Phẩm
THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT
Thường Bất Khinh là tên của một vị Tỳ kheo lúc nào cũng nói lên
một giáo lý thuần viên độc diệu của Pháp Hoa là Tri Kiến Phật.
Đó là trong mỗi chúng sinh đã có Tri Kiến Phật, đang có Tri Kiến
Phật và mãi mãi vẫn có Tri Kiến Phật. Vì nhìn vào thật tánh của
chúng sinh nên Tỳ Kheo chỉ thấy tánh Phật nên gặp ai cũng cung
kính nói với tất cả mọi người rằng “Tôi không dám khinh các ngài
vì các ngài đều sẽ thành Phật”. Do vậy mọi người từ đó gọi vị Tỳ
kheo này là “Thường Bất Khinh”. Còn thế nào là Bồ Tát?
Bồ-tát là viết tắc của chữ Bồ-đề Tát Đỏa mà Phạn ngữ là
Bodhisatwa. Chúng sinh phát tâm tu theo Đại thừa, làm việc vì
người quên mình tức là lấy lợi tha làm phương châm hành động thì
gọi là Bồ-tát. Tất cả Phật tử không phân biệt tại gia hay xuất
gia, nam hay nữ muốn phát tâm tu theo Bồ-tát đạo, giữ Bồ-tát
giới tức là 10 giới trọng và 48 giới khinh để phá trừ tập khí
ngã mạn, chấp ngã chấp pháp và nguyện hy sinh mình mà lo cứu
giúp chúng sinh đều là Bồ Tát cả. Vì thế Bồ Tát là “Hữu tình
giác”, là loài hữu tình (loài người) đang đi trên con đường giải
thoát giác ngộ tức là tự giác. Rồi sau đó quay lại giúp cho
chúng sinh cùng được giác ngộ như mình tức là “giác Hữu tình”
tức là giác tha.
Bồ-tát phải trải qua 55 giai đoạn từ khi phát tâm Bồ-đề thì mới
đạt được quả vị đẳng giác là thành Phật. Đừng nên hiểu lầm là
Bồ-tát thì lúc nào trí tuệ hay tâm thanh tịnh cũng cao hơn các
vị A La Hán trong Thanh Văn.
Giai đoạn đầu kể từ khi mới phát tâm Đại thừa là Thập Tín, Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng và Tứ Gia Hạnh thì gọi là Đệ Nhất
A Tăng Kỳ Kiếp tức là Bồ-tát Địa Tiền có nghĩa là chưa bước vào
Thập Địa. Trí tuệ và tâm thanh tịnh của Bồ-tát Địa Tiền không
bằng các vị A La Hán vì họ đã vượt ra khỏi tam giới, chứng đắc
Niết bàn nên tâm rất thanh tịnh.
Giai đoạn thứ hai là Bồ-tát tu từ Sơ Địa đến Thất Địa tức là họ
đã đạt được Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diệm Huệ
Địa, Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa và Viễn hành Địa thì gọi là Đệ
Nhị A Tăng Kỳ Kiếp.
Giai đoạn thứ ba là họ tu từ Bát Địa đến Thập Địa tức là Bất
Động Địa, Thiện Huệ Địa và Pháp Vân Địa thì gọi là Đệ Tam A Tăng
Kỳ Kiếp. Bồ Tát tu trong Thập Địa gọi chung là Bồ Tát Đăng Địa.
Khi mãn Thập Địa đến địa vị Đẳng giác, qua Đẳng giác đến Diệu
giác tức là thành Phật. Bồ-tát Đẳng giác và Diệu giác đã dứt trừ
Trần sa hoặc và Vô minh hoặc để đến chỗ giác ngộ hoàn toàn là
Phật.
Tỳ kheo “Thường Bất Khinh” luôn khuyến khích và nhắc nhở chúng
sinh quay về thấy biết và sống với Tri Kiến Phật của chính mình
nên người đời tặng cho ông danh hiệu là Thường Bất Khinh Bồ Tát.
Dựa theo tinh thần Pháp Hoa thì ai cũng có Tri Kiến Phật cho nên
chúng sinh luôn tự hào mình là Bồ Tát vì Tri Kiến Phật còn cao
hơn Tri Kiến Bồ Tát nữa mà. Có thể nói Thường Bất Khinh là một
âm thanh tác động cực mạnh vào tận đáy tâm hồn để đánh thức
những ai còn mê mờ về Tri Kiến Phật và khả năng thành Phật của
chính mình.
Lúc bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Đắc Đại Thế:
-Ngươi
nay nên biết, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di trì
kinh Pháp Hoa mà bị mắng nhiếc chê bai, thì người mắng nhiếc chê
bai mắc tội báo rất lớn, còn người trì kinh được công đức thanh
tịnh lục căn.
Tại
sao người thọ trì kinh Pháp Hoa thì được công đức lục căn thanh
tịnh còn người mắng nhiếc chê bai thì bị quả báo không tốt? Phải
chăng kinh Pháp Hoa có thần lực để gia bị cho người thọ trì và
trị tội những ai chê bai? Nếu chúng sinh quay về thấy biết và
sống với Tri Kiến Phật của mình thì người đó luôn sống trong
tỉnh giác nên lục căn được thanh tịnh. Mà lục căn thanh tịnh thì
thân khẩu ý thanh tịnh tức là không còn tạo nghiệp nên
vĩnh viễn thoát ly sinh tử luân hồi, có giải thoát giác ngộ.
Ngược lại người chê bai, mắng nhiếc kinh Pháp Hoa nghĩa là người
đó sống trong mê mờ loạn động, sáu căn không thanh tịnh nên dính
mắc nơi sáu trần vì thế cuộc sống bị nhận chìm trong ái dục,
phiền não, khổ đau và trôi nổi trong sinh tử trầm luân chớ đâu
phải trời hành hay Phật đọa gì hết.
-Này Đắc
Đại Thế ! Thuở xưa cách nay vô lượng vô biên số kiếp, có Phật
hiệu Oai Âm Vương ra đời, nhằm thời kiếp Ly-suy, tại nước Đại
Thành. Phật vì người cầu quả Thanh Văn nói pháp Tứ-Đế; vì
người cầu quả Bích-chi-Phật nói pháp Thập Nhị Nhân Duyên; vì
hàng Bồ-tát cầu Vô Thượng giác, nói pháp sáu Ba-la-mật dẫn dắt
đến cứu cánh Phật tuệ.
-Đắc Đại
Thế ! Phật Oai Âm Vương sống lâu 40 ức na-do-tha hằng sa kiếp!
Chánh pháp của Phật trụ trong một số kiếp nhiều như vi trần của
một thế gian! Tượng pháp trụ trong một số kiếp nhiều như vi trần
của bốn châu. Sau khi Phật Oai Âm Vương diệt độ, Chánh
Pháp, Tượng Pháp diệt hết có đức Phật khác ra đời, cũng có một
hiệu là Oai Âm Vương. Sau đó, tuần tự, có hai muôn ức Phật ra
đời cùng một danh hiệu.
Oai
Âm Vương là để nói lên sự làm chủ, tiếng nói âm ba của cõi lòng.
Vì thế Phật Oai Âm Vương là Phật tánh, là Pháp thân, là tiếng
nói thanh tịnh phát xuất từ trong bản tâm của con người, dùng để
diễn tả tâm hồn trong sáng của chúng sinh khi làm chủ những âm
thanh của tâm mình. Đức Phật xuất hiện nhằm vào thời kiếp Ly Suy
nghĩa là thời điểm mà tâm con người không còn dính mắc những sự
suy đồi của tham sân si mạn nghi. Nói cách khác khi tâm của
chúng sinh không còn những vẫn đục của thập triền thập sử thì
lúc ấy Phật Oai Âm Vương tức là chơn tâm, Phật tánh hiển bày ở
lòng ta. Và lúc ấy tâm ở trạng thái thanh tịnh viên mãn nhất tức
là ở nước Đại Thành.
Đây
là phẩm mở đầu cho những phẩm về Diệu Âm và Quán Thế Âm về sau.
Nếu chúng sinh khéo lắng nghe những âm thanh khuyến khích, nhắc
nhở con người hướng về thanh tịnh giải thoát giác ngộ thì đây là
Diệu Âm, là Quán Thế Âm. Ngược lại nếu chúng sinh nghe những âm
thanh thúc đẩy, xui khiến họ vào những vòng sa đọa của địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh thì đây là âm thanh của tội lỗi đau thương. Do
vậy kinh Lăng Nghiêm có phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Nhĩ Căn Viên
Thông nghĩa là quay về để lắng nghe tiếng nói thanh tịnh mầu
nhiệm của lòng mình. Vì vậy Phật Oai Âm Vương là biểu tượng cho
tánh giác có sẵn nơi mỗi chúng sinh từ vô lượng kiếp trong quá
khứ.
Dựa
theo sự phân tích của Trí Giả Đại sư của Thiên Thai tông thì
kinh Pháp Hoa được chia làm hai phần: Phần đầu gồm 14 phẩm, gọi
là Tích môn. Phần còn lại là Bổn môn. Nhưng trên thực tế kinh
không sắp xếp đúng theo thứ tự mà có rất nhiều phẩm của Tích môn
chạy vào phần Bổn môn và ngược lại. Nhưng đây có lẽ là thâm ý
của kinh bởi vì cái diệu dụng của Bổn môn lại được diễn bày
trong Tích môn. Đó là sự hiện hữu của những vị Bồ Tát từ Thường
Bất Khinh Bồ Tát trong phẩm này đến Diệu Âm Bồ Tát, Quán Thế Âm
Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát trong những phẩm sau. Sự giới thiệu
của các vị Bồ Tát này với mục đích diễn giải cái Bổn môn ra Tích
môn và dĩ nhiên đưa người đọc từ Tích môn trở về với Bổn môn.
Nói rộng ra trong Phật giáo bất cứ một hiện tượng tinh thần hay
vật chất nào cũng đều có Thể, Tướng và Dụng. Thí dụ dòng điện
trong nhà là thể, bao trùm tất cả bởi vì từ một dòng điện đó mà
có thể gắn những hình tướng như cái bóng đèn, tủ lạnh, quạt máy,
TV…và sau đó sinh ra biết bao công dụng như đèn sáng, quạt máy
làm mát mẻ…Ở đây cũng thế, Bổn môn là thể, Tích môn là tướng và
thực hành những công hạnh (hạnh nguyện) của các vị Bồ Tát là
dụng và Thường Bất Khinh Bồ Tát là công dụng đầu tiên mà kinh
muốn giới thiệu. Sang đến phẩm 23 nói về Bồ Tát Dược Vương là
công dụng kế tiếp của kinh, bởi vì Dược Vương là mẫu người
chuyên về thực hành và phản ảnh rốt ráo công hạnh của một
vị Bồ Tát. Sau đó có Quán Thế Âm rồi đến Phổ Hiền là những công
hạnh tuyệt vời để nhắc nhở, khuyến khích chúng sinh rằng đạo
Phật là đạo giác ngộ được biểu hiện bằng hành động, thực hành
mới có thực chứng.
-Phật
Oai Âm Vương đầu tiên diệt độ và sau lúc Chánh Pháp diệt hết
trong thời Tượng pháp, các Tỳ-kheo tăng-thượng-mạn có thế lực
lớn. Bấy giờ có một Bồ-tát tên Thường-Bất-Khinh. Sở dĩ có tên
nầy là vì mỗi khi gặp các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di, Bồ-tát lễ lạy khen ngợi: “ Tôi rất kính quý vị, không
dám khinh quý vị. Vì quý vị đều đi trên đường Bồ-tát và sẽ được
làm Phật”. Bồ-tát Thường-Bất-Khinh không hề đọc kinh điển, chỉ
thực hành việc lễ bái, thậm chí hễ xa thấy tứ chúng là lạy nói:
-Tôi
chẳng dám khinh quý vị, quý vị đều sẽ làm Phật”.
Trong tứ chúng có người lòng bất tịnh, giận mắng:
-Ông vô trí Tỳ-kheo này ở đâu đến mà cứ nói tôi chẳng dám
khinh quý vị, rồi lại thọ ký chúng tôi sẽ thành Phật; chúng tôi
không dùng lời thọ ký bá láp đó đâu”.
Tuy trải qua nhiều năm bị mắng nhiếc, Bồ-tát Thường Bất Khinh
không giận hờn, cứ luôn nói:
“Quý vị sẽ làm Phật”. Lắm khi bị đánh bằng gậy, bị ném gạch đá,
Bồ-tát chạy tránh ra xa, miệng vẫn nói: “Tôi chẳng dám khinh quý
vị, quý vị đều sẽ làm Phật”. Vì đó mà ông được gọi tên là
Thường-Bất-Khinh.
Đức
Phật Thích Ca thuyết kinh Pháp Hoa cách nay trên 2500 năm là
muốn chúng sinh “khai,
thị,
ngộ,
nhập Phật tri kiến”nghĩa
là đức Phật muốn
khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm
nhập cái thấy biết của Phật và cũng chính là cái
thấy biết của Pháp Hoa vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng
sinh. Sau đó Ngài thọ ký từ hàng vô học, đến hàng hữu học thậm
chí ngay cả phi nhân và nữ phái cũng đều được Phật thọ ký sẽ
thành Phật. Đến phẩm này chứng minh rằng không phải đức Phật
Thích Ca là người đầu tiên nói về Tri Kiến Phật mà trong hằng sa
kiếp trước vào thời Phật Oai Âm Vương có vị Bồ Tát tên là Thường
Bất Khinh đã rao giảng lời ấy rồi. Nói cách khác vấn đề Tri Kiến
Phật đã có và nói từ lâu lắm rồi chớ không phải đến thời Phật
Thích Ca mới có và nói đến.
Tuy
Tỳ kheo “Thường Bất Khinh” nói về giáo lý tối thượng “Tri Kiến
Phật”, nhưng những Tỳ kheo huynh đệ không đủ trí tuệ để nhận
thức, lãnh hội được Tri Kiến Phật của mình, thậm chí còn chửi
bới, đánh đập và dùng lời khiếm nhã gọi ông là Tỳ kheo vô trí
tức là ông Tỳ kheo “khùng”. Rõ ràng câu nói “Tôi
chẳng dám khinh quý vị, quý vị đều sẽ làm Phật” tuy
đơn giản ngắn gọn, nhưng đã nêu rõ bản hoài của chư Phật. Vì
không nhận ra Tri Kiến Phật tức là không có Phật nhân thì không
bao giờ tu thành Phật quả. Do vậy mà đại sự nhân duyên của chư
Phật là khai thị để chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến của chính
mình là vậy.
Đứng
về mặt tâm lý, trong thế gian này không thiếu gì những người
thiếu tự tin nơi chính mình. Họ có tư tưởng mặc cảm nên tự cho
rằng mình không giỏi, không thành đạt, thấp kém hơn những người
khác. Vì mang cái mặc cảm tự ti đó nên họ không có hạnh phúc, cả
đời sống trong bóng tối của tâm hồn. Chính đức Phật khi ngồi
trên nắm cỏ dưới cội Bồ Đề đã thệ nguyện rằng “Nếu
ta ngồi đây mà không chứng được đạo quả thì dù thịt nát xương
tan ta quyết không bao giờ đứng dậy”. Với ý chí
sắc đá, tuyệt đối tin vào khả năng tự giác của mình nên Ngài mới
thành đạo. Người xưa cũng có câu:
Ø
Bỉ ký
trượng phu ngã diệc nhĩ,
Ø
Bất ưng
tự khinh như thối khuất.
Nghĩa
là người đó là bậc trượng phu thì tại sao ta lại không được như
vậy? Ta không nên tự khinh mình, tự coi nhẹ mình để cứ đi thụt
lùi. Vì thế ngày nay từ trong gia đình, học đường đến ngoài xã
hội con người muốn thành công, muốn được hạnh phúc thì phải tin
nơi mình, tin vào khả năng của mình. Trong thập niên 70, Steve
Jobs và Steve Wozniak đã khai sáng ra công ty Apple từ trong
Garage của cha mẹ ông ta. Với niềm tin và cái nhìn sâu về tương
lai mà ông ta và công ty Apple thành công như ngày nay. Bill
Gates xuất thân là con một nhà giàu có ở Seattle, nhưng thay vì
theo truyền thống của cha làm nghề luật sư, ông bỏ học đại học
Harvard, một trường nổi tiếng nhất về luật ở Hoa kỳ để cùng với
người bạn Paul Allen viết những “program” để chạy những máy vi
tính rất đơn sơ lúc bấy giờ. Say mê và tự tin vào việc làm của
mình nên chỉ có mười mấy năm sau, ông trở thành người giàu nhất
thế giới.
Câu nói bất tử “Tôi
chẳng dám khinh quý vị, quý vị đều sẽ thành Phật” là
hạnh nguyện duy nhất của Thường Bất Khinh Bồ Tát. Tuy đơn giản,
nhưng nó mang một công năng to lớn là gieo vào lòng của chúng
sinh niềm tin mãnh liệt nơi mình, tin rằng mình có hạt giống
Phật và mình có khả năng trở thành Phật, một bậc toàn giác.
Có
thể nói Thường Bất Khinh là một sứ giả của Như Lai. Sứ mạng của
ngài là mang thông điệp “mọi người sẽ thành Phật” đến cho mọi
người. Tuy nhiên không phải ai cũng vui mừng đón nhận thông điệp
đó bởi vì người đời luôn có mặc cảm nên họ nghĩ rằng những lời
ngài nói là nhạo báng, khinh khi họ. Kết quả là họ dùng lời thô
tục để mắng chửi, thậm chí còn ném đá, dùng gậy đánh đuổi ngài.
Tuy bị người đời hành hung, đánh chửi, nhưng với tâm bất thối
chuyển, ông vẫn to tiếng xướng lên cái sự thật đó, tôi chẳng dám
khinh quý vị, quý vị đều sẽ thành Phật.
Bồ
Tát Thường Bất Khinh là hình ảnh tượng trưng cho hạnh nhẫn nhục,
là một đức tính cao quý của đạo Phật mà bất cứ vị Bồ Tát nào
muốn thành Phật đều phải thực hành viên mãn.
Lúc
Bồ-tát Thường Bất Khinh sắp mệnh chung, trong hư không nghe trọn
hai mươi ngàn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của Phật Oai Âm Vương
đã nói thuở trước. Nghe xong Bồ-tát
sống
thêm hai
trăm muôn ức na-do-tha tuổi, vì người rộng nói kinh Pháp Hoa.
Lúc đó,
những người trong tứ chúng trước kia đã khinh rẻ Bồ-tát Thường
Bất Khinh, nay thấy Bồ-tát được sức thần thông, sức nhạo thuyết
biện tài, sức đại-thiện-tịch và nghe Bồ-tát thuyết pháp, đều tin
phục và theo làm đệ tử.
Bồ-tát
Thường Bất Khinh giáo hoá ngàn muôn chúng khiến không suy thoái
trên đường Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau khi mệnh chung,
được gặp 2 ngàn đức Phật đồng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh trong
hội Pháp Hoa. Nhờ nhân duyên đó, lại gặp 2 ngàn Phật đồng hiệu
Vân Tự Tại Đăng Vương ở trong pháp hội của các đức Phật có thọ
trì, đọc tụng vì hàng tứ chúng nói kinh Pháp Hoa, do vậy mà sáu
căn được thanh tịnh, thuyết pháp cho tứ chúng nghe mà không sợ
sệt.
Khi
Bồ Tát sắp tịch, ngài nghe trong hư không có tiếng giảng Pháp
Hoa của Phật Oai Âm Vương. Có điều lạ là Phật Oai Âm Vương đã
tịch từ lâu thế mà trước khi chết Bồ Tát lại nghe rất rõ tất cả
những bài kệ của kinh Pháp Hoa mà Phật đã giảng? Thế nghĩa là
gì? Tại sao lúc còn khỏe mạnh lại không được nghe kinh Pháp Hoa,
mãi đến lúc sắp tịch mới được nghe? Bởi vì thọ trì kinh Pháp Hoa
là trở về với Tri Kiến Phật cho nên miệng luôn nói câu “…quý vị
sẽ thành Phật” nghĩa là trong lòng đã chín muồi rồi. Cũng như
niệm Phật đến chỗ vô niệm vô biệt niệm thì được nhất tâm tức là
sống với Chơn tâm, Tri Kiến Phật của mình. Ở đây Bồ Tát biết
chúng sinh sẽ là Phật, biết mình sẽ là Phật, biết mình có Tri
Kiến Phật nên quay về sống với Tri Kiến Phật thì cũng như có
Phật Oai Âm Vương thuyết giảng mặc dù Phật đã tịch từ lâu vì Tri
Kiến Phật là Bổn Phật, là Phật tánh hiện hữu trong suốt chiều
dài của vũ trụ từ vô thỉ đến vô chung. Bồ Tát Thường Bất Khinh
vượt qua cơn mê “sắp chết” mà thâm nhập Pháp Hoa tam muội, thấu
suốt trọn bộ kinh không sót một lời để rồi sống thêm hai trăm
muôn ức na-da-tha tuổi vì người mà giảng nói kinh Pháp Hoa. Như
vậy kinh Pháp Hoa là một thứ thuốc trường sanh vì người uống vào
sẽ sống mãi, sống rất lâu để giảng truyền chân lý Pháp Hoa.
Một
khi sống với Tri Kiến Phật của mình thì lục căn chuyển hóa trở
nên thanh tịnh nên Bồ Tát có biện tài vô ngại, thần thông tự tại
khiến cho những người khinh chê ngài trước kia thấy được kết quả
của sự hành trì Pháp Hoa bắt đầu tin phục
và
theo ngài tu hành. Tuy con đường tranh đấu cho chánh nghĩa có
gay go cực khổ, nhưng sau cùng chánh nghĩa sẽ thắng và chân lý
luôn tỏ sáng rạng ngời.
Bồ
Tát Thường Bất Khinh giáo hóa vô số chúng sinh tiến bước hướng
về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngài an nhiên tự tại giảng
nói kinh Pháp Hoa, hướng dẫn chúng sinh cất bước đi trên con
đường giải thoát giác ngộ từ kiếp này sang kiếp khác để hoàn
thành viên mãn trách nhiệm sứ giả Như Lai và dĩ nhiên luôn bồi
dưỡng cho cái nhân thành Phật cho chính mình. Ở đây Thường Bất
Khinh Bồ Tát thực hành rốt ráo công hạnh tu nhân thành Phật
nghĩa là ngài nhận thức chân lý rồi thực hành những gì phù hợp
với chân lý và sau cùng sống đúng với chân lý. Vì vậy chính ngài
thực hành và sống với tinh thần Pháp Hoa mà không cần thọ trì
đọc tụng. Tại sao lại không cần? Bởi vì tụng kinh cốt là để thấu
hiểu ý nghĩa lời Phật dạy (Tụng kinh giả minh Phật chi lý) mà
nếu đã thấu hiểu và sống được với Tri Kiến Phật tức là sống với
Pháp Hoa thì tụng niệm để làm gì. Mục đích tụng niệm là hiểu ý
kinh và thực hành lời Phật dạy chớ đâu phải tụng kinh để được
phước hay được Phật gia bị. Vì thế ngày nay rất nhiều người trì
tụng phẩm Như Lai Thần Lực hay Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn với
niềm tin được Phật gia bì mà thật chất chẳng hiểu ý nghĩa của
những phẩm này thế nào cả. Tu như vậy là tu mù, chẳng lợi ích gì
cho mình và vô tình biến đạo Phật thành ra mê tín. Đức Phật và
đệ tử của Ngài không bao giờ tụng mà chỉ thiền quán để suy tư
quán chiếu tìm ra chân lý và sống đúng, sống phù hợp với chân
lý, có an lạc Bồ Đề, Niết bàn.
-Này
Đắc Đại Thế ! Sau khi cúng dường cung kính, tôn trọng bao nhiêu
đức Phật như thế và trồng các rễ lành, cuối cùng Bồ-tát Thường
Bất Khinh lại gặp ngàn muôn ức Phật ở trong pháp hội của chư
Phật đó nói kinh Pháp Hoa. Do vậy mà thành tựu công đức vô biên
và sẽ được thành Phật.
-Này Đắc
Đại Thế ! Bồ-tát Thường Bất Khinh thuở ấy đâu phải người nào lạ
! Chính là thân ta hiện nay vậy. Nếu đời trước ta chẳng thọ trì,
đọc tụng và giải nói cho người khác nghe kinh này, thì ta chẳng
thể mau được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác vì ta đã ở
trong cõi nước của chư Phật, thọ trì, đọc tụng vì người khác nói
kinh này, nên mau được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đến
đây Phật mới hé mở cho chúng ta biết rằng vị Thường Bất khinh Bồ
Tát đó không ai khác chính là đức Phật Thích Ca ngày nay. Nguyên
nhân Ngài được thành Phật là trong đời quá khứ, Ngài luôn thọ
trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa. Thọ trì, đọc tụng đây không có
nghĩa là gỏ mỏ tụng kinh tức là tụng kinh có văn tự mà Ngài nhận
ra nơi Ngài có sẵn Tri Kiến Phật tức là Phật tánh trong sáng
tròn đầy. Từ đó Ngài đi lễ bái và nhắc nhở mọi người rằng họ
cũng có Phật tánh như Ngài. Nếu biết huân tu lấy Tri Kiến Phật
làm Phật nhân thì sẽ thành Phật. Nhờ tu tròn đầy viên mãn hạnh
tinh tấn, nhẫn nhục và phát huy trí tuệ tột cùng nên sau cùng
công thành quả mãn Ngài thành Phật.
-Này Đắc
Đại Thế, những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thuở ấy,
vì khinh tiện ta, nên trong hai trăm ức kiếp luôn luôn chẳng gặp
Phật, chẳng gặp Pháp, chẳng thấy Tăng, ngàn kiếp ở địa ngục chịu
khổ não lớn. Hết tội rồi, lại gặp Bồ-tát Thường Bất Khinh giáo
hóa
cho đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
-Này Đắc
Đại Thế ! bốn chúng đã khinh khi Bồ-tát Thường Bất Khinh nào
phải ai lạ chính đó là những người hiện nay đều là bậc
bấc-thối-chuyển trên đường chánh giác, tức là bọn 500 Bồ-tát của
Bạc-đà-bà-la, bọn 500 Tỳ-kheo của Sư-tử-nguyệt, bọn 500
Ưu-bà-tắt của Ni-tư Phật, đang ở trong pháp hội nầy.
Này Đắc
Đại Thế ! phải biết kinh Pháp Hoa này rất lợi ích cho các đại
Bồ-tát có thể giúp họ đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho
nên sau khi Phật diệt độ, phải thường thọ trì, đọc tụng, giải
nói.”
Đức Phật bèn đọc một bài kệ nhắc lại nghĩa trên.
Những
người ngày xưa đánh đập, chửi mắng Thường Bất Khinh Bồ Tát bị
đọa trăm nghìn kiếp ở chốn tối tăm, không gặp Phật, Pháp, Tăng.
Thật vậy, không phải đánh đập, hành hạ Thường Bất Khinh Bồ Tát
rồi bị trời hành hay Phật đọa vào địa ngục A tỳ để phải chịu đau
khổ, nhưng thật ra một người không nhận biết Tri Kiến Phật của
mình thì chắc chắn họ không sống trong chân lý, trong ánh sáng
trí tuệ mà sống trong mê mờ, bất giác, sống trong bóng tối vô
minh thì dĩ nhiên chuyện sa hầm sụp hố lao đầu vào phiền não
điên đão là chuyện thường. Tuy nhiên biết thức tỉnh, biết hồi
đầu thị ngạn nương theo Phật pháp tiến tu thì vô minh biến mất,
trí tuệ phát sinh và sẽ thành Phật. Phật, Pháp, Tăng dựa theo
Lục Tổ là Giác, Chánh, Tịnh bởi vì Phật là giác ngộ, Pháp tức là
Bát Chánh Đạo để tránh xa mê lầm, điên đảo. Còn Tăng là sự thanh
tịnh, không bị ô nhiễm. Vậy ô nhiễm cái gì? Tinh thần ô nhiễm,
tư tưởng ô nhiễm, kiến giải ô nhiễm ngay cả sắc thân cũng bị ô
nhiễm…Vậy người biết quay về nương tựa (quy y) nơi Phật, Pháp,
Tăng để loại bỏ những ô nhiễm, những dính mắc thế trần mà nhìn
thế gian bằng “Như Thị” thì những phạm trù đối đãi phân biệt
biến mất khiến tâm được thanh tịnh.
Đạo
Phật là đạo nhân quả và nhân duyên cho nên những người ngày xưa
chửi mắng, đánh đập, hành hạ Thường Bất Khinh Bồ Tát sau khi thọ
quả báo rồi thì nhân duyên đưa đẩy cũng gặp lại Bồ Tát mà nay là
Phật Thích Ca để nhận sự giáo hóa của Ngài để tiến tu. Xưa kia
là Thường Bất Khinh Bồ Tát, nay là Phật Thích Ca. Xưa kia là
những người khinh miệt, đánh chửi Bồ Tát, nay là nhóm ông
Bạc-đà-bà-la, nhóm ông Sư tử nguyệt và nhóm ông Ni-tư Phật.
Tóm
lại, Thường Bất Khinh Bồ Tát là một biểu tượng để nhắc nhở và
nhắn nhủ với chúng sinh rằng người đệ tử Phật đừng bao giờ khinh
mình vì trong con người bình thường đó chúng sinh vốn cũng có
một tiềm năng vĩ đại siêu việt là Tri Kiến Phật, giống y như
Phật. Vì thế mỗi chúng sinh sẽ là một Bồ Tát Thường Bất Khinh
đối với chúng ta với tâm niệm rằng “ta sẽ thành Phật”.
∆ TOP
|
NEXT
|