong vô số phương tiện dẫn dắt chúng sanh khiến cho
xa lìa lòng chấp. Như Lai là bậc đầy đủ tri kiến và các
Ba-la-mật. Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa. Tứ vô-ngại
trí, thập trí-lực, tứ vô sở úy, thiền định, giải thoát tam-muội
sâu thẩm và mênh mông không ngằn mé.
Như Lai
tùy thời phân biệt khéo nói pháp, lời lẽ đẹp, đáp ứng sở
thích của nhiều hạng căn cơ.
Tri
kiến của Như Lai rộng có nghĩa là vô biên, lớn có nghĩa là vô
thượng, sâu có nghĩa là khôn lường và xa có nghĩa là thời gian
dài vô cùng vô tận trong đời tương lai.
Tứ Vô
Ngại Trí:
Dựa theo kinh Tăng Nhất A Hàm 21, kinh Đại Bát Niết bàn 15,
Luận Đại Trí Độ 25, Luận Thành Thật 16, Luận Du Già Sư Địa 45
và kinh Pháp Hoa Huyền Tán 3 thì Như Lai có tứ vô ngại trí
nghĩa là có pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại và lạc
thuyết vô ngại.
1)
Pháp vô
ngại:
Khi đã thành tựu trí tuệ thì nhìn vạn pháp thấy cái gì cũng
đúng với chân lý nên khi thuyết pháp biến tất cả các pháp trở
thành Phật pháp. Thí dụ như khi thấy lá rụng, tuyết rơi thì
nghĩ ngay đến sự tạm bợ, vô thường. Vì thế Lục Tổ nói rằng:
“Phật
pháp tại thế gian bất ly thế gian giác” là như vậy.
2)
Nghĩa
vô ngại:
là biết đúng nên nói đúng, nói chánh ngữ, đúng nghĩa, không sai
chân lý.
3)
Từ vô
ngại:
là lời nói trôi chảy, không ngăn ngại.
4)
Lạc
thuyết vô ngại:
là
càng nói càng thêm phấn khởi, dồi dào phong phú chớ không bao
giờ bị bế tắc.
Đứng về
phương diện ý thức, tư tưởng thì tứ vô ngại được gọi là tứ vô
ngại trí tức là do trí tuệ mà phát sinh ra bốn thứ vô ngại. Còn
dựa trên ngôn từ diễn đạt mà nói thì gọi là tứ vô ngại biện tức
là tứ vô ngại biện tài. Ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng không biết chữ
mà bất cứ kinh điển nào cũng có thể giảng giải được vì Ngài có
tứ vô ngại giải, nghĩa là đọc kinh, nghe kinh thì biết ngay ý
nghĩa mà khỏi cần nghiên cứu.
Thập
Trí Lực:
Dựa theo kinh Tạp A Hàm 26, kinh Hoa Nghiêm 17 phẩm Kiến Lập,
kinh Bồ tát Địa trì 10, Luận Câu Xá 27 và Luận Đại Tì-bà-xa 30
thì
Thập Trí Lực là đại uy lực, có công năng diệt
trừ oán địch, làm lợi ích cho loài hữu tình và rốt ráo chiến
thắng hàng phục được mọi ma oán. Mười trí lực của Như Lai, đó
là:
1)
Xứ phi
xứ trí lực:
Xứ nghĩa là đạo lý. Trí lực nầy giúp Như Lai biết một cách chắc
thật đối với tất cả nhân duyên quả báo do đó nếu tạo thiện
nghiệp thì biết nhất định sẽ được quả báo lành, thọ lãnh cái
vui. Đó là tri thị xứ.
2)
Tự nghiệp trí lực:
hay còn
gọi là
Nghiệp
dị thục trí lực.
Như Lai biết rõ nghiệp duyên, quả báo sinh xứ trong ba đời quá
khứ, hiện tại và vị lai của tất cả chúng sinh.
3)
Tĩnh lự
giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực:
Như Lai tự tại, vô ngại đối với các thiền định, biết khắp và
đúng như thật theo thứ tự từ cạn đến sâu.
4)
Căn
thắng liệt trí lực:
Như Lai biết đúng như thật các căn tánh thắng liệt. Đối với bậc
Trung thì gọi là Thắng còn đối với bậc Thượng thì gọi là Liệt.
Ngay cả những quả vị từ thấp đến cao, Như Lai cũng biết rõ.
5)
Chủng
chủng thắng giải trí lực:
Như Lai biết đúng như thật các thứ dục lạc, thiện ác khác nhau
của chúng sinh.
6)
Chủng
chủng giới trí lực:
Như Lai biết khắp và đúng như thật về các giới phần khác nhau
của chúng sinh ở thế gian.
7)
Biến
thú hành trí lực:
Như lai biết khắp và đúng như thật về nơi đến của hạnh hữu lậu
là lục đạo, nơi đến của hạnh vô lậu là Niết bàn.
8)
Túc trụ
tùy niệm trí lực:
Như Lai biết khắp và đúng như thật đối với các túc mạng, một
đời cho đến trăm nghìn muôn kiếp, chết đây sinh kia, chết kia
sinh đây, khổ vui thọ mạng.
9)
Sinh tử
trí lực:
Như Lai dùng thiên nhãn biết đúng như thật về thời gian sinh tử
của chúng sinh và cõi thiện cõi ác ở đời vị lai, cho đến các
nghiệp duyên thiện ác như đẹp xấu, giàu nghèo.
10)
Lậu tận
trí lực:
Như Lai đã đoạn hẳn các tập khí tàn dư vĩnh viễn chẳng còn sinh
khởi. Như Lai biết khắp và đúng như thật.
Tứ Vô
Sở Úy:
Dựa theo Luận Đại Trí Độ, Luận Thành Thật. Tạp A tì đàm Tâm
luận, Luận Du-Già Sư Địa, Đại Thừa Nghĩa Chương 19 và Thuyết Vô
Cấu Xứng Kinh Sớ thì
Tứ vô sở úy là bốn sự tự tin , không sợ hãi,
dũng mãnh và an ổn của Phật khi thuyết pháp. Dựa theo kinh Tăng
Nhất A hàm 19, 42 thì
Tứ Vô Úy của Phật gồm có:
1)
Chư
pháp hiện đẳng giác vô úy:
Đối với các pháp đều giác biết, trụ trong chánh kiến, không khuất
phục điều gì và có sự tự tin không sợ hãi.
2)
Nhất
thiết lậu tận trí vô úy:
Đoạn hết tất cả phiền não nên không có sự sợ hãi từ các chướng
nạn bên ngoài.
3)
Chướng
pháp bất hư quyết định thọ ký vô úy:
Nói rộng về pháp tu hành chướng ngại, đồng thời không sợ hãi
đối với bất cứ một sự bắt bẻ nào.
4)
Vị
chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tánh vô úy:
Giảng nói đạo xuất thế không hề sợ hãi điều gì.
Thí dụ
kinh dạy rằng: “Thế tôn tự xưng là đấng Chánh đẳng chánh giác”.
Thế mà khi có vị Tỳ kheo từ phương xa đến thì Phật thường hỏi
thăm rằng: “Trụ có an lạc không? Hay là Khất thực có được
không?”. Trong đám Tỳ kheo có người liền đặt câu vấn nạn rằng:
“ Nếu Phật là bậc Chánh đẳng Chánh giác thì việc gì chẳng biết,
thế mà nay lại hỏi người khác, sao lại có chuyện trái ngược như
vậy?”. Phật mới trả lời rằng: “Sở dĩ ta hỏi là vì để chinh phục
kẻ đến khiến họ phát tâm thắng trội, nghe Phật thăm hỏi sẽ phát
Bồ-đề tâm. Làm thế để mọi người thấy rằng Phật biết mà còn hỏi,
huống hồ những người khác chẳng biết”. Do đó đối với Phật thấy
người đến phát tâm thì dẫn nhiếp, thăm hỏi chớ chẳng phải là
Phật chẳng biết. Vì thế Như Lai đối với những lời vấn nạn này
vì có chánh kiến nên không nao núng, được an lạc trụ. Dù gặp
vấn nạn, đối phó với những kẻ dị tâm mà Như Lai vẫn thanh thản,
tự tại và không hề hoảng sợ, thật xứng đáng với vô sở úy.
Một thí
dụ khác là Tỳ kheo Thiên Thụ thường làm các việc ác nên bị Phật
mắng mỏ. Ngược lại Chấp Nhật thường làm những điều tốt nên được
Phật tán thán ngợi khen, nói lời yêm dịu. Thấy thế có kẻ vấn
nạn rằng Phật tự xưng phiền não đã dứt, các lậu đã tận thế mà
lại mắng mỏ nặng lời với Thiên Thụ và dịu dàng với Chấp Nhật
tức là tham sân chưa dứt thì làm sao các lậu tận được? Đối với
Phật, Thiên Thụ ví như con ngựa ác, phải đánh đau mới điều phục
được. Nếu chẳng quát mắng thì y lại nói là “sợ ta”. Còn Chấp
Nhật cũng như con voi tinh khôn biết chiều theo lòng người nên
chỉ nói ngọt là thuần phục được ngay. Thế thì Phật chẳng phải
là còn có tham sân và lậu chẳng hết.
Thiền
định
trong
Phật giáo là tỉnh lự, là suy tư, là Xam-ma-tha để chặn đứng tất
cả vọng niệm không cần thiết. Còn những chân lý trong cuộc đời
đòi hỏi sự tư duy thẩm chiếu để thấu biết tận cùng rốt ráo vì
thế Phật giáo mới dạy tư duy tu để giúp hành giả tư duy tỉnh lự
mà tự mình tìm ra ánh sáng chân lý của sự vật hiện tượng. Ngày
xưa Đức Phật thiền định dưới cội Bồ-đề liên tiếp trong suốt 49
ngày đêm thì Ngài mới hoát nhiên đại ngộ. Có suy tư, thẩm lự
mới thấy được ánh sáng nhiệm mầu. Từ nhận thức được chân lý đó
giúp con người sống theo chân lý, sống đúng với chân lý và sống
phù hợp với chân lý.
Thiền
có tứ thiền
là:
1)
Sơ
thiền
tức là ly sanh hỷ lạc.
Nếu
chúng sinh biết lìa xa những tham vọng, những đòi hỏi quá đáng
trong cuộc đời thì tâm họ bắt đầu thư giản, nhẹ nhàng mà thiền
gia gọi là có niềm vui. Vì thế hành giả tu theo sơ thiền sẽ làm
cho tâm dần dần biết viễn ly, xa lìa những
trói buộc của
ngã và ngã
sở khiến cho những căn bản phiền não tham sân si cũng dần dần
tan biến. Càng viễn ly thì cường độ tham sân si càng giảm khiến
cho thân tâm nhẹ nhàng thanh thoát khinh an tự tại. Do đó nếu
muốn có sự an lạc thì phải chấp nhận viễn ly. Viễn ly càng
nhiều sự trói buộc thì tâm càng nhẹ nhàng thanh thoát đến khi
viễn ly tất cả, tâm không còn dính mắc, không còn gì trói buộc
thì chứng được sơ thiền
và thời điểm đó
hành giả có được sự
hỷ lạc.
2)
Nhị
thiền
tức là định sinh hỷ lạc.
Hành
giả sau khi vượt qua viễn ly tức là đến đây thì họ đã bỏ hết
tất cả những ngoại duyên, nên họ có thể chú tâm để quán về một
đối tượng sở quán nào đó. Thí dụ hành giả bây giờ xoay về quán
vô thường để thấy biết rằng thân là vô thường, cảnh cũng vô
thường và tất cả vật thể hữu vi đều là vô thường. Từ quán vô
thường rốt ráo đó đưa hành giả trở về viễn ly, xa lìa không
dính mắc tức là trở về lại với sơ thiền. Đến đây hành giả thấy
thấu suốt được chân lý vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh của thế
gian. Nói cách
khác
hành giả dùng những đối tượng vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh
để quán và sau cùng thấy biết được bằng chính tri kiến của mình
do sức công phu thiền định, quán chiếu thì thời điểm này hành
giả chứng nhập những chân lý đó mà không phải cần qua sách vở
nữa. Do đó nhị thiền là do sức công phu tu tập định tâm mà sinh
ra hỷ lạc.
3)
Tam
thiền:
tức là ly hỷ diệu lạc.
Tại
sao? Mặc dù hành giả vượt qua sơ thiền tức là đã viễn ly thập
triền, thập sử và nhờ vào định quán chiếu của nhị thiền để thấu
biết chân lý rốt ráo mà có hỷ lạc. Nhưng nếu hành giả còn dính
mắc vào sự hỷ lạc tức là tâm vẫn còn đam mê thì có thể bị sai
lầm. Do đó sau khi rời sơ thiền, nhị thiền để có hỷ lạc, nhưng
cũng đừng đam mê cái hỷ lạc đó mà tâm tham phát khởi trở lại
làm xóa sạch những viễn ly, tu định mà hành giả đã trì công tu
tập lúc ban đầu. Hành giả phải sáng suốt thức tỉnh để biết rằng
Hỷ lạc là kết quả của những viễn ly tham đắm dục tình mà có chớ
không có gì đặc biệt. Thí dụ như có ly nước đục, nếu để yên thì
ly nước sẽ trong tức là những vẫn đục lắng xuống, đó là bình
thường chớ không có chi mừng cả.
Do đó
nếu hiểu rằng hỷ lạc là kết quả của những viễn ly tham đắm dục
tình và khả năng vào định mà có, tuy có hỷ lạc nhưng đừng đam
mê vào nó vì nó đến rồi tự nó lại đi thì đạt được tam thiền.
Khi bỏ được cái vui mừng này thì hành giả chợt cảm nhận một nỗi
vui mầu nhiệm khác. Đó là sự diệu lạc thanh thoát khó diễn tả
được vì thế tam thiền mới được gọi là “ly hỷ diệu lạc” là vậy.
Hành giả thường có cảm giác tam thiền là vui hơn hết (diệu lạc)
vì ở các cõi dưới thì chỉ biết những cái vui thô động, còn ở
các cõi trên thì chỉ còn là tịch tịnh, không còn vui nữa.
4)
Tứ
thiền:
tức là
xả niệm thanh tịnh địa.
Ở ba
cấp thiền ở dưới, hành giả có hỷ lạc nhưng tâm đừng chấp thủ để
bắt đầu thực hành xả bỏ. Hành giả vào được tầng thiền này thì
tâm hồn nhẹ nhàng thanh thoát vì đã xả bỏ hết tất cả những ý
niệm làm khởi tâm bất tịnh. Đây chính là lúc thực hành chánh
niệm rốt ráo vì chỉ còn giữ lại trong tâm niệm thanh tịnh trong
sáng hoàn toàn còn tất cả những ý niệm khác xả bỏ hết. Đến đây
hành giả không còn chấp thị phi phải quấy, không còn quan trọng
giàu nghèo, địa vị quan tước, không tranh giành đố kỵ vì chả có
gì để chấp thủ, để quan tâm, để lụy phiền cho nên không buồn,
không giận, không say đắm và dĩ nhiên không còn lo lắng. Tóm
lại, khi còn ở tam thiền hành giả tuy đã dứt hết cái vui thô
động của sơ thiền và Nhị thiền, nhưng vẫn còn cái vui mầu nhiệm
(diệu lạc). Nhưng hễ còn niệm vui thì tâm chưa hoàn toàn thanh
tịnh. Bây giờ hành giả phải xả hết cái niệm vui thì thời điểm
đó tâm trở thành hoàn toàn thanh tịnh.
Ngày
xưa trước khi thành đạo, đức Phật có thọ giáo với hai vị thầy
là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Ngài đã thực tập rất thành
công pháp tu định gọi là Tứ Vô Sắc Định gồm có Không vô biên
xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng
xứ. Mặc dù chứng đạt đến chỗ tột cùng của bốn tầng định trên,
nhưng đức Phật xác định rằng những định này không đưa đến sự
giải thoát và giác ngộ cho nên đức Phật từ bỏ và tự tìm cho
mình con đường giải thoát khác. Điều này đã được xác định rất
rõ ràng trong nhiều kinh điển. Sau khi chứng được tứ thiền,
hành giả có thể (nếu muốn vì không cần thiết) đi vào Tứ không
định, có nghĩa là khi vào bốn cái yên tịnh nầy thì hành giả
sẽ không còn thấy có cảnh hay tâm thức nữa.
Tứ
không định
gồm có:
-Không
vô biên xứ:
Hành giả quán tưởng trống không, tức là từ trống không nhỏ tới
trống không lớn và dần dần đến vô cùng vô tận.
-Thức
vô biên xứ:
Bây giờ hành giả bỏ cái không đó mà quay lại quán thức phân
biệt của mình. Biết thức phân biệt không có tướng mạo, từ phân
biệt thân đến phân biệt tâm và dần dần ra khắp hết vô cùng vô
tận.
-Vô sở
hữu xứ:
sau đó tưởng thân tâm không có gì hết, rỗng tếch không chỗ nơi
thì chứng được.
-Phi
tưởng phi phi tưởng:
Dù hành giả tưởng thân tâm là rỗng tếch, nhưng đây vẫn là
tưởng. Sau cùng tiến lên đến chỗ không có tưởng mà không phải
không tưởng.
Đến đây
không còn tưởng thô, tưởng không, tưởng thức mà chỉ có tưởng vi
tế, tức là tưởng rỗng tếch. Còn cái tưởng đó cũng phải bỏ mới
qua Diệt Tận Định. Diệt Tận Định là ở trong định mà hành giả
không có cảm thọ và không có tri giác nữa tức là không có sự
hiện diện của thọ và tưởng.
Khi
hành giả dùng Chỉ (xam-ma-tha) (định) và Quán (trí tuệ) để
chứng được tứ
thiền thì họ có thể đi thẳng vào Diệt Tận Định (Diệt Thọ Tưởng
Định) mà chứng được thanh tịnh Niết bàn và trở thành bậc A la
hán. Ở trong Diệt Tận Định, hành giả bắt đầu tịnh khẩu, tịnh
thân, tịnh ý và sau cùng là tịnh hơi thở. Người vào trong định
này thì hơi thở không còn, nhưng sức nóng trong người vẫn còn
và dĩ nhiên tất cả các căn vẫn trong sáng. Khi xuất Diệt Tận
Định thì ý hành phát khởi trước nhất, rồi đến thân hành và sau
cùng khẩu hành mới tác động. Cái khác nhau giữa người đi vào
Diệt Tận Định và người chết là người đi vào định này cũng chấm
dứt hơi thở, thân thể bất động, miệng không còn nói, nhưng hơi
ấm vẫn còn nên không chết.
Trong
Đại Trí Độ Luận có nói năm loại âm thanh từ miệng Phật nói ra
là:
-Một là
rất sâu như tiếng sấm.
-Hai là
trong trẻo vang xa, ai nghe cũng ưa thích.
-Ba là
nhập tâm, kính ái.
-Bốn là
rạch ròi dễ hiểu.
-Năm
là người nghe không chán, phân biệt được các nghĩa hữu lậu, vô
lậu...
Đức
Phật dùng đủ thứ trí, đủ thứ phương tiện, nói rộng nói hẹp, nói
quyền nói thật, nói lời lẽ êm diệu không ngoài mục đích đem đến
sự lợi ích cho quần sanh khắp cả. Nhắc lại một lần nọ, Lục Tổ
thấy hai vị tăng đang tranh chấp về gió thổi là phướng động.
Một ông cho là gió động. Ông kia lại cho là là phướng động. Lúc
đó Huệ Năng mới giải thích rằng chẳng phải gió động, cũng chẳng
phải là phướng động mà chính là tâm của hai ông động. Khi
tâm mình định thì thế giới bên ngoài an định. Ngược lại tâm
mình không định thì nhìn thế giới bên ngoài chao đảo chông
chênh. Tại sao? Bởi vì tâm định thì mình làm chủ tâm mình,
không chạy theo vọng trần sinh diệt bên ngoài. Ngược lại, tâm
không định thì mình mời khách trần phiền não bên ngoài vào cho
nên thế giới thay đổi, biến chuyển thì tâm mình cũng thay đổi
theo tức thì.
Tất cả
giáo lý Như Lai giảng dạy bao nhiêu năm đưa hàng Thanh Văn vào
vòng Thánh giả, chứng đắc quả vị A la hán, hàng Duyên Giác trở
thành Bích Chi Phật có giải thoát Niết bàn thế mà trong hải hội
Pháp Hoa, đức Phật phủ nhận, phủi bỏ hết. Ở đây, đức Phật chỉ
phủi bỏ danh ngôn, cái chấp có chứng đắc, nhưng Ngài không phủ
nhận cái chứng đắc từng phần của các vị Thanh Văn, Duyên Giác.
Vì thế, để phá những chấp trước mê lầm này, đức Phật khẳng định
rằng không có cái gì gọi là chứng đắc; không có Khổ, Tập, Diệt,
Đạo; không có Vô minh cũng không có cái hết Vô minh; không có
trí tuệ cũng không có chứng đắc…Tóm lại, những gì Như lai dạy
từ trước đến giờ chỉ là giáo lý phương tiện chớ không phải là
chân lý. Vậy chân lý mà Phật muốn nói ở đây là gì? Đó là cứu
cánh tối thượng của người tu là thành Phật chớ không phải thành
Thanh Văn, Duyên Giác hay thành Bồ tát. Vì thế Phật nói kinh
Pháp Hoa này là do một đại sự nhân duyên lớn mà Như Lai thị
hiện ở thế gian để khai thị cho chúng sinh biết rằng ai ai cũng
có thể trở thành Phật vì trong họ đã có sẵn Phật tánh rồi. Có
thể nói kinh Pháp Hoa nâng cao nhân phẩm của con người lên tới
chỗ tột đỉnh vì tất cả mọi người cùng chung bản thể, cùng có
Phật tánh như nhau. Đây là tư tưởng đặc thù của Pháp Hoa. Bởi
vì hàng Thanh Văn chấp mình chứng đắc A la hán, hàng Duyên Giác
chấp mình chứng đắc Bích Chi Phật, nhưng dựa theo tinh thần
Pháp Hoa thì sự chứng đắc chẳng qua là giả danh để chỉ cho hành
giả đang đi trên con đường Vô Thượng Bồ đề biết là con đường
đến Phật quả còn bao xa. Thí dụ A la hán là Hóa thành tức là họ
đi được 50%, Bích Chi Phật thì xa hơn một chút khoảng 60-70%
cho đến khi thành Phật thì được 100% tức là Bảo sở vậy. Mới
nghe qua, tư tưởng Pháp Hoa xóa bỏ hết những ước mơ chứng đắc
của tất cả mọi người, nhưng kỳ thật không có xóa bỏ gì hết.
Chẳng những không xóa bỏ mà còn giúp hành giả phá cái cố chấp
cho rằng chứng đắc là thật có. Ở đây, không có gì là chứng đắc
cả. Ngay cả khi thành Phật là trở về với Căn Bản Trí đã có sẵn
trong ta chớ không phải khi thành Phật mới có. Cái thành tựu
duy nhất là hành giả phá tan màn vô minh thì lúc ấy Nhất Thiết
Trí, Vô Sư Trí, Căn Bản Trí hiện bày thế thôi.
Phật
lại dạy tiếp:
Nhưng,
thôi đi! Xá-Lợi-Phất! Không cần nói nữa!
Bởi vì
pháp ít có và khó hiểu bậc nhất mà Phật có, pháp đó chỉ có Phật
với Phật mới hiểu biết thấu tột “Thật tướng”. Rằng:
Các
pháp có
·
Tướng
của nó như vậy.
·
Tánh
của nó như vậy.
·
Thể của
nó như vậy.
·
Lực của
nó như vậy.
·
Tác của
nó như vậy.
·
Nhơn
của nó như vậy.
·
Duyên
của nó như vậy.
·
Quả của
nó như vậy.
·
Báo của
nó như vậy.
·
Và từ
đầu chí cuối của nó như vậy.
Đệ tử Phật có hai hàng Pháp khí: Chân là các Tôn giả Xá Lợi
Phất…và Giả là ám chỉ hạng Tăng tượng mạn. Đối với hạng Chân
Pháp khí, tâm thánh đã đầy đủ, thích nghe diệu pháp nên tuy
nghe Phật nói “Thôi
đi! Không cần nói nữa” khiến họ nài xin vì họ
nghĩ rằng Phật không cần nói nữa là Phật không muốn nói những
pháp nào? Ngược lại, đối với hạng Giả pháp khí thì họ tự cho
mình là tâm thánh đã đầy đủ, nhưng vẫn ngồi đó
cho
đến khi nghe Phật bảo “Thôi
đi! Không cần nói nữa” khiến họ đứng lên bỏ đi.
Tại sao họ lại bỏ đi? Bởi vì họ nghĩ rằng tất cả các pháp giải
thoát họ đều chứng được cả rồi cho nên chẳng còn pháp gì quan
trọng để nghe Phật nói cả.
Tại sao
Phật chẳng muốn nói nữa? Bởi vì kinh Pháp Hoa rất thâm sâu
huyền diệu, không phải ai nghe cũng tin, cũng hiểu được. Chẳng
những không hiểu, chúng sinh còn sinh tâm nghi ngờ phỉ báng mà
tạo nghiệp. Cho nên đức Phật im lặng, chẳng nói pháp ít có khó
tin vì chỉ có Phật với Phật mới thấu triệt thật tướng của các
pháp là vô tướng. Trước hết, đức Phật giới thiệu một giáo lý
hoàn toàn mới lạ để đưa các vị Thanh Văn, Duyên Giác có một cái
nhìn, một nhận định chính xác về tánh “Như Thị” tức là
“Như Vậy” của vạn pháp. Thập Như Thị là tinh hoa, là giáo lý
rất thâm sâu của kinh Pháp Hoa bởi vì chỉ có Phật với Phật mới
có khả năng thấy biết cùng tận thật tướng của các pháp. Đó là
các pháp đều có như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như
thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả,
như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh đẳng nghĩa là thật tướng
của tất cả các pháp có đầy đủ 10 như thị. Thí dụ Như thị tướng
(Tướng như vậy) nghĩa là hình tướng của vạn pháp như thế nào
chúng ta chỉ nên thấy biết như thế ấy, đừng thêm, đừng bớt,
đừng cộng ngã kiến vào thì chúng ta nhìn đúng “Như Thị Tướng”.
Do đó khi nhìn đóa hoa thì biết là đóa hoa, đừng cho là hoa
đẹp, hoa xấu, hoa tươi hay hoa héo…
Tóm lại, trong Thập Như Thị là:
1)Như thị tướng: Tất cả các vật thể trên thế gian này đều phải
có sắc tướng.
2)Như thị tánh: Đã có sắc tướng thì phải có bản tánh.
3)Như thị thể: Có bản tánh thì phải có chất thể.
4)Như thị lực: Một khi vật chất có chất thể thì chắc chắn nó sẽ
có năng lực.
5)Như thị tác: Có năng lực rồi thì nó sẽ tạo ra nhiều chức năng
khác nhau.
6)Như thị nhân: Không có một hiện tượng vật chất hay tinh thần
nào trên thế gian này có thể hiện hữu trên thế gian này một
cách tự nhiên được. Vì thế cái gì cũng phải có nguyên nhân để
phát sinh ra.
7)Như thị duyên: Một hạt cải nếu không có những trợ duyên như
nước, phân bón, ánh sáng mặt trời…thì vĩnh viễn nó không bao
giờ thành cây cải được.
8)Như thị quả: Nhân gặp duyên thì sẽ thành quả.
9)Như thị báo: Một kết quả không những chỉ tạo ra một hiện
tượng mà nó còn lưu lại một tồn dư nào đó. Thấy một bà già qua
đường (duyên), chúng ta đến để dìu bà ta (nhân). Nhờ đó mà bà
già đi qua được an toàn (quả). Nhưng sau đó chúng ta cảm thấy
lòng được hân hoan vì vừa làm mọt việc thiện thế thì cái cảm
giác tốt chính là báo từ quả mà có.
10)Như thị bản mạt cứu cánh đẳng: Tất cả vạn pháp trong thế
gian này lúc nào liên hệ, tương tục với nhau, làm nhân làm
duyên làm quả cho nhau nên rất khó mà khẳng định cái nào là
nhân, cái nào là quả. Tuy thế, chúng luôn vận hành dựa theo quy
luật “Thập như thị” đó là từ đầu cho đến cuối đều hướng về một
thật tướng và cứu cánh bình đẳng.
Con người vì không nhìn vạn pháp bằng “Như Thị” mà nhìn bằng
những phạm trù đối đãi phân biệt cho nên mới sinh ra phải quấy,
thương ghét, tốt xấu, thân sơ, vui mừng buồn giận…Nếu nhìn vạn
pháp bằng tánh “Như Thị” thì đó là lối nhìn theo Tri Kiến Vô
Kiến. Ngược lại nếu con người dựa theo thiển kiến chủ quan của
mình mà nhìn vạn pháp thì chắc chắn họ sẽ đánh mất tánh “Như
Thị” cho nên lối nhìn này chính là Tri Kiến Lập Tri có thể đưa
con người đến những nhận định không chính xác, sai lầm, thiếu
hoàn hảo.
Vì thế kinh Lăng Nghiêm có dạy rằng:
Nghĩa là nếu con người lấy sự thấy biết bên ngoài đem vào tâm
làm tâm phát khởi sự phân biệt khiến tham-sân-si dấy khởi thì
đây là căn nguyên của vô minh. Còn thấy biết thì cái gì cũng
thấy biết, nhưng không đem vào tâm thì thấy biết mà cũng như
không thấy biết gì hết nên tâm hằng thanh tịnh thì đây chính là
Niết bàn vậy.
Bấy giờ
có một số Thanh Văn, Duyên Giác, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cận Sự
Nam, Cận Sự Nữ, những người phát tâm tiểu thừa đều có cùng ý
nghĩa rằng: Lạ thật! Cớ chi hôm nay đức Phật tán thán pháp của
Phật chứng đắc cao sâu, khó nghe, khó hiểu...nào là Như Lai
phương tiện nói pháp khéo léo, hàng Thanh Văn, Duyên Giác không
thể hiểu được...!
Tại sao
Như Lai nói thế! Từ lâu đức Phật dạy chúng ta pháp tu giải
thoát, chúng ta đã chứng đắc Niết Bàn rồi. Cớ chi hôm nay đức
Phật như có ý chê trách những điều tu học và chứng đắc của hàng
Thanh Văn, Duyên Giác bấy lâu nay!
Từ khi
đức Phật thành đạo đến nay, Phật dạy giáo lý Tứ Diệu Đế cho
hàng Thanh Văn, thuyết 12 Nhân Duyên cho hàng Duyên Giác tinh
tấn tu hành có được giải thoát chứng đắc Niết bàn trở thành
thánh giả A la hán và Bích Chi Phật. Thế mà hôm nay Phật lại
tán thán pháp của Phật mới cao siêu, tuyệt diệu, không thể dùng
trí tuệ của hàng Thanh Văn hay Duyên Giác suy lường mà hiểu
được. Tại sao Phật lại nói các pháp đó chẳng phải là cứu cánh,
chẳng triệt để, tột cùng chẳng qua là quyền pháp chớ
chẳng phải là thật pháp, chỉ là quyền trí chớ chẳng phải
là thật trí? Lẽ nào pháp của Phật nói trước kia là sai hay sao?
Pháp mà Phật nói bây giờ mới đúng chăng? Nếu là sai thì tại sao
đại chúng lại tu chứng và đắc quả? Nếu pháp Phật nói nước kia
không đúng như thế thì quả vị tu chứng lẽ nào cũng đều là giả
chăng?
Ông
Xá-Lợi-Phất cảm thông ý của đại chúng cũng như nỗi lòng hoang
mang của chính mình, bèn thưa hỏi Phật:
-Bạch
Thế Tôn! Nhân duyên gì hôm nay Thế Tôn ngợi khen pháp
phương tiện nhiệm mầu sâu xa khó hiểu của chư Phật? Hiện giờ
bổn chúng có lòng nghi, xin Như Lai dạy rõ cho về duyên cớ ấy!
Tất cả
đại chúng đều hoang mang vì câu nói của Phật. Bởi vì hàng Thanh
Văn và Duyên Giác đã thực hành rốt ráo những gì cần thiết để có
giải thoát và chứng đắc Thánh quả cho nên đối với họ đây là
những giáo lý tối thượng mà đức Phật đã giảng dạy và chính họ
đã thành tựu viên mãn. Vì thế, Tôn giả Xá Lợi Phất là bậc trí
tuệ bậc nhất biết đại chúng nghi ngờ nên thưa hỏi Phật lý do gì
Phật lại tán thán những phương tiện sâu xa nhiệm mầu khó hiểu
như vậy. Việc đó như thế nào? Xin Phật hãy giải bày.
Phật
bảo:
-Xá-Lợi-Phất!
Thôi! Thôi đi! Đừng hỏi việc đó. Nói việc đó ra thì tất cả
người, trời, A-tu-la ở trong đời đều sẽ kinh sợ và nghi ngờ,
không tốt.
Bạch
Thế Tôn! Ông Xá-Lợi-Phất thưa, xin Thế Tôn nói cho. Trong hải
hội này có người lãnh hội được lời dạy của Phật và có thể đủ
sức kính tin.
Ở đây,
pháp mà Phật muốn nói thì không thể nói, rất khó nói. Tại sao
pháp Phật nói ra sẽ làm cho người, trời, A tu la khắp đều kinh
sợ, nghi ngờ? Giáo lý Phật Đà thì gọi là Khế kinh nghĩa là trên
thì khế (phù hợp) với lý của chư Phật và dưới thì hợp với căn
cơ của chúng sinh. Thí dụ Phật dạy chư ác mạc tác, chúng
thiện phụng hành là khế cơ nghĩa là nên làm lành lánh ác thì sẽ
có phước thiện. Nhưng trong kinh Pháp Hoa này ở chương sau có
phẩm Đề Bà Đạt Đa là người phạm tội ngũ nghịch mà vẫn được Phật
thọ ký và sẽ thành Phật. Nghe qua thì không phù hợp với đạo lý
làm người (không hợp với khế cơ), nhưng đứng về mặt chân lý thì
bất cứ ai cũng đều có Phật tánh cho dù kẻ đó là người đại ác.
Vì có Phật tánh nên trước sau có ngày họ cũng sẽ thành Phật.
Đây là khế lý vậy. Do đó khế lý thường đối nghịch với khế cơ vì
thế Phật không muốn nói là ở chỗ nầy.
Tuy
Phật không muốn nói, nhưng ngài Xá lợi Phất nài nỉ khẩn cầu đức
Phật nhất định phải nói. Đây là thỉnh pháp vì có thỉnh Phật mới
diễn nói diệu pháp. Hy vọng đức Thế Tôn hãy vì chúng sinh nói
pháp huyền diệu này chớ đừng do dự.
Đức
Phật lại khuyên ngăn:
-Rằng
nếu nói việc đó thì người, trời, a-tu-la đều kinh nghi, Tỳ
kheo, tăng-thượng-mạn sẽ sa vào hầm tội lỗi.
Tỳ kheo
tăng thượng mạn là những người cho rằng pháp gì họ cũng đều
hiểu biết hết nên dễ sinh tâm kiêu mạn. Tăng thượng mạn cũng có
nghĩa là chưa thực chứng quả vị Vô thượng Bồ đề mà nghĩ rằng
mình đã chứng rồi. Dựa theo tư tưởng Đại thừa thì quả A la hán
chưa phải là cứu cánh, chỉ là hóa thành chứ chưa phải là đã
thành tựu bảo sở tức là đạt đến Phật quả viên mãn. Vì là những
người tăng thượng mạn như thế cho dù là pháp thâm sâu vi diệu
khó lường của Phật thì họ cũng chẳng cung kính tin nhận.
Ông
Xá-Lợi-Phất lại ân cần cầu thỉnh xin Phật rủ lòng thương...
Sau ba
lần cầu thỉnh thiết tha của ông Xá-lợi-phất, đức Phật vừa hứa
khả, tức thì trong hải hội có các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
cận-sự-nam, cận-sự-nữ, cả thảy năm ngàn người đứng dậy bái Phật
xin được rút lui.
Sau ba
lần tha thiết thỉnh cầu Phật thuyết giảng pháp vi diệu thậm
thâm cuả Tôn giả Xá Lợi Phất, đức Phật chấp nhận nói kinh Pháp
Hoa. Khi nghe Phật đồng ý nói kinh thì trong pháp hội có năm
ngàn Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ bèn từ chỗ ngồi
đứng dậy, lễ Phật mà lui đi. Cả đời đức Phật ôm ấp một hoài bảo
là muốn đem một giáo lý cao siêu vi diệu để truyền lại cho đệ
tử mình, nhưng không vì thế mà ai ai cũng nhiệt tình đón nhận.
Đây là một bài học rất đáng giá vì cho dù đạo Phật đưa con
người đến chỗ giải thoát giác ngộ, nhưng không phải ai cũng
nghe, cũng tin, cũng thực hành được. Vì thế người học Phật là
người phải có chủng tử Phật pháp đã gieo trồng nhiều đời nhiều
kiếp vậy. Không biết chúng ta ngày nay có phải là những người
trong số năm ngàn người ngày xưa đã rời bỏ pháp hội hay không
mà mãi trên 2500 năm sau mới được nghe kinh Pháp Hoa?
Tóm
lại, khi Phật nói kinh Pháp Hoa có năm ngàn trong số 12.000 đệ
tử bỏ đi.
Đây là
nhìn từ góc độ “Sự Tướng” mà nói rằng trong hàng đệ tử Phật có
hai hàng Pháp khí: Một là Chân gồm các vị tưởng lão như Xá Lợi
Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na…Hai là hàng Tăng thượng mạn
nghĩa là hạng người tự cho rằng đã chứng ngộ đầy đủ nên không
cần học hỏi thêm. Nhưng bây giờ nếu nhìn theo “Lý Tánh” thì
không có năm ngàn, bốn ngàn hay bất cứ vị Tỳ kheo nào bỏ đi
hết. Mà thâm ý của kinh khi đưa ra con số 5.000 là kinh muốn
dùng con số năm để ám chỉ cho ngũ uẩn. Tại sao? Bởi vì một
người khi đã chứng đắc quả A la hán thì tất cả các chủng tử hữu
lậu đã tan biến và trong họ chỉ còn chủng tử vô lậu nghĩa là
tất cả phiền não khổ đau và những nguyên nhân đưa đến phiền não
khổ đau
cũng không còn. Đó là các ngài đã chứng chân lý Vô Ngã nghĩa là
trong họ không hề có “Cái
Ta” hay “Cái
của Ta”. Trong thì Ngã không, ngoài thì Pháp
không, trong ngoài tự tại thì làm gì còn chấp? Con người vì tin
chắc rằng thân mình là thật, là Ta, là của Ta và là sở hữu của
Ta, sống giữ chết mang theo cho nên có sống chết, tranh đấu để
bảo vệ Ta và cái của Ta vì thế mới có phiền não, khổ đau. Do
vậy hạng tăng thượng mạn là những người còn chấp Ngã, ngũ uẩn
che lấp chấp ngã nên thấy mình là thật và thế gian vũ trụ là
thật nên bám víu,
chấp thủ và dĩ nhiên làm nô lệ cho phiền não vô minh. Vì vậy
hạng tăng thượng mạn là những người còn chấp Ngã tức là còn
sống trong vô minh bất giác, chơn tánh bị che mờ nên không thấy
được Phật. Phật mà kinh nói ở đây không phải là Phật Thích Ca
Mâu Ni mà chính là chơn tâm, Phật tánh, là Tri Kiến Phật hằng
sáng của mình.
Nhưng
Tâm Kinh dạy rằng “ngũ uẩn giai không” nghĩa là trong ngũ uẩn
chỉ là sự vay mượn, kết hợp bởi “Duyên Khởi” cho nên mỗi uẩn là
vô ngã và dĩ nhiên ngũ uẩn phải là vô ngã. Mà đã là vô ngã, tạm
bợ, nay có mai không thì cái gì là Ta hay của Ta?
Trong
phần phẩm Tựa có câu “Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán 12.000
người, các vị đó đều là A la hán, các lậu đã hết, không còn
phiền não”. Như vậy kinh đã xác định các vị A la
hán đều diệt hết các lậu hoặc và phiền não nên làm gì còn chấp
Ngã hay tăng thượng mạn. Thêm nữa kinh dùng con số 12.000 vị A
la hán cũng là ẩn dụ. Tại sao? 12.000 là kinh muốn ám chỉ con
số 12 bởi vì 12 là biểu trưng cho sáu căn và sáu trần, không có
sáu thức. Bình thường thập bát giới là sáu căn, sáu trần và sáu
thức là thế giới của chúng sinh còn sống trong điên đão khổ đau
bởi vì căn tiếp xúc với trần liền sinh thức để phân biệt rồi
bám chặt vào thức nên vọng tưởng phát sinh. Nhưng ở đây các vị
A la hán đã dứt hết lậu hoặc nên tuy căn có tiếp xúc với cảnh
(trần) mà vẫn như như bất động tức là thức không sanh. Đó là
mắt thấy sắc mà không bị sắc mê hoặc, tai nghe âm thanh mà
không bị tiếng thị phi phải quấy chi phối…nghĩa là kiến sắc phi
can sắc, văn thanh bất nhiễm thanh…
Đức Thế
Tôn an nhiên, không ngăn cản và bảo ông Xá-Lợi-Phất:
-Rằng
trong đại chúng giờ đây không còn những trái đèo hạt lép
mà chỉ còn toàn trái tốt và hạt chắc.
-Xá-Lợi-Phất! Những hạng người tăng thượng mạn như vậy, lui đi
vẫn tốt. Vậy ông lắng ý mà nghe, Như Lai sẽ nói về sự
nhiệm mầu khó nghe, khó hiểu. Và Như Lai cũng nói cho ông biết
lý do của sự có mặt của Như Lai trong cõi đời này.
-Này!
Xá-Lợi-Phất! Pháp mầu sâu thẩm của chư Phật, đúng thời mới đem
ra nói. Như hoa Linh Thoại đến thời tiết mới trổ một lần.
-Xá-Lợi-Phất! Chư Phật thuyết pháp phải đúng thời, tùy đối
tượng, hợp căn cơ cho nên mỗi người, mỗi lúc khác nhau.
Vì vậy, pháp của chư Phật nói khó nghe, khó hiểu, vì ý thú rất
nhiệm mầu, Chư Như Lai vận dụng vô số phương tiện, giảng nhiều
cách, dẫn nhiều tỉ dụ, thay đổi ngôn từ, lời lẽ khéo đẹp, đáp
ứng cho mọi hạng người. Vì vậy mà pháp Phật nói không thể suy
lường phân biệt hời hợt thông thường mà có thể hiểu được. Chỉ
có Phật và Phật mới thấu hiểu hết ý của nhau.
Tuy năm
ngàn người rời pháp hội, nhưng đức Phật không hề khuyên họ ở
lại mà Ngài im lặng để họ ra đi. Đạo Phật là đạo tùy duyên cho
nên năm ngàn người rời pháp hội là những người không có duyên
được nghe kinh Pháp Hoa. Còn những người còn lại đều là những
hạt giống tốt, những chủng tử lành sẵn sàng đón nhận những giọt
mưa thậm thâm vi diệu từ đức Phật để sinh chồi nẩy nhánh và sau
cùng kết hoa tươi thắm. Mặc dù giáo pháp Phật sắp nói ra mầu
nhiệm vô cùng, nhưng chính đức Phật cũng phải đợi đến đúng
thời, đúng lúc thì Ngài mới đem ra chia xẻ với chúng sinh được.
Cũng như hoa Linh Thoại đến lúc nở thì nó mới nở chớ không thể
nở sớm hơn được và nó chỉ nở trong thời gian rất ngắn thì tàn
cho nên loại hoa này rất trân quý hiếm có. Giáo pháp quá vi
diệu Phật phải đợi gần 40 năm từ khi thành đạo mới có cơ hội
đem ra thuyết giảng cho đại chúng. Pháp này không thể dùng tâm
thức để phân biệt suy lường mà thấu hiểu được mà chỉ có Phật
với Phật mới biết được pháp này.
-Xá-Lợi-Phất ơi! Ông làm sao hiểu được cái lý do cực kỳ quan
trọng mà các đức Phật xuất hiện ở đời!
-Nầy!
Xá-Lợi-Phất! Như Lai xuất hiện ở đời nhằm:
Mở bài
và giới thiệu “ Tri Kiến Phật ” của chúng sanh
Vận
dụng ngôn từ, tỷ dụ, khéo léo để “chỉ” Tri Kiến Phật của chúng
sanh cho chúng sanh biết.
Hướng
dẫn cho chúng sanh “Hiểu Kỹ ” về Tri Kiến Phật của mình.
Khuyến
cáo, khích lệ cho chúng sanh sống bằng Tri Kiến Phật mà mình
vốn có.
Đó là
cái lý do cực kỳ quan trọng mà chư Phật Như Lai xuất hiện ở cõi
đời. Mục đích của chư Phật ra đời chỉ vì một việc: Đem Tri Kiến
Phật chỉ dạy cho chúng sanh tỏ ngộ đấy mà thôi!
“Tri”
là chỉ có ý thức, còn chữ “kiến” là chỉ cho nhãn thức. Tuy Phật
nói Tri Kiến tức là thấy biết, nhưng thật ra nó đã bao gồm toàn
bộ: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý
thức. Tuy chúng sinh có tướng trạng khác nhau, tánh nết khác
nhau, nghiệp báo nặng nhẹ khác nhau, nhưng tất cả đều có cái
thấy, cái nghe, cái nếm, cái ngửi, cái xúc, cái biết giống y
như Phật. Cái tri kiến của chúng sinh và của Phật Thích Ca
hay của mười phương chư Phật vốn thanh tịnh đều giống hệt như
nhau nên mới gọi là tri kiến Phật. Thế mà từ vô thỉ đến nay
chúng sinh không hề hay biết chính mình cũng có tri kiến Phật
nên không sống đúng với cái tri kiến thanh tịnh này mà sống
bằng tri kiến điên đảo của phàm nhân. Cái tri kiến của chúng
sinh cũng sử dụng cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái
xúc, cái biết nhưng lại nương vào mừng, giận, thương, sợ, yêu,
ghét, muốn, tham, sân, si, mạn, nghi, phẩn, hận, phú, não, tật,
san…nên cuộc sống thiếu thăng bằng, làm nô lệ cho phiền não vô
minh. Do đó hằng ngày thay vì sử dụng tri kiến Phật thanh tịnh
của mình thì con người sử dụng tri kiến lập tri. Mà tri kiến
lập tri tức vô minh bổn nghĩa là nếu con người lấy sự thấy biết
bên ngoài đem vào tâm làm tâm phát khởi sự phân biệt khiến
tham-sân-si dấy khởi thì đây là căn nguyên của vô minh. Còn
sống với tri kiến Phật tức là tri kiến vô kiến mà tri kiến vô
kiến tư tức Niết bàn nghĩa là thấy biết thì cái gì cũng thấy
biết, nhưng không đem vào tâm thì tuy thấy biết tất cả mà cũng
như không thấy biết gì hết nên tâm hằng thanh tịnh thì đây
chính là Niết bàn vậy.
Nói
cách khác tất cả những căn bản và tùy phiền não cũng phát xuất
từ tri kiến lập tri. Trong khi đó chư Phật cũng có tri kiến như
tất cả chúng sinh, nhưng tri kiến của Phật là tri kiến vô kiến
tư tức Niết bàn nghĩa là tri kiến mà không cộng thêm phân biệt,
chấp ngã tướng, chấp nhơn tướng, chấp chúng sinh tướng, chấp
thọ giả tướng. Nói tóm lại, những quan niệm về chấp ngã, chấp
pháp đã được đức Phật dẹp bỏ hết.
Thế thì
đại sự nhân duyên lớn mà đức Phật xuất hiện ở đời là muốn chỉ
cho chúng sinh biết chính họ cũng có cái tri kiến Phật giống y
như Ngài vậy. Đến đây, đức Phật chính thức công bố cho đại
chúng biết lý do tại sao Ngài thị hiện trên thế gian này. Đó
là: “Phật
vi nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế”
nghĩa là Phật chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.
Nhưng Phật muốn nói nhân duyên gì? Đó là “Khai
thị chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến”. Khai có
nghĩa là mở ra cho nên Khai Phật tri kiến là mở kho tàng tri
kiến của Phật ra. Thị tức là chỉ cho thấy cho nên Thị Phật tri
kiến tức là chỉ cho chúng sinh thấy cái kho tri kiến của Phật.
Ngộ tức là bừng tỉnh mà thấy được một sự thật (chân lý) nào
đó. Sau cùng Nhập là đi vào, là chứng nghiệm chớ không phải chỉ
đứng bên ngoài mà nhìn vào mà phải chính mình nghiệm chứng sự
thật đó. Do đó câu “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”
có nghĩa là Phật muốn đem cái thấy biết của mình mà chỉ cho tất
cả chúng sinh thấy để họ cũng có thể tỏ ngộ được như Phật.
Đức
Phật thị hiện giáo hóa chúng sinh, chuyển bánh xe pháp cũng
không ngoài mục đích muốn chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến tức
là thể nghiệm và sống được với chơn tâm của mình. Vì thế Phật
mới dạy rằng: “Nhất
thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật”
nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh,
đều có thể thành Phật. Nhưng nếu chúng sinh đều có Phật tánh
thì tại sao đến nay chúng ta vẫn chưa thành Phật? Cũng chỉ vì
tâm của chúng sinh chất đầy vọng tưởng, chấp trước. Vậy chúng
ta chấp cái gì? Chấp “cái
ta” tức là bản ngã và cái “của
ta” tức là ngã sở hữu cho nên không buông bỏ
được những hưởng thụ vật chất trong thế gian. Con người luôn
níu kéo, nắm bắt mãi, càng có thì càng chấp trước thêm và ham
thích hưởng thụ nên chưa thể thành Phật. Cho nên đức Phật mới
dạy rằng: “Do
vọng tưởng và chấp trước mà tất cả chúng sinh không thể chứng
đắc, không thể thành Phật” là vậy.
Thế nào
là sống bằng tri kiến Phật vốn sẵn có của mình?
Tri
kiến Phật trong kinh Pháp Hoa này tức là chơn tâm thường trú
của kinh Lăng Nghiêm. Hằng ngày chúng sinh không sử dụng cái
chơn tâm thường trú của mình mà họ chỉ sử dụng vọng tâm sinh
diệt chẳng khác nào mình chỉ biết “khách” mà không biết “chủ”.
Khách thì có đến rồi đi, chỉ có chủ mới ở lại. Chơn tâm, Phật
tánh hay tri kiến Phật lúc nào cũng ở với chúng ta tức là chủ
mà con người lại bỏ quên nó. Trong khi vọng tâm sinh diệt là
khách trần mà con người lại chú ý đến nên biến cuộc sống thanh
tịnh thành điên đão khổ đau. Khi những hiện tượng như mừng,
giận, yêu, ghét, thân, sơ, muốn, bỏ, hơn, thua, phải, quấy,
tốt, xấu…
xuất
hiện thì cái tâm ấy không phải là chơn tâm mà chỉ là những
khách trần phiền não. Khi không còn sự phân biệt đối đãi trong
tâm thức tức là những phạm trù đối đãi nhị nguyên biến mất thì
con người sẽ sống với thực tại, với tánh giác hằng sáng của
mình thì đây mới chính là bản tâm của ta tức là sống với ông
chủ vậy.
Tâm
thanh tịnh không có nghĩa là tâm đứng lặng, không nghĩ ngợi,
không làm gì hết. Tâm thanh tịnh là trạng thái tự tại được biểu
hiện qua thân, khẩu, ý đúng như Chánh pháp.
1)
Thân: Chánh niệm cho ta biết những việc làm nào đi ngược với
chơn tánh, trái với đạo lý thì không làm. Ngược lại nên làm
việc gì có lợi cho mình, lợi cho người.
2)
Khẩu: Chánh niệm cho ta biết lời nói nào là nói dối, nói lưỡi
hai chiều, nói lời độc ác…
thì đừng nên nói. Ngược lại nên nói đúng, nói ái ngữ, nói điều
thiện, nói lời lợi mình lợi người.
3)
Ý: Tâm thanh tịnh không có nghĩa là vô niệm, không có nghĩ gì
hết. Mà vô niệm ở đây là Chánh niệm tức là con người còn sống
là còn tư duy nhưng chỉ nghĩ về thiện, suy tư về việc lợi mình,
lợi người, lợi cho tất cả.
Tóm
lại, nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện tức là thân khẩu ý đều
làm thiện cho nên tuy thân khẩu ý vẫn hoạt động, vẫn nói năng,
vẫn tư duy mà vẫn là thanh tịnh. Ngày xưa đức Phật Thích Ca vẫn
đi, đứng, nằm, ngồi vẫn nói năng bình thường, nhưng thân khẩu ý
là biểu hiện từ trí tuệ trong sáng của Ngài nên tất cả đều là
thiện, là tốt đấy chứ.
Đức
Phật vì có nhất thiết trí, công đức vô lượng, đại bi, trí tuệ
được tự tại, trong định được tự tại, biến hóa tự tại. Nói chung
đức Phật có mười tám pháp gọi là Thập Bát Bất Cộng Pháp nên
thân, khẩu, ý của Ngài lúc nào cũng tự tại, Ngài làm tất cả
nhưng không có lỗi lầm.
Dựa
theo kinh Đại Phẩm Bát Nhã 5, phẩm Quảng Thừa thì
Thập Bát Bất Cộng Pháp của đức Phật gồm có:
1)
Thân vô
thất:
Đức Phật từ vô lượng kiếp đến nay luôn giữ giới thanh tịnh,
công đức đầy đủ, tất cả phiền não đều dứt cho nên thân không
lỗi (làm điều sai quấy).
2)
Khẩu vô
thất:
Phật có vô lượng trí tuệ biện tài cho nên pháp do Ngài nói ra
tùy theo căn cơ của chúng sinh khiến cho họ đều được chứng ngộ.
3)
Niệm vô
thất:
Phật tu các thiền định sâu xa, tâm không tán loạn, tâm không
đắm nhiễm các pháp, được sự an ổn đệ nhất nghĩa.
4)
Vô dị
tưởng:
Phật bình đẳng hóa độ tất cả chúng sinh, tâm không chọn lựa.
5)
Vô bất
định tâm:
Mọi hành động đi, đứng, nằm, ngồi của Phật thường không lìa
thắng định sâu xa, nhiếp trụ trong thiện pháp, không thoái thất
thật tướng các pháp.
6)
Vô bất
tri dĩ xả tâm:
Đối với các thọ như khổ, vui…trí tuệ Phật biết rằng tướng sinh,
trụ, dị, diệt trong từng niệm và trụ trong sự vắng lặng bình
đẳng.
7)
Dục vô
giảm:
Phật có đầy đủ thiện hạnh nên luôn muốn hóa độ tất cả chúng
sinh không bao giờ chán bỏ.
8)
Tinh
tấn vô giảm:
Thân tâm của Phật đều tinh tấn, và độ chúng sinh nên thường làm
các phương tiện, không dừng nghĩ.
9)
Niệm vô
giảm:
Pháp và tất cả trí tuệ của chư Phật ba đời đều tương ưng, không
thoái chuyển.
10)
Huệ vô
giảm:
Phật có tất cả trí tuệ và trí tuệ này vô ngại đối với ba đời
cho nên không bao giờ khuyết giảm.
11)
Giải
thoát vô giảm:
Phật xa lìa tất cả chấp trước, có đủ hữu vi giải thoát và vô vi
giải thoát. Tất cả tập khí phiền não thảy đều dứt sạch cho nên
đối với giải thoát không khuyết giảm.
12)
Giải
thoát tri kiến vô giảm:
Phật thấy biết rõ ràng các tướng giải thoát, không bị che
chướng.
13)
Tất cả
thân nghiệp tùy trí tuệ mà thực hành.
14)
Tất cả
khẩu nghiệp tùy trí tuệ mà nói năng.
15)
Tất cả
ý nghiệp tùy trí tuệ mà tư duy.
Ba pháp
này là ứng dụng khi Phật khởi 3 nghiệp thân, khẩu, ý. Trước hết
Phật suy nghĩ đúng, rồi nói và hành động theo trí tuệ cho nên
Phật
không có lỗi lầm bởi vì tất cả việc làm của Phật đều làm lợi
ích cho chúng sinh.
16)
Trí tuệ
thấy
biết quá khứ vô ngại, vô chướng.
17)
Trí tuệ
thấy
biết vị lai vô ngại vô chướng.
18)
Trí tuệ
thấy
biết hiện tại vô ngại vô chướng.
Thế thì
đức Phật Thích Ca vẫn cứ đi, đứng, nằm, ngồi vẫn nói vẫn tư duy
bình thường chỉ có điều là thân vô thất, khẩu vô thất và ý vô
thất nghĩa là thân không hề có lỗi, ý không hề có lỗi và khẩu
không hề có lỗi và dĩ nhiên thân nghiệp tùy theo trí tuệ mà
thực hành, khẩu nghiệp tùy theo trí tuệ mà nói năng và ý nghiệp
cũng tùy theo trí tuệ mà tư duy. Nói cách khác thân khẩu ý đều
là động cơ phát xuất từ trí tuệ cho nên đức Phật thân vẫn hoạt
động, miệng cứ nói và ý cứ tư duy mà lúc nào Ngài cũng an nhiên
tự tại đấy chứ. Vậy thập bát bất cộng pháp là tiêu chuẩn của
đấng Vô Thượng Bồ đề cho nên hằng ngày đức Phật vẫn nói vẫn làm
vẫn suy nghĩ chớ không phải là khi thành Phật thì không làm,
không nói năng, không suy nghĩ tức là biến thành vô niệm vô
sanh tức là trở thành gổ đá hay sao?
Con
người có mặt trên thế gian này được xem là một sinh vật tối
linh với đầy đủ lục căn mắt, tai, mũi,
lưởi,
thân và ý để tiếp nhận và giao cảm với thế giới bên ngoài là
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp để phát hiện tất cả những ý
tưởng
của
cuộc đời. Bây giờ nếu chúng ta ngồi thiền, niệm Phật để biến
con người thành vô tri, vô giác không còn ý niệm (vô niệm) thì
con người bây giờ có khác gì những người máy, tượng gổ hay cục
đá. Nhưng người máy, cục đá thì bao giờ thành Phật?
Thiền
định trong Phật giáo là tỉnh lự, là suy tư, là Xam-ma-tha để
chặn đứng tất cả vọng niệm không cần thiết. Còn những chân lý
trong cuộc đời đòi hỏi sự tư duy thẩm chiếu để thấu biết tận
cùng rốt ráo vì thế Phật giáo mới dạy tư duy tu để giúp hành
giả tư duy tỉnh lự mà tự mình tìm ra ánh sáng chân lý của sự
vật hiện tượng. Ngày xưa đức Phật thiền định dưới cội Bồ-đề
liên tiếp trong suốt 49 ngày thì Ngài mới hoát nhiên đại ngộ.
Có suy tư, thẩm lự mới thấy được ánh sáng nhiệm mầu. Từ nhận
thức được chân lý đó giúp con người sống theo chân lý, sống
đúng với chân lý và sống phù hợp với chân lý. Thật vậy, từ đức
Thế Tôn đến các vị A la hán,
các Ngài hằng ngày vẫn có niệm, có sinh hoạt chớ đâu có vô
niệm, vô sanh.
Các Ngài vẫn đi, đứng, nằm, ngồi mà vẫn là Như Lai vô thượng
Bồ-đề, vẫn là A la hán đó chứ. Nếu đức Phật tịnh khẩu thì làm
sao chúng sinh có được giáo pháp như ngày nay
và nếu Ngài tịnh thân thì làm sao Phật giáo được xiễn dương
khắp nọi nơi ở Ấn Độ?
Trong
kinh Niệm Xứ (Satipatthnasutta) Đức Phật dạy rằng:
-Này
các Tỳ kheo! Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho
chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh
tri, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ.
Nhưng
thế nào là Tứ Niệm Xứ? Đức Phật dạy tiếp rằng:
-Này
các Tỳ kheo! Ở đây Tỳ kheo sống “quán
thân”
trên
thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở
đời; sống “quán
thọ”
trên
các thọ, nhiệt tâm tỉnh giác; chánh niệm để chế ngự tham ưu ở
đời; sống “quán
tâm”
trên
tâm, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời;
sống “quán
pháp”
trên
các pháp, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở
đời.
Nói
chung trong phần này Phật dạy chánh niệm để đối trị với những
tâm hành sinh diệt, nhưng cốt tủy vẫn đưa chúng sinh đến một
cứu cánh tột đỉnh là thức tỉnh tức là “BIẾT”.
Vậy biết cái gì? Khi tâm tham phát khởi là biết có tham, không
tham thì cũng biết trong tâm không có tham. Sân và si cũng vậy.
Nói cách khác khi lục căn tiếp xúc với sắc thanh hương vị xúc
pháp thì vọng tâm dấy khởi. Ở đây đức Phật dạy chúng sinh thực
hành chánh niệm để biết rốt ráo tận cùng những biến đổi của tâm
mà không cần phải tiêu diệt chúng. Thí dụ thấy tiền nhiều tâm
tham liền nổi dậy, nhưng nếu có chánh niệm thì biết ngay sự
hiện hữu hình thành trạng thái tham của tâm cho nên tâm tham
bây giờ không còn tác động hoành hành được nữa. Nói cách khác,
bất cứ một ý niệm vừa khởi lên, chánh niệm cho ta “biết” đó là
vọng tưởng. Khi đã biết bộ mặt thật của ý thức thì con người
chỉ cần không theo vọng thì vọng tự mất mà không cần phải tiêu
diệt chúng. Nói cách khác, không theo vọng, vọng tự tiêu tan
tức là mê biến thì thời điểm đó giác tự hiển bày.
Tóm
lại, Phật ra đời dạy chúng sinh sống với tri kiến Phật của mình
để chuyển khổ đắc lạc và liễu sinh thoát tử. Nếu con người
không chạy theo vô minh bất giác làm nô lệ cho vật chất giả tạm
mà sống theo chơn tánh hằng sáng thanh tịnh của mình thì đời
này làm gì còn khổ, thế gian này sẽ trở thành cực lạc thanh
tịnh Niết bàn. Giáo lý đức Phật rất thực tế và sự nhiệm mầu ở
đây không phải là cầu nguyện van xin để Phật cho cái này thưởng
cái kia vì có van xin cầu nguyện cách mấy Phật cũng chẳng có
cái gì để cho. Sự huyền diệu là ở cách thực hành, sự hiểu biết
rốt ráo để ứng dụng nó vào trong cuộc đời mà lìa khổ đắc lạc.
Cái lạc tối thiểu là có hạnh phúc cho chính bản thân và cho gia
đình mình và cái lạc tối đa là sống đúng với “Tri Kiến Phật” để
có được Vô thượng Bồ đề Niết bàn giống như chư Phật vậy.
Phật
dạy tiếp rằng:
-Chư
Phật Như Lai nói pháp cho chúng sanh chỉ vì dạy cho họ một “
Phật thừa” chớ không có hai thừa, ba thừa nào khác.
Pháp
của chư Phật trong mười phương cũng đều như vậy. Chư Phật trong
quá khứ, chư Phật hiện tại cũng như chư Phật vị lai vận dụng vô
số phương tiện, triển khai nhiều cách, ngôn từ khéo léo, thí dụ
dồi dào, nhưng tất cả nhằm dạy cho chúng sanh “một Phật
thừa” khiến cho những chúng sanh tu hành đều đạt thành “Nhất
thiết chủng trí ”.
Dựa
theo tinh thần Pháp Hoa, tu là để thành Phật cho đến mười
phương chư Phật chỉ có một thừa duy nhất là Phật thừa chớ không
còn Thanh văn thừa, Duyên Giác thừa hay Bồ tát thừa nữa. Thanh
Văn thừa, Duyên Giác thừa hay Bồ tát thừa chỉ là phương tiện,
là những bước trên con đường hướng về giải thoát giác ngộ.
Nhưng sau cùng cứu cánh đức Phật muốn nói ở đây vẫn là Phật
thừa để hướng dẫn chúng sinh sớm viên thành Phật đạo tức là
thành Phật.
Trong
Phật giáo sự phát triển của trí tuệ tùy theo khả năng nhận biết
chân tướng của nhân sinh vũ trụ. Do đó:
1)
Đối với phàm nhân thì họ nhìn cuộc đời, thế gian vũ trụ bằng
nhục nhãn tức là bằng đôi mắt thịt nghĩa là cái gì có hình sắc,
kích thước, âm thanh, mùi vị…thì họ cho là thật. Họ tin thân
mình là thật nên còn chấp ngã, tin thế gian vũ trụ là thật nên
còn chấp pháp. Vì còn chấp ngã, chấp pháp nên tham-sân-si, mạn
nghi, tà kiến phát tác mà tạo ra nghiệp để phải chịu quả khổ
đời đời.
2)
Nhất Thiết Trí: Các vị Thanh văn không nhìn đời bằng nhục nhãn
như phàm nhân mà họ nhìn thế gian bằng Pháp nhãn. Họ thấy thân
mình là không thật, là tạm bợ, là dơ dáy, là cội nguồn của
những nỗi khổ nên họ cố tu để chứng đắc sự an lạc của Niết bàn
và tìm sự giải thoát quả vị Bồ-đề. Chẳng những nhìn thân mình
không thật mà họ còn nhìn cả thế gian vũ trụ cũng không thật
nên chán ngán cuộc đời và tránh xa bụi trần ô nhiễm. Vì thế đối
với hàng Thanh văn thì chấp ngã không còn tức là họ đã đạt được
Ngã Không, nhưng vì còn thấy có pháp môn để tu, có Niết bàn để
chứng, có đạo quả Bồ-đề để đắc nên họ vẫn còn chấp Pháp tức là
Pháp có. Cho nên cái trí tuệ của họ không phải là trí tuệ giải
thoát tự tại mà vẫn còn dính mắc của Pháp nên trí tuệ nầy là
Nhất Thiết Trí.
3)
Đạo Chủng Trí: Đối với các vị Bồ-tát thì họ nhìn thế gian vũ
trụ bằng Tuệ nhãn tức là họ hành thâm bát nhã ba-la-mật để thấy
rằng ngũ uẩn giai không. Dưới mắt của họ thì thế gian vũ trụ là
do duyên khởi tạo thành nên tất cả đều là giả huyễn, là không
thật, là Không. Vì ta là giả, là không thật nên họ có ngã
không. Ta không thật thì người và thế gian vạn vật cũng không
thật nên họ có pháp không. Nói một cách tổng quát dưới mắt của
Bồ-tát thì thế gian vũ trụ là Không. Mặc dù biết thế gian là
Không, nhưng Bồ-tát vẫn còn chấp cái Không nên tâm không được
hoàn toàn tự tại và trí tuệ chưa hoàn toàn sáng suốt triệt để
nên cái trí tuệ nầy gọi là Đạo Chủng Trí.
4)
Nhất Thiết Chủng Trí: Hàng Thanh văn thì chấp Pháp có và các vị
Bồ-tát thì vẫn còn chấp Không. Nếu bây giờ bỏ được chấp Pháp có
và chấp Không tức là không còn chấp có pháp môn để tu, có Niết
bàn để chứng, có quả vị Bồ-đề để thành và không còn chấp thế
gian vũ trụ là Không thì có được trí tuệ viên mãn, dung thông
tự tại mà nhà Phật gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết
Chủng Trí thì thấy vạn pháp là Có nhưng không phải là Có thật,
còn Không nhưng không phải là không của cái trống không. Vì vạn
pháp do nhân duyên hòa hợp nên vạn pháp sanh và khi nhân duyên
tan rã chia ly thì vạn pháp diệt. Thế thì vạn pháp do nhân
duyên hòa hợp nên sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà
người được Nhất Thiết Chủng Trí thì luôn luôn tự tại trước sự
sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng vạn pháp nên không cần phải
tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng không cần phủ nhận tất cả
như các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn pháp nầy có mà không phải có
thật. Mặc dầu không phải có thật mà hiện giờ nó vẫn có vì thế
nên người có Nhất Thiết Chủng Trí làm bất cứ cái gì cần làm để
giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù chúng sinh là không có
thật. Đây chính con đường trung đạo dung thông giữa cái Có và
cái Không và chỉ có Phật mới đạt được cái trí tuệ nầy.
-Xá-Lợi-Phất! Chư Phật giáo hóa Bồ tát vì muốn đem Tri Kiến
Phật “chỉ” cho chúng sanh, muốn cho chúng sanh tỏ ngộ, hiểu kỹ
về Tri Kiến Phật và thể nhập, sống trong Tri Kiến Phật của
chính mình. Tất cả cõi nước trong mười phương không có hai thừa
làm gì có đến ba! Tại vì chúng sanh sống trong đời đầy năm
trược ác mà chư Phật dùng sức phương tiện ở một Phật thừa phân
biệt tạm nói có ba.
-Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu, thọ trì lời dạy
của Phật. Lời của chư Phật không hề có hư vọng. Rằng không có
thừa nào khác, mà chỉ có một “Phật
thừa” thôi!
Con
người trong thế gian này không phải là nguyên do của tội lỗi
xấu xa bởi vì trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có tri
kiến Phật (kinh Pháp Hoa), Phật tánh (kinh Đại Niết bàn), Như
Lai viên giác diệu tâm (kinh Viên Giác), chơn tâm thường trú và
thể tánh tịnh minh (kinh Lăng Nghiêm). Vì thế Phật mới dạy rằng
: ”Nhất
thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật”
nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh,
đều có khả năng thành Phật. Cũng ví như ly nước vốn tinh khiết
trong sạch, nhưng vì bị bụi bặm làm nước vẫn đục. Ngũ trược nơi
tự tâm cũng vậy. Tánh giác diệu minh vốn thanh tịnh, thường
trụ, không thay đổi. Ngược lại, vọng tưởng bản chất là giả dối,
sinh diệt, thay đổi. Nhưng chúng sinh vì không giác ngộ được
bản tâm của chính mình mà chạy theo vọng tưởng để cho vọng
tưởng chiếm mất tâm mình nên mới sinh ra ngũ trược mà làm nhơ,
vẩn đục tâm tánh của con người.
Vậy năm
thứ vẩn đục đó ảnh hưởng con người như thế nào?
1) Kiếp
trược:
Kiếp
tức là thời gian. Bổn lai của thời gian chẳng tồn tại, nhưng do
tâm con người phân biệt nên mới có quá khứ, hiện tại và vị lai
cho nên gọi là kiếp. Trược là dơ bẫn, là bất tịnh. Vì con người
chạy theo vọng niệm điên đão nên phải xoay vần trong sinh tử.
Nói cách khác tâm thể của chúng sinh tức là tánh giác diệu minh
vốn trong sáng và hòa nhập vào hư không mười phương thế giới.
Nhưng trong cái diệu minh đó lại phát sinh ra sự phân biệt để
nhận biết tất cả các tướng ở bên ngoài hư không tức là năng
minh. Sự thâu nhập các cảnh giới bên ngoài thì gọi là sở minh.
Nói cách khác, khi con người lầm lẫn chạy theo những vọng niệm
bên ngoài tức là sở minh để chuyển năng minh bên trong của mình
mà có sự phân biệt để tạo nghiệp và tự trói mình trong sinh tử
khổ đau. Một khi tâm thể khởi sự phân biệt thì nó không còn
thanh tịnh, diệu minh như lúc ban đầu vì thế vọng khởi tâm phân
biệt chính là kiếp trược.
2) Kiến trược:
Kiến
trược tức là năm lợi sử: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến,
Giới cấm thủ kiến và tà kiến. Kiến đại thì bao la trùm khắp
pháp giới, nơi nào cũng có thể thấy được. Nếu kiến đại tác động
vào mắt thì có tánh thấy, vào tai thì có tánh nghe, vào mũi thì
có tánh ngửi, vào lưỡi thì có tánh nếm, vào thân thì có tánh
cảm xúc. Xét cho cùng kiến đại là bao la vô cùng vô tận, nhưng
khi nó tác động vào thân tứ đại của con người liền bị hạn chế,
không còn thấy vô cùng vô tận được nữa. Vì thế tánh thấy lẽ ra
phải thanh tịnh bản nhiên trùm khắp mười phương thế giới, nhưng
khi nó tác động vào thân tứ đại liền bị chia sẻ làm giới hạn
tánh thấy thì đây gọi là “kiến trược”. Do đó tánh thấy của con
người rất bị hạn chế trong kiến,
tri tức là thấy, biết mà cảm thấy hiểu biết. Vì thế khi chúng
sinh đạt được tâm thanh tịnh để quay trở về sống với tự tánh
thanh tịnh bản nhiên thì tánh thấy bây giờ sẽ trở thành vô cùng
vô tận, không còn bị tướng ngũ uẩn ngăn ngại.
3) Phiền não trược:
Phiền
não trược tức là năm thứ độn sử: Tham, sân, si, mạn, nghi. Đây
là gốc rễ của mọi phiền não.
Tri
kiến của chúng sinh là tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh
nếm, tánh xúc và tánh biết được biểu hiện qua lục trần tức là
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thí dụ tự thể của con mắt đâu
có tội lỗi xấu xa gì, nhưng khi mắt thấy nhà đẹp, xe sang, tiền
nhiều thì tâm phát sinh lòng tham dục muốn chiếm lấy. Năm căn
còn lại thì cũng thế. Tai nghe lời ngọt dịu thì mê, nghe ai
chửi thì buồn, thì giận. Mũi ngửi hương thơm thì thích, say đắm
còn ngửi mùi hôi thúi thì buồn phiền, chửi rủa. Lưỡi nếm mùi vị
ngon thì tham đắm muốn ăn thêm còn nếm mùi cay đắng thì đâm ra
chán ghét. Nói chung con người khi tiếp xúc với lục trần thì hễ
cái gì bằng lòng thì an vui, tham đắm. Còn cái không bằng lòng,
bất toại ý thì đâm ra bất mãn. Do đó tri giác (sáu căn) và lục
trần tác dụng vào nhau mà phát sinh ra “phiền não trược”. Đây
là nói trên phương diện tục đế sinh diệt của thế gian, nhưng
đối với các bậc thánh như các vị A la hán và Đức Phật thì mắt,
tai, mủi, lưỡi, thân và ý của các Ngài vẫn còn đó như tất cả
chúng sinh. Nhưng tri giác của các Ngài không còn tác động vào
sáu trần nên phiền não không còn quấy phá được vì thế các Ngài
mới có thanh tịnh Niết bàn, thần thông tự tại là vậy. Nói cách
khác khi chúng sinh đã trở về sống với chơn tâm thường trú, thể
tánh tịnh minh, tri kiến Phật hay Như Lai viên giác diệu tâm
của chính mình rồi thì sáu căn, sáu trần không còn là nguyên
nhân để gây ra phiền não khổ đau.
4) Chúng sinh trược:
Chúng
sinh có đủ thứ nhân duyên thiện ác xen tạp cho nên mỗi chúng
sinh đều có nghiệp ác đặc biệt riêng của họ. Vì phải mang theo
ác nghiệp nên chúng sinh cũng ô trược. Con người vì phải chịu
theo sự tiến hóa của thế gian nên thân tâm lúc nào cũng thay
đổi. Thân thì ảnh hưởng bởi luật vô thường: sinh, trụ, dị, diệt
tức là sinh, lão, bệnh, tử. Còn tâm thì chuyển biến theo lý vô
ngã. Vì thế mà thân tâm con người luôn sinh diệt từng giây từng
phút. Nhưng con người lại không đồng ý như vậy mà tri kiến của
họ lúc nào cũng muốn sống lâu, sống thọ. Tuy con người gắn bó
với cái thân tứ đại sinh diệt, với cái ý thức hay biết của mình
và trong mong sống mãi như thế, nhưng con người hễ có sinh tất
phải có diệt nên họ phải nương theo quả báo mà thọ sinh vào
những đời sau. Sống thì phải chết, nhưng con người chết mà vẫn
luyến tiếc mãi cái sống nên hết thân này lại tái sinh thân khác
theo nghiệp báo mà xoay vần mãi mãi trong lục đạo luân hồi. Nói
cách khác khi tâm chúng sinh đã khởi sự phân biệt thì nó liền
đắm say cảnh sắc bên ngoài nên tâm muốn gồm thâu cả thế giới
này về cho nó. Từ đó lòng tham-sân-si phát khởi và dĩ nhiên
những hạnh nghiệp cũng vì thế mà tác tạo. Lòng tham càng to thì
tội nghiệp càng lớn và càng bị ràng buột trong sinh tử triền
miên.
5) Mạng trược :
Mạng là
mạng sống tức là một đoạn thời gian của báo thân chúng sinh.
Trược cũng giống như bùn ở dưới nước, ô nhiễm, bất tịnh.
Một khi
tâm phân biệt đã xuất hiện thì nó sẽ bị những trần cấu bên
ngoài chi phối. Thấy đẹp thì yêu, thấy xấu thì ghét nên muốn
cái đẹp, ghét cái xấu, cứ như thế mà yêu ghét nổi dậy cả ngày.
Trong một thoáng, một chớp mắt đã sinh ra những mê lầm nên cái
thấy không còn đúng nữa. Vì thế mà con người thích nghe lời nói
hay, âm thanh ngọt dịu và chán ghét khi nghe tiếng chỉ trích,
chửi mắng. Mắt thích nhà cao, xe tốt, áo lụa, quần là. Mũi
thích ngửi hương vị thơm tho và buồn phiền khi ngửi mùi hôi
tanh, ô uế. Lưỡi thích nếm đồ ăn ngon, miệng thích ăn cao lương
mỹ vị và khổ đau khi ăn cơm hẩm cá thiu. Nói chung sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp đã chi phối tâm tánh của con người làm cho
họ quên đi bản tánh thanh tịnh diệu minh đã có sẳn trong họ.
Một khi mắt, tai, mủi, lưỡi, thân và ý vốn thanh tịnh nhưng bị
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp quyến rũ làm hạn chế sự thấy,
nghe, hay, biết của nó mà bỏ đi tâm tánh Bồ-đề vốn thường thanh
tịnh và trong sáng. Những vẫn đục làm lu mờ tâm tánh con người
này,
Đức Phật gọi là Mạng trược.
Thế
giới mà con người đang sống mà kinh điển Phật giáo thường gọi
là thời kỳ ngũ trược ác thế nghĩa là đời có năm thứ ác làm cho
tâm hồn không còn trong sáng, bị vẫn đục do phiền não vô minh
làm cho kiếp sống chúng sinh không được an vui, hạnh phúc. Bây
giờ nếu chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, quay về với bản lai
diện mục, với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh của
chính mình bằng cách tư duy, thiền định thì những vẫn đục kia
sẽ được lắng xuống làm cho cuộc sống trở thành thanh tịnh, an
lạc và tự tại. Và sau cùng Niết bàn, Bồ-đề sẽ hiển hiện. Cũng
ví như tất cả những cặn bả trong ly nước lắng xuống thì nước
bây giờ trở thành tinh khiết, thơm ngon. Ly nước mặc dầu đã
được lắng trong, nhưng những hạt bụi cực nhỏ vẫn còn mà mắt
thường không thấy biết được. Các vị A la hán và Bồ-tát thì cũng
thế. Tuy các Ngài đã loại hết kiến hoặc, tư hoặc, nhưng những
vi tế vô minh vẫn còn cho đến khi đạt đến Vô thượng Bồ-đề như
Phật thì tất cả vô minh, phiền não tan biến hết ngay cả những
vi tế cũng không còn. Vì thế Đức Phật Thích Ca cho dù có ở đâu,
ngồi đâu thì tâm Ngài vẫn an trụ Niết bàn. Cái Niết bàn này
chính là vô trụ xứ Niết bàn vậy.
Vậy cứu
cách của người tu Phật không phải là để thành A la hán, Bích
Chi Phật hay thành Bồ Tát mà phải thẳng đến Phật quả tức là
thành Phật. Mà muốn thành Phật thì chỉ có một con đường đó là
Phật thừa vậy.
Thừa là
con đường cho nên Phật thừa là con đường để thành Phật. Không
riêng gì kinh Pháp Hoa của Phật giáo Đại thừa đưa chúng sinh
đến cứu cánh tối thượng là thành Phật. Kinh Niệm Xứ của Phật
giáo Nguyên Thủy cũng nói rằng có một con đường duy nhất để
thành tựu đạo nghiệp, đưa tới giải thoát, đó là nương theo pháp
Tứ Niệm Xứ. Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta) dạy rằng:
-Quán niệm thân
(Kayanupassana) trong thân, nhiệt tâm (atapi), hiểu biết rõ
ràng (sampajano), giữ chánh niệm(satima), dứt bỏ tham ái
(abhijjha) và sầu khổ (domanassa) trong thế gian (loke) này.
-Quán niệm thọ
(vedananupassana);
-Quán niệm tâm
(cittanupassana);
-Quán niệm pháp
(dhammanupassana).
(Xem
chi tiết ở phần đầu của chương thứ nhất trong phần Phẩm Tựa).
Kinh
Niệm Xứ của Nguyên Thủy khi chuyển sang Đại Chủng Bộ thì được
gọi là kinh Nhất Nhập Đạo nghĩa là kinh nói về một con đường
duy nhất để đi vào đạo. Như thế thì ý niệm về Nhất thừa đã có
mặt ngay từ lúc ban đầu rồi trong đạo Phật Nguyên Thủy cho nên
danh từ Nhất thừa trong kinh Pháp Hoa này không có gì mới lạ
cả.
Dựa theo Phật giáo Đại thừa thì Phật bắt đầu nói kinh Pháp Hoa
sau 40 năm từ khi Ngài thành đạo. Lúc ấy Phật giáo đã có ba
thừa: một con đường cho Thanh Văn, một con đường cho Duyên Giác
và một con đường cho Bồ tát. Đến khi kinh Pháp Hoa ra đời đã
xóa tan ý niệm ba thừa vì ba con đường kia chẳng qua chỉ là
phương tiện tạm dùng thuở ban đầu để đưa hành giả đến từng phần
trên con đường Phật quả. Nhưng cứu cánh tối thượng để thành tựu
quả vị Bồ đề là chỉ có một con đường chung cho mọi người, gọi
là Nhất thừa hay Phật thừa. Ở đây Nhất thừa không có nghĩa là
Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa hay Bồ tát thừa mà là Phật
thừa. Nói cách khác bây giờ Phật quy tam thừa trở thành Nhất
thừa Phật đạo để đưa người tu đạt đến quả vị tối thượng là
thành Phật. Ý Phật trong đoạn kinh này là tất cả chúng sinh đều
là vàng cả tức là mọi người đều có “Tri Kiến Phật” hay “Phật
tánh” giống y như Phật. Nhưng vàng của chúng sinh hiện nay còn
trộn chung với sỏi cát tức là vô minh phiền não nên chính họ
không thấy biết chất vàng đó. Nếu không có chất vàng cho dù có
rữa sạch hết cả ngọn núi kia thì cũng không bao giờ tìm đâu ra
một tí vàng được nghĩa là nếu không có sẵn Phật tánh trong ta
thì không bao giờ thành Phật cho dù chúng ta tu đến bao nhiêu
đời bao nhiêu kiếp.
Bấy giờ
đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên rằng một bài kệ:
...
Xá-lợi-phất ! Nên biết
Ta vốn
lập thệ nguyện
Muốn
tất cả chúng sanh
Bằng
như ta không khác
Như ta
xưa đã nguyện
Nay đã
viên mãn rồi
Độ tất
cả chúng sanh
Đều
khiến vào Phật đạo
... Xá-lợi-phất ! Nên nhớ
Ta vì bày phương tiện
Nói các đạo diệt khổ
Chỉ cho họ Niết Bàn
Ta dù nói Niết Bàn
Mà không thật diệt độ
Các pháp từ xưa nay
Tướng nó thường vắng lặng
Phật tử hành đạo rồi
Sau đó được thành Phật
... Nếu
có hạng chúng sanh
Nghe
pháp Phật tu hành
Những
người như thế đó
Đều đã
thành Phật đạo
... Các Phật diệt độ rồi
Người cúng dường Xá lợi
Nhóm đất làm tháp Phật
Những hạng người như thế
Đều đã thành Phật đạo
... Các
đồng tử vui chơi
Nhóm
cát thành miếu Phật
Những
trẻ con như thế
Đều đã
thành Phật đạo
... Nếu có người mến Phật
Chạm trổ các hình tướng
Nắng vẽ hình tượng Phật
Những người như thế đó
Đều đã thành Phật đạo
... Có
người trước tháp miếu
Dùng
hoa, hương, phan lọng
Thành
kính mà cúng dường
Ca ngâm
khen ngợi Phật
Nhẫn
đến tiếng thì thầm
Đều đã
thành Phật đạo
… Hoặc người tâm tán loạn
Vào trong tháp miếu Phật
Một xưng nam mô Phật
Đều đã thành Phật đạo
… Với
chư Phật quá khứ
Tại thế
hoặc diệt độ
Nghe
tin chư Phật ấy
Đều đã
thành Phật đạo
… Nếu có người nghe pháp
Không ai chẳng thành Phật
Các Phật vốn thệ nguyện
Tu hành thành Phật đạo
… Phật
là thầy trong đời
Thường
phương tiện tùy nghi
Diệt bỏ
tâm nghi hối
Tự biết
sẽ thành Phật.
Từ khi
thành Phật, Ngài đã đem giáo lý Tứ Diệu Đế tức là giáo lý nói
về khổ để dạy cho hàng Thanh Văn để họ thoát khổ có được giải
thoát và chứng đắc Niết bàn. Nhưng Niết bàn này chưa phải là vô
Thượng Niết bàn của chư Phật vì thế Phật mới nói thời Pháp Hoa
trước khi Ngài nhập diệt để hoàn thành Phật đạo. Nên nhớ “Chư
pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng”
nghĩa là các pháp từ xưa nay tướng nó thường vắng lặng nghĩa là
cái tự tánh, cái bản chất của các pháp đã là Niết bàn rồi thành
ra không thể đi tìm Niết bàn ở ngoài các pháp được. Nhưng thế
nào là các pháp?
Pháp
tánh là tánh thanh tịnh bản nhiên của vạn pháp. Nếu nói về loài
vô tình chúng sinh như núi sông, đất liền, trời trăng, mây
nước, cây cỏ thì gọi là Pháp tánh. Còn đối với loài hữu tình
chúng sinh như con người thì tánh thanh tịnh vốn có đó bây giờ
gọi là Phật tánh. Vậy Phật tánh hay Pháp tánh cũng được gọi
chung ở đây là “Chư Pháp”. Vì thế câu “Chư
pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng”
nghĩa là cái tướng của Phật tánh hay Pháp tánh từ xưa nay đều
là thanh tịnh bản nhiên, không hề có nào sinh ra tội lỗi xấu xa
hết. Do đó “Tri Kiến Phật” ở đây là vận dụng và sống với cái
tánh vốn thanh tịnh bản nhiên sẵn có đó trong mọi chúng sinh.
Sự sinh hoạt của con người phản ảnh qua lục căn (mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp). Nói thế không có nghĩa thấy là tội lỗi, nghe là tội
lỗi hay ăn món nào cũng là tội lỗi…
Lục căn tự nó là thanh tịnh bản nhiên không có chi là tội lỗi
và dĩ nhiên lục trần cũng thế tự nó là thanh tịnh bản nhiên
không có gì là tội lỗi xấu xa cả. Đó là ý nghĩa câu “Chư
pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng”
tức là các pháp xưa nay cái tướng thường tự tịch diệt. Vì thế
nếu chúng sinh thực hành Tri Kiến Phật rốt ráo nghĩa là tri
kiến này là tri kiến vô kiến thì chúng sinh sẽ thành Phật.
Ngược lại nếu chúng sinh sống với tri kiến lập tri tức là sống
với chấp trước mê lầm thì vĩnh viễn vẫn là chúng sinh. Nói cách
khác thấy mà tâm không mê đắm chạy theo hình sắc, tai nghe mà
không dính mắc theo âm thanh, lưởi có nếm mà không chạy theo
mùi vị…
tức là không mời khách trần phiền não vào tâm thì chắc chắn
cuộc sống sẽ vô cùng nhẹ nhàng thanh thoát, tự tại. Ngược lại
mắt thấy tâm liền si mê đắm nhiễm, tai nghe liền chấp trước
chạy theo vọng tưởng phân biệt, lưởi nếm liền tham đắm món ngon
vật lạ… thì chắc chắn cuộc sống sẽ trở thành điên đảo khổ đau.
Chúng
sinh biết hành trì thì chính họ đã thành Phật rồi, nhưng Phật ở
đây phải được hiểu là từng giai đoạn để cuối cùng đến được quả
vị tối thượng là thực sự thành Phật.
1)
Lý tức
Phật:
Trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy rằng:”Nhất
thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật”
nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh,
đều có thể thành Phật.
Hiểu rõ được lý ấy tức là Phật.
2)
Danh tự
tức Phật:
Danh tự là lời Phật dạy trong kinh điển vì tất cả các pháp đều
là Phật pháp. Do đó nếu lãnh hội được lý tánh của vũ trụ, vạn
hữu qua kinh điển, văn tự tức là Phật.
3)
Quán
hạnh tức Phật:
Quán là quán tưởng, hạnh là tu hành nghĩa là thực hành đúng
theo lời Phật dạy tức là Phật.
4)
Tương
tợ tức Phật:
Trong khi tu hành, tuy chưa thực chứng được lý tánh, nhưng tâm
thể được yên lặng gần như đã thực chứng nên gọi là tương tợ tức
Phật.
5)
Phần
chứng tức Phật:
Theo phái Thiên Thai thì vô minh như là một tấm màn dày đặc gồm
có 41 lớp. Nhờ công phu tu tập, nếu hành giả phá được một lớp
là chứng được một phần trung đạo tức là phần chứng tức Phật.
Hành giả đến đây là đã vượt qua các bậc Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Đẳng giác.
6)
Cứu
cánh tức Phật:
Đây là chứng được chỗ mầu nhiệm tột cùng của đạo Phật. Đó là
bậc Diệu giác, Chủng trí đều viên mãn tức là thành Phật.
Tóm lại, trong mỗi chúng sinh vốn đã có sẵn “Tri Kiến Phật” tức
là Phật tánh nhiệm mầu vì thế Như Lai trong kinh Pháp Hoa mới
vén màn bí mật để chỉ thẳng cho họ biết và tự tin vào tự tánh
thanh tịnh bản nhiên của mình mà hành trì đúng theo chánh đạo
để tiến thẳng về nhất thừa Phật đạo mà thành Phật. Trước khi
Phật nhập Niết bàn, Ngài muốn chia sẽ một hoài bảo to lớn mà
chính Ngài đã luôn ôm ấp từ ngày thành đạo. Một lý tưởng vĩ đại
xiễn dương tinh thần khách quan bình đẳng của Phật giáo vì tất
cả mọi chúng sinh cũng đều có Phật tánh như nhau, giống y như
Phật. Mà muốn phát huy cái Phật tánh thiêng liêng huyền diệu
này để trở thành Phật thì chỉ có một con đường duy nhất là Phật
thừa chớ không phải Thanh Văn thừa, Duyên giác thừa hay Bồ tát
thừa. Phương tiện Phật chỉ bày ngày xưa là tạm thời mà bây giờ
Phật mới đưa ra cứu cánh tối thượng, là con đường duy nhất để
viên mãn đạo quả Bồ đề, đó là Nhất thừa Phật đạo để thành Phật.
Căn nghiệp của chúng sinh khác nhau cho nên đức Phật nhận thấy
chúng sinh là những hoa sen trong đầm với đầy đủ màu xanh, đỏ,
trắng lẫn lộn. Có hoa sen còn nằm trong bùn, có hoa sen đã vươn
lên trong nước, có hoa đã vươn gần mặt nước và có hoa đã vượt
khỏi mặt nước. Vì thế tinh thần Pháp Hoa là thấy tất cả mọi
người là hoa sen, dù còn nằm trong bùn hay đã nở rộ, nhưng tất
cả đều cùng chung Phật tánh như nhau. Huyền nghĩa Pháp Hoa là
khai, thị, ngộ, nhập cái hoa sen Phật tánh ấy nơi mình. Nhưng
quan trọng nhất là sống với cái hoa sen ấy nơi mình khiến cho
nó càng ngày càng nở lớn hơn, tỏa hương cùng khắp và hỗ trợ làm
nở hoa sen nơi người khác.
∆ TOP
|
NEXT
|