Phẩm
PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC
Tựa đề của phẩm là Pháp sư công đức, nhưng kinh Pháp Hoa là giáo
lý tối thượng thừa mà còn đề cập vấn đề công đức thì mới nghe
hình như có vấn đề. Tu hành mà còn đòi hỏi, còn đặt điều kiện
công đức này phước đức nọ chăng? Và dựa theo tư tưởng Đại thừa
thì trên con đường hướng về giải thoát giác ngộ còn có vấn đề
công đức ư? Dựa theo tư tưởng giáo lý liễu nghĩa thượng thừa của
Bát nhã ba-la-mật thì chẳng có công đức, phước đức gì vì tất cả
cũng chỉ hướng về với chơn tánh thanh tịnh của mình vốn đã có
sẵn chớ chẳng có ai ban tặng cho ai công đức gì hết. Tu mà đòi
hỏi phải có công đức này hay phước đức nọ là sai chân lý. Danh
từ “Pháp sư” là để chỉ cho những ai biết thọ trì, đọc tụng, biên
chép, giảng nói kinh Pháp Hoa chớ không đặc biệt dành riêng cho
một thành phần nào vì thế ai cũng có thể là Pháp sư và ai cũng
không là Pháp sư Pháp Hoa.
Tuy phẩm nói về Pháp sư công đức, nhưng ý nghĩa vẫn là nói về
những công đức do bởi lục căn thanh tịnh diệu dụng tùy duyên mà
tác tạo của Pháp sư vậy. Hành giả tu học Pháp Hoa thì sáu căn sẽ
thanh tịnh và từ đó sẽ có được công đức. Do đó người hằng sống
với Tri Kiến Phật của mình thì có lục căn thanh tịnh ví như một
tấm gương trong sáng có thể chiếu rọi thấu suốt để nhận biết rốt
ráo không còn lầm lẫn. Như vậy người có lục căn thanh tịnh có
khả năng nhận thức tất cả mọi việc như nghe, thấy, nếm, ngửi,
xúc, biết tất cả mà không cần phải hủy bỏ lục căn của cha mẹ
sinh ra ta.
Tất cả chúng sinh từ loài hữu tình đến vô tình đều có
chung tự tánh thanh tịnh bản nhiên mà được gọi là “tánh giác”.
Đối với con người thì cái tánh giác này là Phật tánh, là Tri
Kiến Phật. Phật tánh hay tánh giác thì lúc nào cũng thanh tịnh,
trong sáng, thường diệu, thường minh nên gọi là “tánh giác
diệu minh” mà không cần cái minh bên ngoài tức là sở
minh để có minh. Nhưng con người vì lầm lẫn chạy theo vọng chấp
tham-sân-si nên mới tạo nghiệp và tự cột họ vào trong sinh tử
luân hồi. Bây giờ biết hồi đầu thị ngạn, tự quay thuyền trở lại
bến xưa thì tánh giác sẽ trở thành bản giác tức là cái
giác tính bản lai sẵn có của mình. Cái bản giác này
thường minh và thường diệu nên gọi là bản giác minh diệu.
Phật tánh thì lúc nào cũng sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh,
vì thế, Phật tánh hay tánh giác diệu minh là Chánh Nhân Phật
tánh nghĩa là tánh mầu nhiệm vốn sẵn có. Còn bản giác minh diệu
là Liễu Nhân Phật tánh nghĩa là Phật tánh nhờ công phu tu tập
rồi mới ngộ.
Vì thế tôn chỉ của phẩm Pháp sư công đức là nêu rõ
công năng vi diệu để quay về với bản giác minh diệu và sau cùng
sống trọn vẹn với tánh giác diệu minh vốn sẵn có của mình.
Lúc bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Thường Tinh Tấn:
-Nếu có trai lành gái tín nào lãnh giữ kinh Pháp Hoa này bằng
cách đọc, tụng, giảng nói hoặc biên chép thì người đó:
v
-Về mắt sẽ được 800 công đức.
v
-Về tai sẽ được 1200 công đức.
v
-Về mũi sẽ được 800 công đúc.
v
-Về lưỡi sẽ được 1200 công đức.
v
-Về thân sẽ được 800 công đức.
v
-Về ý sẽ được 1200 công đức.
Dùng những công đức ấy mà trang nghiêm, bồi dưỡng, cải tạo sáu
căn, thì sáu căn được thanh tịnh.
Thế giới tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian.
Thế là nói về thời gian cũng có nghĩa là nói về
luật nhân quả báo ứng, sinh sinh diệt của hiện tượng vạn hữu.
Còn giới là nói về không gian cũng còn có nghĩa là
lý nhân duyên tức là tất cả mọi cấu tạo hình thành của vạn hữu
trên thế gian này là do nhân duyên hòa hợp mà có. Khi nói về
phương hướng, thông thường con người chỉ đề cập đến Đông, Tây,
Nam, Bắc. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó
là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc,
phương trên, phương dưới. Còn thời gian thì có ba đời là quá
khứ, hiện tại và tương lai. Bây giờ lấy không gian và thời gian
nhân cho nhau tức là 4x3=12. Vì có 10 phương hướng trong khi số
lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4x3=12 rồi
12x10=120.
Nhưng mỗi pháp giới hiện hữu và tồn tại với định
luật thiên nhiên của vũ trụ (không gian hòa nhiệp với thời
gian), đó là giáo lý thập (10) như thị
và sau cùng 120x10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện
cho công đức của sáu căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên,
nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau,
chẳng đồng. Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt
trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào
có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn
những căn yếu công năng.
Vậy công năng của sáu căn như thế nào?
1) Nhãn căn thì chỉ có được 800 công đức bởi vì mắt chỉ thấy
phía trước và một phần của hai bên, nhưng phía sau và phần sau
của hai bên mắt không thể thấy được. Do đó nhãn căn chỉ có được
2/3 công đức so với những căn khác. 800 công đức là cái thấy dựa
theo pháp tướng hữu vi sinh diệt. Còn cái thấy mà sáng cũng thấy
mà tối cũng thấy là cái tánh thấy tức là dựa theo pháp tánh vô
vi thanh tịnh.
2) Nhĩ căn thì có đủ 1200 công đức bởi vì cái nghe thì không
ngăn ngại bởi vật chất nên trong cũng nghe, ngoài cũng nghe, bên
trên cũng nghe, ở dưới cũng nghe. Nói chung tai có thể nghe được
âm thanh bất cứ từ nơi nào. Hễ có âm thanh là tai nghe được. Vì
thế mà đức Quán Thế Âm có thể nghe được mười phương thế giới
tiếng kêu cầu cứu đau khổ của chúng sinh. Đó là đức tính “Viên”
tức là viên mãn nghĩa là ở đâu mà có âm thanh thì tai có thể
nghe được. Đức tính thứ hai của tai là “Thông” tức là không bị
ngăn bít. Thí dụ một người đang nói chuyện ở phòng kế bên mà ở
phòng bên này chúng ta có thể nghe câu chuyện rất rõ ràng. Đức
tính thứ ba là “Thường” tức là lúc nào cũng nghe. Thí dụ như có
âm thanh thì nghe tiếng tức là nghe động. Còn không có âm thanh
thì tai nghe tĩnh. Vì thế khi tham thiền nhập định, tuy rất yên
lặng, không có tiếng động, nhưng các vị thiền sư có thể nghe rất
xa và rất rõ những âm thanh huyền diệu mà được gọi là diệu âm.
Đó là lý do tại sao về sau đức Phật chọn pháp môn nhĩ căn viên
thông của đức Quán Thế Âm Bồ-tát để chỉ dạy cho A Nan và đại
chúng tu. Đây là một pháp môn thù thắng vi diệu cho tất cả mọi
người.
Nhưng tại sao cái nghe lại vi diệu hơn cái thấy?
Thí dụ ban đêm chúng ta ngồi tỉnh tọa trong một căn phòng tối
rất yên tịnh. Vì phòng tối nên mắt không thấy gì hết, nhưng tai
thì có thể nghe tất cả. Nếu trong tâm chúng ta khởi niệm lành
thì cũng như y như nghe trong tai có ai nói lời thiện. Ngược lại
nếu tâm khởi niệm ác thì cũng y như nghe trong tai có người nói
lời ác vậy. Còn nếu chúng sinh biết chánh niệm tư duy thì cũng
như trong tai nghe được những lời dạy của Phật.
3) Tỷ căn thì có được 800 công đức bởi vì lỗ mũi chỉ có hai công
năng là thở ra và hít vào.
4) Thiệt căn lại có đủ 1200 công đức. Tại sao? Bởi vì lưỡi tức
là lời nói có công năng diễn đạt trí tuệ tột cùng của các pháp
thế gian và xuất thế gian. Ngày xưa chính đức Phật đã thuyết
pháp trong 49 năm ròng thì công đức quả thật là bất khả tư nghì.
5) Thân căn chỉ có 800 công đức vì khi đụng chạm tức là “hợp”
thì thân mới có cảm xúc. Còn nếu không có đụng chạm tức là “ly”
thì thân không có cảm xúc. Con mắt thì ngược lại, nếu để đối
tượng tiếp xúc với mắt thì mắt không thấy mà mắt thấy rõ khi nào
đối tượng phải cách xa mắt.
6) Ý căn thì có đủ 1200 công đức. Tất cả những tư tưởng phân
biệt đều do ý căn mà ra cho nên trong sáu căn thì ý căn là quan
trọng nhất. Ý căn tích lủy tất cả các pháp thế gian và xuất thế
gian mười phương ba đời, thánh phàm đầy đủ. Nếu phát tâm làm
việc thiện thì ý căn có được 1200 công đức. Ngược lại nếu làm
việc ác thì ý căn cũng có 1200 thứ tội ác. Đối tượng của ý căn
là pháp trần tức là hình bóng của những tư tưởng phát xuất từ
sắc, thanh, hương, vị, xúc xảy ra trong quá khứ mà được tâm diễn
lại y như đang xảy ra trước mắt vậy. Thí dụ những sự vui buồn từ
mấy tháng trước mà được diễn lại y như mới vừa xảy ra. Vì tầm
quan trọng của nó mà rất ít người có thể tu theo ý căn, nhưng
nếu hành giả có thể làm chủ ý căn tức là làm chủ tâm của mình
thì dễ dàng chứng ngộ.
Nói chung trong thế giới vũ trụ bao la này cũng không ngoài sáu
căn, sáu trần và sáu thức mà được gọi chung là thập bát giới.
Giới là một thế giới riêng biệt cho căn, trần và sắc. Thí dụ nói
về cái thấy chúng ta có ba giới là: một thuộc về căn là Nhãn
giới, một thuộc về trần là Sắc giới và một thuộc về thức là Nhãn
thức giới. Nói cách khác nhãn giới là căn mắt, sắc giới là vật
đối tượng như nhà cửa, xe cộ…và nhãn thức giới là cái biết của
sự thấy. Vậy 6 giới của căn: Nhãn giới, Nhĩ giới, Tỷ giới, Thiệt
giới, Thân giới, Ý giới. 6 giới của trần: Sắc giới, Thanh giới,
Hương giới, Vị giới, Xúc giới, Pháp giới. 6 giới của thức: Nhãn
thức giới, Nhĩ thức giới, Tỷ thức giới, Thiệt thức giới, Thân
thức giới và Ý thức giới. Bây giờ nếu cộng 6 giới của căn, 6
giới của trần và 6 giới của thức thì có 18 giới mà thường được
gọi là thập bát giới. Do đó Pháp sư Pháp Hoa là người có được
lục căn thanh tịnh bởi vì lục căn không hề bị sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp nhận chìm, lôi kéo. Một khi lục căn thanh tịnh thì
từ đó lục trần cũng thanh tịnh và dĩ nhiên lục thức cũng thanh
tịnh theo. Lục thức thanh tịnh thì thập bát giới cũng thanh tịnh
tức là mười phương pháp giới đều thanh tịnh hết. Đến đây thì
trong ngoài tự tại. Căn, Trần, Thức đều thanh tịnh nên tuy mắt
thấy tất cả, tai nghe tất cả, mũi ngửi tất cả, lưỡi nếm tất cả,
thân tiếp xúc tất cả và ý biết tất cả mà như không thấy, không
nghe, không ngửi, không nếm, không tiếp xúc và không biết gì
hết. Tuy như không thấy, không nghe, không ngửi, không nếm,
không tiếp xúc, không biết gì hết nhưng mà thấy, nghe, nếm,
ngửi, tiếp xúc và biết tất cả. Vì sao? Bởi vì Pháp sư Pháp Hoa
có lục căn thanh tịnh tức là đang sống với Tri Kiến Phật của
chính mình nên có thể thấu suốt cả tâm pháp, tâm sở hữu pháp,
tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp gồm 100 pháp do vậy mà
có thế thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết rất thông suốt vô ngại
tự tại.
Nếu nhìn bằng con mắt thế gian, con mắt tục đế thì 18 giới có
thể là nguyên nhân để sinh ra tội lỗi khổ đau, nhưng dựa theo
bản thể thanh tịnh mà nói thì sáu căn, sáu trần, sáu thức chính
là công cụ để đưa chúng sinh chứng đạo quả Bồ-đề. Tại sao? Bởi
vì bản tánh của sáu căn, sáu trần và sáu thức là thanh tịnh bản
nhiên chớ không phải là nguyên nhân của tội lỗi khổ đau. Mà thật
ra nguyên nhân khiến con người có phiền não khổ đau là vì họ
không làm chủ được sáu căn của mình để cho nó tha hồ chạy theo
sức quyến rũ của sáu trần làm cho tham-sân-si đua nhau phát
khởi khiến tâm mê muội mà biến cuộc sống thành điên đảo khổ đau,
sa hầm sụp hố. Thí dụ cũng chai rượu đó, nếu con người biết làm
chủ sự tham muốn của mình nên tuy thấy rượu mà không uống. Mà
không uống thì không say. Còn người khác thấy rượu là nhào vô,
chén tạc chén thù nên say sưa, ói mửa, mất cả nhân tính, làm khổ
cho mình và cho người. Nói thế thì căn thấy (con mắt) đâu có tội
lỗi gì, ngay cả rượu cũng chẳng có tội lỗi xấu xa gì, nhưng nếu
con người không làm chủ được căn thấy để cho sự quyến rũ của
rượu mê hoặc tâm nên không còn làm chủ được tâm mình thì kết quả
mới tai hại. Do đó người xưa có câu:”Hoa bất mê nhơn, nhơn
tự mê” và “Tửu bất túy nhơn, nhơn tự túy”
nghĩa là bản chất của hoa là thanh tịnh nên hoa đâu có mê hoặc
con người, nhưng con người không kiềm chế lòng tham hoa đắm sắc
của mình nên mới say hoa đắm sắc, thích loài hoa này chê loài
hoa khác khiến tâm chất đầy phân biệt phiền não.
Vì thế đức Phật mới dạy rằng :
“Dù chiến thắng vạn quân ở chiến trường không bằng chiến
thắng chính mình vì đó là chiến thắng cao thượng nhất”.
Ở Hoa Kỳ không ai lạ gì với anh chàng Tiger Wood, một tay vô
địch đánh golf trong những thập niên qua. Cuộc sống đang thuận
buồm xuôi gió, thì đùng một cái sóng gió ba đào, nổi trận cuồng
phong cũng chỉ vì anh hùng lụy về nạn thuyền uyên. Chính cuộc
sống tình dục thiếu đạo đức của anh ta đã giết chết cuộc đời
đánh golf mà tệ hại hơn nữa là giết chết tình cảm và niềm tin vợ
chồng làm cho gia đình thiếu hạnh phúc, dễ tan vở. Tổng thống
Bill Clinton lúc còn làm tổng thống đã dan díu với cô Monica
Lewinski trong văn phòng tòa bầu dục làm cho tên tuổi bị chôn
vùi. Ngay cả tổng thống George W Bush có thói quen nhâm nhi rượu
làm thay đổi nhân cách bởi vì rượu vô thì lời ra, không ai chịu
đời nổi ngay cả bà vợ Laura hăm ly dị ông mới thức tỉnh bỏ rượu.
Ngày xưa, đức Lão Tử có dạy rằng :
§
“Ngô hữu đại loạn, vị ngô hữu thân,
§
Ngô nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?”
Dịch là :
o
Ta có nhiều cái khổ, vì ta có thân
o
Nếu ta không có thân thì đâu có khổ gì?
Dựa theo lời dạy của Lão Tử thì hễ có thân là có khổ, nhưng nghĩ
kỹ lại, cũng trong thế giới này, đức Phật và các đệ tử của Ngài
cũng mang thân tứ đại như tất cả chúng sinh mà tại sao các Ngài
lại có Bồ-đề, Niết bàn? Các Ngài cũng có mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ý như tất cả mọi chúng sinh nhưng tại sao tâm các Ngài
lúc nào cũng an lạc và thường trụ Niết bàn? Cái khác nhau giữa
Phật và chúng sinh là Phật luôn làm chủ sáu căn của mình, không
bao giờ để cho nó chạy theo khách trần phiền não tức là tham đắm
dục tình nên tâm hoàn toàn thanh tịnh, không dính mắc. Ngược lại
chúng sinh thấy sắc thì mê, nghe âm thanh thì thích, ngửi hương
thì yêu cho nên cuộc đời mới khổ. Khổ là vì con người mời khách
trần vào tâm hay ta không làm chủ được sáu căn của mình chớ cái
khổ không bao giờ tự nó tìm đến hay có được. Do đó Lão Tử nói
rằng hễ là con người có thân thì có khổ là không đúng với chân
lý.
Tóm lại, nếu chúng sinh để sáu căn tha hồ chạy theo sáu trần thì
chắc chắn sẽ bị lục tặc hoành hành quấy nhiễu. Ngược lại, khi
con người nghe kinh Pháp Hoa tức là biết sống với Tri Kiến Phật
của chính mình thì sáu căn bây giờ trở thành thanh tịnh đầy đủ
công đức.
v
1) Nhãn căn công đức: Đôi mắt thịt cha mẹ sinh ra, khi thanh
tịnh, thì thấy được tất cả núi rừng, sông biển trong ba ngàn đại
thiên thế giới, thấp đến địa ngục A-tỳ, cao đến cõi trời hữu
đảnh, cũng thấy được các chúng sanh trong các thế giới ấy, cùng
những nghiệp nhân, nghiệp quả và những nơi sanh do quả báo
định. Tất cả những sự việc ấy đều thấy, đều biết với đôi mắt
thanh tịnh của mình.
Thông thường con người dùng đối mắt thịt để nhìn thỉ cái nhìn đó
có giới hạn bởi không gian. Đó là có lúc chúng ta nhìn xa, nhưng
phần lớn chỉ nhìn những đối tượng gần. Tại sao? Bởi vì nhãn căn
bị ngăn ngại nên con người không thể sử dụng hoàn toàn tánh thấy
của mình. Bây giờ nếu nhận biết Tri Kiến Phật của mình khiến
nhãn căn trở thành thanh tịnh thì cái thấy sẽ không còn ngăn
ngại cho nên tuy không thể thấy xa như Thiên nhãn thông mà thấy
rất thâm sâu, thấy rõ ràng, thấy được tự tánh của vạn pháp. Đừng
nên hiểu rằng trời là ở xa xôi mấy trăm triệu cây số ở trên
không hay địa ngục là phải chui tận vào lòng quả địa cầu. Pháp
Hoa là kinh tối thượng thừa nên phải hiểu rằng khi tâm nhẹ nhàng
thanh thoát thì nhìn thế giới trước mắt ta là cảnh giới tuyệt
đẹp của thiên đình. Ngược lại nếu trong tâm chứa toàn là cực
tham, cực sân, cực si thì thế giới ta đang sống sẽ biến thành
địa ngục A tỳ, âm u đen tối chớ tìm đâu ra địa ngục, thiên
đường.
Trong kinh Lăng Nghiêm có câu chuyện của Tôn giả A Na Luật chứng
đắc nhãn căn viên thông. Tánh thấy (kiến tánh) thì lúc nào cũng
thường diệu, thường minh, nương theo con mắt mà phát ra cái dụng
thấy sắc gọi là nhãn căn. Tánh thấy vốn đã diệu minh cho nên
kiến dụng thì lúc nào cũng minh cũng diệu. Con người thường có ý
nghĩ sai lầm là cái thấy là do con mắt mà có thấy tức là mở mắt
là thấy còn nhắm mắt là không thấy hay có sắc trần là có thấy và
không có sắc trần thì gọi là không thấy. Khi tánh giác diệu minh
viên dung cùng khắp tác động vào con người trở thành minh giác
nên tánh viên dung cùng khắp trở thành ngăn ngại. Thí dụ mắt
thấy không ngoài sống mũi, tai tuy không bị kẹt tường kẹt vách
nhưng cái nghe đâu có xa. Trong đoạn kinh trước, Phật gạn hỏi
ông A Nan về cái thấy là tâm hay con mắt? Phật sau đó dạy rằng:
“Tâm thấy chớ không phải mắt thấy”. Vì thế có mắt không tâm,
không thành có thấy, có tâm không mắt cũng thấy khắp mười
phương. Đây là pháp môn “Lạc kiến chiếu minh kim cương tam muội”
tức là tánh thấy (kiến tánh) thì lúc nào cũng soi sáng, xưa nay
không hề lay chuyển nên gọi là Kim Cương tam muội. Ông A Na Luật
nương vào những lời Phật dạy, đi sâu vào bản tánh của nhãn căn
chứng được tánh viên thông thì cái sáng suốt của tự tâm xuất
hiện khiến ông thấy thấu suốt mười phương mà không có gì ngăn
ngại. Nhờ đó ông đạt được thiên nhãn thông thấy được tam thiên
đại thiên thế giới như thấy quả quít trong bàn tay, chứng quả A
la hán, tự tại Niết bàn.
Dựa theo Duy thức luận thì cái thấy của mắt tức là nhãn thức
không có sự phân biệt nên con người không biết rõ đối tượng mình
mới thấy là gì nên cái thấy cần phải chuyển qua ý thức mà Duy
thức gọi là “Nhãn câu ý thức” thì lúc đó chúng ta
mới thấy biết rõ ràng đối tượng đó là gì. Thí dụ thấy một vật
trên bàn, nhưng không biết đó là vật gì. Bây giờ nhãn thức
chuyển sang ý thức để phân biệt thì biết ngay vật đó là cái ly.
Tuy đơn giản, nhưng cơ năng này rất nhạy bén mà con người không
để ý đến. Ngược lại người tâm trí bất thường nghĩa là cơ năng
của ý thức không còn hoạt động bình thường thì họ cũng nhìn cái
ly trên bàn nhưng không cách nào nhớ nổi đó là cái gì. Những
người bị bệnh Alzheimer’s disease thì họ cũng nhìn đứa con đứng
trước mặt họ, nhưng không cách nào biết đó là con ruột của mình
vì một phần trong hệ thống nảo thần kinh về ý thức đã bị hư.
Nhưng ở đây nhãn căn thanh tịnh không phải là
Thiên nhãn thông mà là do hằng sống với Tri Kiến Phật của chính
mình cho nên cái thấy nơi mắt nhờ thế mà thanh tịnh. Vậy chúng
có sự khác biệt chăng? Thiên nhãn là khả năng nhìn xa như một
viễn vọng kính có thể nhìn thấy một ngôi sao, một hành tinh hay
mặt trăng của hành tinh nào đó trong vũ trụ. Trong khi nhãn căn
thanh tịnh thì không thể nhìn xa như vậy được mà thấy rất sâu.
Tuy không thể thấy được những vì tinh tú ở những dãy Ngân Hà
khác, nhưng nhãn căn thanh tịnh giúp hành giả nhìn thấu được vào
tự tánh của sự vật. Đây không phải là cái thấy thông thường mà
gọi là Pháp nhãn để nhận thức được tánh vô sanh vô diệt của vạn
vật trong thế gian này. Thí dụ khi nhìn một nụ hoa thì làm sao
biết được tánh vô sanh của nó? Khi nhìn đóa hoa mới nở thì chắc
chắn là nụ hoa sanh và vài tuần sau, hoa tàn thì nói rằng nụ hoa
diệt. Nhưng đây chỉ là cái nhìn thiển cận của phàm nhân, còn cái
nhìn của người có Pháp nhãn là ngay trong lúc nụ hoa mới nở thì
cái sinh đã có diệt trong đó rồi. Ngược lại trong lúc nó tàn úa
thì họ lại nhìn cái diệt là bắt nguồn cho cái sinh khác. Vì thế
đối với người có Pháp nhãn thì hoa tươi hay hoa tàn đều chứa
đựng được tất cả những công đức, những hiện tượng nhiệm mầu của
thế gian vũ trụ. Tóm lại, dưới con mắt người đã thọ trì kinh
Pháp Hoa nhìn vào đâu thì thấy được thọ lượng của Phật tới đó và
dĩ nhiên cũng thấy được tánh chất bất sinh bất diệt của sự vật
tới đó.
v
2) Nhĩ căn công đức: Đôi tai cha mẹ sanh ra, khi thanh
tịnh, nghe được tất cả các thứ tiếng khắp ba ngàn đại thiên thế
giới, như:
ü
Tiếng voi, ngựa, trâu, xe (thú vật).
ü
Tiếng khóc la, buồn than.
ü
Tiếng trống, tiếng loa, chuông lớn, chuông nhỏ.
ü
Tiếng cười , tiếng nói.
ü
Tiếng trai, tiếng gái, tiếng con nít, nam nữ.
ü
Tiếng pháp, tiếng chẳng phải pháp.
ü
Tiếng khổ, tiếng sướng.
ü
Tiếng phàm phu, tiếng thánh nhân.
ü
Tiếng đáng vui, tiếng chẳng đáng vui.
ü
Tiếng trời, tiếng rồng, tiếng các hàng A-tu-la.
ü
Tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió.
ü
Tiếng địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
ü
Tiếng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát, Phật.
Tóm lại, tuy chưa được thiên nhĩ, nhưng với đôi tai của cha mẹ
sanh ra mà thanh tịnh thì tất cả các thứ tiếng trong ngoài ba
ngàn đại thiên thế giới đều nghe được và phân biệt từng loại
nhưng không vì đó mà “ nhĩ căn” bị hư hoại.
Khi tâm thanh tịnh, đang sống với Tri Kiến Phật thì cái nghe ở
nơi tai cũng thanh tịnh, không còn bị giới hạn cho nên có thể
nghe tất cả tiếng ở khắp mọi nơi. Nhĩ căn thanh tịnh không có
phải là chứng đắc Thiên nhĩ thông vì Thiên nhĩ thông là do tu
chứng còn nhĩ căn thanh tịnh là do hằng sống với Tri Kiến Phật
của mình. Thế nào là nhĩ căn không bị hư hoại? Đối với người
sống với lục căn thanh tịnh thì họ vẫn còn nguyên mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý như lúc cha mẹ mới sinh ra chớ đâu có thêm bớt
gì. Chính đức Phật đã được Vô thượng Niết bàn, Vô thượng Bồ Đề
thế mà lục căn của Ngài vẫn nguyên vẹn như xưa, không hề có thay
đổi. Cũng mắt đó, tai đó, mũi đó mà sau khi chứng đạo Ngài thấy
biết nghe ngửi tất cả đều thanh tịnh. Vì thế đừng nghĩ rằng sau
khi thành đạo, lỗ tai đức Phật dài thêm vì Ngài đã có 32 tướng
tốt và 80 vẽ đẹp khi vừa mới đản sinh. Nói chung khi nhĩ căn đã
thanh tịnh rồi thì nghe cái gì cũng mầu nhiệm và nghe rất rõ
ràng sâu sắc tiếng chánh tà, thị phi, phải quấy. Nhĩ căn thanh
tịnh không phải là Nhĩ căn viên thông vì nhĩ căn thanh tịnh là
do công đức chuyển hóa lỗ tai để nghe cho được sâu sắc trong khi
đó nhĩ căn viên thông là pháp môn tu chứng bởi tánh nghe.
Khi nói về Nhĩ căn thì trong kinh Lăng Nghiêm có phẩm Nhĩ căn
Viên thông của đức Quán Thế Âm và kinh Pháp Hoa có phẩm Quán Thế
Âm Bồ Tát Phổ Môn. Đó là nhắc nhở chúng sinh hãy quay về lắng
nghe âm thanh mầu nhiệm ở trong lòng của chúng ta. Đối tượng âm
thanh này không còn tùy thuộc thanh trần bên ngoài mà phát khởi
từ tánh nghe thanh tịnh mầu nhiệm từ trong bản tâm mà có. Tánh
nghe thì lúc nào cũng có, có âm thanh thì nghe tiếng còn không
có âm thanh thì vẫn nghe tỉnh chớ không phải không nghe gì hết.
Tóm lại, pháp tu “phản văn văn tự tánh” hay được gọi là “Tự tánh
bổn định” của Ngài Quán Thế Âm là dùng nhĩ căn để tu. Một khi
thực hành lối tu này, hành giả tuyệt đối phải chấm dứt tất cả
mọi tri giải tức là sự hiểu biết, suy luận, không nên bận tâm
vào bất cứ vấn đề gì để giữ cho thân tâm được thanh thản an
nhiên. Hành giả phải định tâm trong pháp giới tánh vô vùng vô
tận của tánh nghe mà không được quan tâm đến mọi hiện cảnh trước
mắt cũng ở như trong tâm. Khi đã cô động ở tánh nghe thì tất cả
những hiện tượng ngoại cảnh không còn chi phối được nữa. Nói
cách khác hành giả phải diệt hết tâm thức để chỉ còn duy nhất
tánh nghe bởi vì tâm thức và tánh nghe cũng ví như tấm gương và
hình ảnh rọi vào. Khi thức phát khởi thì gọi là nhớ biết cũng
như hình ảnh hiện vào tấm gương và khi thức diệt thì gọi là quên
cũng như hình ảnh mất đi. Tuy hình ảnh có đến, có đi nhưng ánh
gương không bao giờ mất. Vì thế tâm thức có thay đổi nhưng tánh
nghe không hề gia giảm. Khi hành giả nắm được thể tánh chiếu
diệu của tánh nghe thì tiếp tục khởi công tu luyện “vi mật quán
chiếu” nghĩa là xoay tánh nghe về nghe được tiếng nói của bản
tâm thanh tịnh nhiệm mầu “Diệu Âm”. Nên nhớ tự tánh bổn định là
cái định sẵn có, thường hằng, không ngoài tự tánh bất động, viên
dung. Đây mới thật là một pháp môn thù thắng vi diệu cho tất cả
mọi người đang đi trên con đường giải thoát giác ngộ.
(Nên đọc phẩm Quán Thế Âm Nhĩ Căn Viên Thông trong sách Thủ Lăng
Nghiêm cùng tác giả để hiểu thêm).
v
3) Tỷ căn công đức: Thọ trì Kinh Pháp Hoa thì mũi được thanh
tịnh, nhờ đó mà “ nghe” được các thứ mùi trong ba ngàn đại thiên
thế giới và phân biệt được:
ü
Mùi các thứ hoa tu-mạn-na, xà-đề, mạt-lợi vv…
ü
Mùi các thứ hoa sen xanh, vàng, trắng, đỏ.
ü
Mùi cây có hoa, mùi cây có trái.
ü
Mùi các thứ hương.
ü
Lại rõ biết các thứ mùi chúng sanh như:
ü
Mùi thú vật (voi, ngựa, dê, trâu …)
ü
Mùi trai, gái, rừng bụi, hoặc xa hoặc gần.
ü
Các mùi cây, hoa trên trời.
ü
Mùi nhân dân cõi trời ở các cung điện hưởng phước,
hoặc ở diệu pháp đường nói pháp, hoặc khi dạo chơi.
ü
Lại cũng nghe được:
ü
Mùi hương của chư thiên đốt.
ü
Mùi Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát và Phật.
“Nghe” nhiều như thế, nhưng tỷ căn không bị hư và không lầm
lộn. Nếu muốn phân biệt nói cho người khác nghe thì ghi nhớ
không sai.
Người mà hằng sống với tâm thể thanh tịnh tức là Tri Kiến Phật
của mình thì có tỷ căn thanh tịnh. Khi mũi đã thanh tịnh thì
người đó có thể biết được tất cả các mùi xa gần mà mũi bây giờ
không còn giới hạn cho nên có thể biết cùng khắp. Mũi thanh tịnh
bởi vì tâm thể thanh tịnh nên mũi không còn chạy theo những phạm
trù đối đãi nhị nguyên nghĩa là mũi có thể ngửi tất cả hương vị,
nhưng tâm không hề đắm nhiễm, không chạy theo hương nên không
khổ vì hương. Vì thế cái vô minh bất giác phát xuất từ trong bản
tâm để sai sử con người chạy theo trần cảnh chớ thế gian không
có cái gì là tội lỗi xấu xa cả cho nên nếu chúng sinh biết sống
trong tỉnh thức chánh niệm, biết làm chủ tâm mình thì cũng thế
gian này cuộc sống của người thức tỉnh sẽ rất an vui tự tại,
chấm dứt khổ đau.
v
4) Thiệt căn công đức: Trì kinh Pháp Hoa thì lưỡi được thanh
tịnh, nhờ đó mà:
ü
Cuối cùng không thọ ác vị.
ü
Tất cả các thức uống, ăn, xấu tốt, ngon dở, đắng chát đều biến
thành vị ngon ngọt như cam-lộ.
ü
Thuyết pháp nói đến chỗ thâm diệu, thấu đến tâm người nghe,
khiến họ vui mừng sướng
thích và cảm hoá được chư Thiên và A-tu-la, hàng tu hành giàu
có, sang trọng.
ü
Vì khéo nói Pháp nên được hàng quyền quí, nhân dân theo hầu cúng
dường và được chư Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, Phật ưa thấy và
người nói pháp khéo ấy ở đâu thì được chư Phật xoay về phía đó
mà nói pháp, nương đó mà có khả năng thọ trì tất cả các pháp
Phật, lại có thể nói ra tiếng pháp thâm diệu.
Khi nói về thiệt căn tức là nói về vị. Người Tây phương thì dựa
vào bốn cảm giác vị căn bản là mặn, ngọt, chua, đắng trong khi
quan niệm của người Á châu thì có vị mặn, ngọt, chua và cay. Các
tế bào tiếp nhận vị của con người nằm trên bề mặt của lưởi và có
khoảng 10,000 taste buds. Dựa theo sự phân tích của khoa học thì
có vị: mặn, ngọt, chua, đắng, umami, béo, canxi, chát, tanh, cay
(nóng), the mát, tê, kokumi (chứa chất rượu) và nhiệt độ (nóng
hay lạnh).
Bây giờ nếu chúng sinh hằng sống với Tri Kiến Phật của chính
mình thì thiệt căn sẽ thanh tịnh nghĩa là tuy lưỡi có nếm những
mùi vị như chua cay mặn chát thì tâm thanh tịnh sẽ biến thành
cam lộ ngọt ngào mát mẽ. Tại sao? Bởi vì thông thường khi lưỡi
nếm bất cứ mùi vị gì thì tâm liền phân biệt cho nên mùi ngon
ngọt thì thích, muốn ăn cho thật nhiều còn mùi cay đắng thì chán
ghét muốn nhả ra. Ngược lại người có tâm thanh tịnh thì tâm
không còn phân biệt đối đãi nhị nguyên, không chạy theo món này
chê món kia, vị nào cũng ngon ngọt nên tâm không còn chê bỏ. Vì
thế người biết đạo thì ăn để sống, không chê không khen, không
chạy theo mùi vị nên rất tự tại. Ngược lại phàm nhân thì chạy
theo món ngon, chê bai món dở,
vui buồn lẫn lộn nên tâm không tự tại.
Một khía cách khác của thiệt căn là nói. Con người vì tâm còn
chấp bên này bên kia, còn phân biệt thiện ác thân sơ, trong chấp
ngã ngoài chấp pháp nên lời nói không có chánh ngữ. Do đó lời
nói của chúng ta có người thích có người không thích. Ngược lại
người hằng sống với Tri Kiến Phật thì có thiệt căn thanh tịnh
nghĩa là lời nói đó đúng với Chánh pháp, đúng với chân lý, không
nói sai lệch dựa theo thiển ý, không nói sai, không nói dối,
không thiên bên này bên kia rất bình đẳng cho nên ai nghe
cũng thích. Ngay cả quỷ thần, hạng quyền quý, nhân dân cho đến
hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật đồng tới nghe và
hướng về vị đó.
v
5) Thân căn công đức: Trì Kinh Pháp Hoa, sau khi Phật diệt độ
thì thân được trong sạch như ngọc lưu ly, làm cho chúng sanh ưa
nhìn xem. Như mảng gương sáng, thân ấy là thân thanh tịnh của
Bồ-tát, trong đó có các sắc tượng đều hiện mà chỉ riêng mình
thấy mà thôi. Các sắc tượng ấy hoặc là tất cả chúng sanh trong
sáu nẻo luân hồi, hoặc cung điện trên các cõi trời, hoặc địa
ngục, hoặc Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, Phật.
Tuy chưa được “ Vô lậu pháp tánh diệu thân” nhưng nhờ thanh
tịnh, cho nên tất cả đều hiện được trong cái nhục thân đó.
Ở đây thân căn thanh tịnh thì cũng thế. Nếu chúng sinh hằng sống
với Tri Kiến Phật của chính mình thì tâm thanh tịnh sáng suốt.
Nhưng Bát Nhã Tâm Kinh dạy rằng “tâm tức là thân và thân là tâm”
cho nên tâm thanh tịnh thì thân cũng sẽ được thanh tịnh bởi vì
thân tâm bất tức bất ly. Albert Einstein khám phá ra phương
trình về năng lượng E= mc2 nghĩa là năng lượng tức
là “không” cũng có thể là tâm có thể biến thành vật chất tức là
“sắc” và ngược lại. Thí dụ một người thanh tịnh sáng suốt nên
thân cũng khinh an, nhẹ nhàng cơ thề hoạt động theo đúng nhịp
địu nên ít đau bệnh. Ngược lại một người lo rầu, buồn khổ thì
thân cũng u tối dã dượi nên dễ sinh ra biến chứng bệnh tật. Ngày
xưa chính đức Phật và các vị A la hán tâm lúc nào cũng thanh
tịnh nên thân của họ rất khinh an không còn bệnh tật. Sau khi
thành đạo đức Phật bèn đến vườn Nai để chuyển bánh xa pháp cho
năm anh em ông Kiều Trần Như. Trong khu rừng Lộc Uyển khi năm vị
tu khổ hạnh nhận ra Thái tử Tất-đạt-đa đang tiến về phía họ thì
tất cả đồng lòng bảo nhau cứ giả ngơ như không nhìn thấy. Dưới
mắt họ Tất-đạt-đa chỉ là một con người quá đỗi tầm thường, một
con người yếu đuối, "một kẻ đã bỏ cuộc, tham ăn, bị mê hoặc
bởi sự ham muốn" (kinh Phổ
Diệu).
Sau đó, năm vị tu khổ hạnh ngồi thành một vòng tròn và đưa lưng
ra ngoài. Tuy trong lòng khinh ghét nhưng họ vẫn cứ liếc xem
thái độ và phản ứng của Tất-đạt-đa ra sao. Thế nhưng khi đức
Phật tiến đến gần hơn thì bỗng dưng họ cảm thấy bàng hoàng và vô
cùng kinh ngạc: Đức Phật hiện ra thật uy nghi, thanh thản và
tinh khiết... Một sự chấn động sâu xa làm rung chuyển tâm thức
họ, tất cả năm vị bỗng nhiên đều đồng loạt đứng bật dậy để đảnh
lễ đứcThế Tôn.Thế thì thân do cha mẹ sinh ra, nhưng khi tâm đã
thanh tịnh thì thân cũng thanh tịnh trong sáng như lưu ly khiến
người đời hâm mộ. Người có lục căn thanh tịnh khi nghe lời nói
thì biết rõ lời nào là của Phật, lời nào là của Bồ Tát, Thanh
Văn, Duyên Giác hay của chư thiên thậm chí nhận biết ngay ngôn
từ nào là của súc sanh, địa ngục A tỳ hiện rõ trong thân thanh
tịnh của họ. Thí dụ có một người đang nói về một đề tài nào đó,
nếu bạn có lục căn thanh tịnh thì bạn sẽ biết rất rõ, nghe rất
sâu sắc câu chuyện đó thuộc loại gì. Nó có phải ngang bằng với
tư tưởng của các Thánh nhân, hoặc nó ngang bằng với tư tưởng
thanh thản của các vị trời hay càng nghe nó càng nhận chìm vào
trong thế giới u minh. Vì thế đối với người có lục căn thanh
tịnh thì tất cả những hiện tượng của thế gian sẽ hiện rất rõ
trong thân thanh tịnh của họ.
v
6) Ý căn công đức: Sau khi Phật diệt độ mà trì Kinh Pháp Hoa thì
được ý căn thanh tịnh. Dùng ý căn thanh tịnh đó mà nghe một bài
kệ, một câu kinh cũng đủ thấu suốt vô lượng nghĩa, hiểu rõ diễn
nói cả tháng, cả năm, cũng được; mỗi pháp nói ra có thể có những
thú riêng nhưng tất cả đều nói đúng với “ Thật Tướng”. Thậm chí
khi bàn nói đến sách vở ngoài đời, cách xử thế tiếp vật hay nghề
nghiệp sanh nhai, cũng vẫn thuận với chánh pháp. Lại nữa còn
biết được những hành động, lời nói đùa trong tâm của sáu đường
chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới.
Đoạn kinh này nói rằng người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa thì
được ý căn thanh tịnh nhờ đó họ có thể nhớ và diễn nói lại hết
những gì họ đã học qua. Đó là thanh tựu tứ vô ngại biện tài:
ü
Pháp vô ngại
: Khi đã thành tựu trí tuệ thì nhìn vạn pháp thấy cái gì cũng
đúng với chân lý nên khi thuyết pháp biến tất cả các pháp trở
thành Phật pháp. Thí dụ như khi thấy lá rụng, tuyết rơi thì nghĩ
ngay đến sự tạm bợ, vô thường.
ü
Nghĩa vô ngại :
là biết đúng nên nói đúng, nói chánh ngữ, đúng nghĩa, không sai
chân lý.
ü
Từ vô ngại
: là lời nói trôi chảy, không ngăn ngại.
ü
Lạc thuyết vô ngại
là càng nói càng thêm phấn khởi, dồi dào phong phú chớ không bao
giờ bị bế tắc.
Khi đã thành tựu tứ
vô
ngại biện tài thì họ có thể diễn nói một bài kệ ngắn thành ra vô
lượng nghĩa, nói rất lâu và rất thâm sâu ý nghĩa của bài kệ đó.
Ngay cả những chuyện thế gian mà họ diễn thành Phật pháp rất đạo
vị. Tại sao lại thần điệu như thế? Bởi vì tâm thanh tịnh có
nghĩa là người đó lúc nào cũng sống trong tỉnh giác nên tất cả
các căn mắt, tai, lưỡi, mũi, thân và ý đều thông suốt nên họ có
đủ công năng chuyển tà thành chánh, chuyển ác thành thiện.
Trong sáu căn thì ý căn là chủ động để tác động với năm căn còn
lại và từ đó mới có sự phân biệt đối đãi nhị nguyên tức là có
tốt xấu, phải quấy, thân sơ…rồi sau cùng sinh ra buồn giận,
thương ghét mà tạo ra tội nghiệp. Vì vậy ý căn là chủ động và
linh hoạt nhất nên đứng về mặt kiến tạo phước đức thì nó đứng
đầu, nhưng về khía cách tội nghiệp thì nó cũng là yếu tố chính
cho nên đối với Phật giáo Đại thừa hay Nguyên thủy thì khi tu
phải lấy nơi ý mà tu, không để nó sai sử tác tạo tội nghiệp thì
mới liễu sanh thoát tử được.
Trong kinh A-hàm, đức Phật có giảng như thế này :
-Khi tâm thức được kiểm soát, nó sẽ giống như một khối đá nằm
phơi ra bốn hướng : khối đá nằm giữa sân, dù mưa có rơi cũng
không làm cho nó tan ra được, dù mặt trời nung nóng cũng không
làm cho nó chảy ra được, dù gió có thổi cũng không nhấc bổng nó
lên được.
Một tâm thức được kiểm soát sẽ giống như khối đá ấy.
Dầu chưa đặng trí tuệ vô lậu, nhưng ý căn thanh tịnh thì tất cả
suy nghĩ, tính lường lời nói đều đúng với lời Phật dạy, không
chỗ nào là không chân thật và đúng với lời nói của chư Phật
trong quá khứ.
Tóm lại, phẩm Công Đức Pháp Sư này một lần nữa xác định rằng
người biết xoay về sống với Tri Kiến Phật của chính mình và luôn
nhắc nhở cho chúng sinh biết họ cũng có Tri Kiến Phật thì sáu
căn sẽ được thanh tịnh. Nhưng ở đây sự thanh tịnh của sáu căn
không phải do tu chứng như các vị A la hán để có lục thông viên
dung tự tại. Mà cái diệu dụng là ngay ở nơi thân do cha mẹ sinh
ra đó mà cái thấy, nghe, nếm, ngửi, xúc và biết được tất cả mà
không còn giới hạn riêng cho từng căn. Tại sao lại được sự diệu
dụng như vậy? Bởi vì sống với Tri Kiến Phật tức là quay về với
bản thể chân như mà bản thể là chân không nên không còn giới
hạn, ngăn ngại, dung thông cùng khắp. Mắt thấy sắc, tai nghe âm
thanh, lưỡi nếm mùi vị, mũi ngửi hương vị, thân tiếp xúc với vật
chất và ý tiếp xúc với pháp trần. Nếu những cái thấy biết đó
chưa khởi sự phân biệt tốt xấu, ngon dở, thương ghét…thì tất cả
những cái thấy biết đó bình đẳng tức là họ đang sống với tánh
của nó. Tánh thấy, tánh nghe, tánh biết…là cửa ngỏ của chơn tâm
vì thế trong kinh Lăng Nghiêm dạy rằng chỉ cần tu một căn cho
thanh tịnh thì năm căn còn lại sẽ thanh tịnh theo. Khi đã sống
thật với chơn tánh (tánh nghe, tánh thấy…) của mình tức là Tri
Kiến Phật hiện rõ nơi sáu căn và cái biết của sáu căn bây giờ
phát ra từ tánh giác tức là Tri Kiến Phật mà không cần phải tu
chứng mới đạt được.
Vì thế nếu từ một căn mà nhận ra tánh giác của mình tức là trở
về sống với Tri Kiến Phật tức là ngộ dược chơn tâm, Phật tánh
đó.
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những
nghiệp duyên từ trong những đời quá khứ mà kiến tạo ra con người
trong kiếp nầy. Do vậy con người chỉ là sự kết hợp, tạo thành
của ngũ uẩn bởi vì uẩn có nghĩa là tích tụ thành một khối. Nói
một cách dễ hiểu là thân thể con người gồm có hai phần là thân
xác và tâm linh. Phần thân xác có hình dáng nên gọi là sắc uẩn
còn phần tâm linh vì không có hình sắc nên gọi là danh và bao
gồm thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Vậy ngũ uẩn là một
danh từ dùng chỉ cho con người hay nói một cách rộng rãi là chỉ
cho toàn thể nhân sinh vũ trụ.
1)Trước hết, sắc uẩn chính là sự kết tụ, chất chứa của
vật chất để tạo ra những hình tướng như thân thể và cảnh vật.
Sắc uẩn gồm có năm căn và sáu trần. Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi và
thân thể. Còn lục trần thì có:
ü
Thanh trần: tiếng mà tai nghe được.
ü
Hương trần: hương vị do mũi ngửi được.
ü
Vị trần: mùi vị do lưỡi nếm được.
ü
Xúc trần: cảm xúc do thân biết được.
ü
Pháp trần: đây là cảnh biết của ý thức và chỉ được nhận biết từ
trong nội tâm mà thôi.
Các yếu tố do bốn đại tạo ra thuộc về sinh lý như: mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân; các đối tượng của giác quan như: hình sắc, âm
thanh, mùi vị, vật xúc chạm. Khi tứ đại kết hợp thì chúng ta có
hình dáng và nếu không nhìn bằng cặp mắt trí tuệ thì chúng ta sẽ
thêm vào cái hình dáng đó là Tôi, của Tôi, đàn ông, đàn bà…Do ý
niệm sai lầm này khiến sự dính mắc phát sinh trong tâm ta. Như
vậy yếu tố vật chất là thân thể hay ngoài thân thể, thuộc vật
chất hay năng lượng, thuộc thời gian hay không gian đều bao hàm
trong sắc uẩn. Thân thể là sắc uẩn, vì vậy chúng không phải là
một thực thể độc lập mà là một hợp thể vật chất biến động và mâu
thuẫn như mảng bọt trên mặt nước hay nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy thân
tứ đại chỉ là những bọt vật chất tạm bợ. Thân thể muốn tồn tại
phải nương vào các duyên bên ngoài như ánh sáng mặt trời, thức
ăn thức uống, không khí, nhà cửa, xe cộ...vì thế thân tứ đại là
vô thường, vô ngã tức là Không.
Vì vậy bất cứ sự chấp thủ, tham ái thân thể (sắc uẩn), hoặc bất
cứ một đối tượng vật lý, sinh lý nào cũng đều tiềm ẩn nguy cơ
đau khổ cho nên đức Phật đã dạy rằng “Ai cho rằng sắc uẩn
là Ta, là của Ta, là tự ngã của Ta thì chắc chắn gặt hái đau
khổ, thất vọng, sầu muộn, vấp ngã và tai nạn”.
2)Thọ uẩn:
là sự tiếp nhận của lục trần bởi lục căn. Chẳng hạn như khi tai
nghe một bản nhạc thì cảm nhận được cái vui hay cái buồn của bản
nhạc đó. Khi tay nhận món quà của người trao tặng thì cảm thấy
vui, nhưng nếu tai nghe những lời khiếm nhã thì lòng cảm thấy
buồn. Miệng ăn món ngon vật lạ thì cảm thấy sung sướng vì hương
vị thơm ngon của nó. Tay rờ một tấm áo lông thì cảm thấy mềm mại
êm ái. Do đó thọ là sự tiếp nhận cái vui hay cái buồn của thế
gian bởi vì lục căn tự nó không có thọ chẳng hạn như chính cái
lưỡi không có mùi vị nhưng khi nếm thức ăn ngon thì sinh ra
khoái khẩu tức là lạc thọ nên muốn ăn món ngon và chê món dở.
Trong Phật giáo, thọ được chia làm ba loại: lạc thọ, khổ thọ và
vô ký thọ.
ü
-Lạc thọ là cảm nhận được cái vui, cái sung sướng ở thế gian nầy
do sự tiếp xúc mà ra.
ü
-Khổ thọ là cảm nhận sự đau khổ hay bất hạnh do cuộc đời đưa
đến.
ü
-Xả thọ hay vô ký thọ là không vui cũng chẳng buồn. Lúc nào cũng
vậy thôi.
Trước sau như một. Thí dụ mắt thấy đối tượng nào đó mà lòng vẫn
dửng dưng, chẳng vui mà cũng chẳng buồn.
Vì những cảm giác của thân và tâm sinh diệt bất thường có nghĩa
là chúng không ở mãi một trạng thái nào cố định ở trong tâm cho
nên mới thấy vui thì nỗi buồn đã đến hay buồn vui lẫn lộn là
vậy.
Đối với người tu Phật thì cần phải hiểu chữ “thọ” cho sâu
rộng. Khi lục căn tiếp xúc với lục trần thì chúng ta cảm nhận
hay “thọ” những cái vui hay cái buồn. Nhưng nếu tâm thọ
cái vui, cái sung sướng thì nó sẽ bị lục trần lôi cuốn nhận chìm
làm cho tâm bị mê hoặc. Khi ăn món ngon vật lạ thì đâm ra khoái
khẩu tức là lạc thọ, do đó chúng ta cứ muốn ăn ngon hoài. Nếu
không được ăn ngon như thế hằng ngày thì cảm thấy đau khổ, cắn
rứt. Còn nếu cố gắng làm mọi cách để thỏa mãn cái dục tính nầy
thì gây ra nghiệp để phải chịu quả khổ về sau. Do đó chạy theo
lạc thọ là chạy theo luân hồi sanh tử. Còn khổ thọ là cảm nhận
những đau khổ đắng cay của cuộc đời thì tâm sân sẽ phát hiện. Có
người cần cù lao động, đầu tắt mặt tối mà vẫn không đủ tiền để
nuôi gia đình nên họ nhìn cuộc đời thật cay đắng. Họ đâm ra thù
ghét đời và trách móc con tạo khéo xoay vần khiến cho đời họ
phải khổ. Nhưng thật ra nỗi khổ ngày nay là kết quả mà họ đã tạo
ra từ trong những đời quá khứ. Thế thì khổ thọ cũng đưa đẩy con
người lún sâu trong vòng sinh tử luân hồi.
Tất cả những loại cảm thọ ấy tạo thành một dòng sông cảm thọ tâm
lý chi phối hệ thống tâm thức, chúng sinh khởi biến hiện thay
đổi vô chừng; chúng chuyển biến vô tận, vô thường, vô ngã và
hiện hữu có điều kiện. Chấp thủ vào cảm thọ bao giờ cũng sai lầm
và gặt hái khổ đau.
3)Tưởng uẩn: là nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối
tượng là cái gì, đây là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan
và sáu đối tượng của giác quan. Sự nhận biết đối tượng có hai
loại: một là nhận biết đối tượng bên ngoài như mắt thấy sắc nhận
biết đó là cái nhà, chiếc xe, tai nghe âm thanh nhận ra tiếng
chim hót, tiếng khen, lời chửi mắng...; hai là khả năng nhận
biết đối tượng bên trong, tức là các đối tượng tâm lý như những
khái niệm, hồi tưởng, ký ức, kinh nghiệm... Như vậy, tưởng uẩn
là cái thấy, cái biết của mình về con người, hoặc sự việc hay sự
kiện. Vì vậy, tri giác là một trong những tác dụng của thức.
Sự có mặt của tri giác là sự có mặt của kinh nghiệm. Tri giác
tùy thuộc vào những kinh nghiệm đã qua cho nên khi thấy đóa hoa
thì biết đây là đóa hoa bởi vì cái tri giác về đóa hoa đã có sẵn
trong A lại da thức. Nhưng làm thế nào để biết đó là đóa hoa?
Khi ý thức muốn so sánh thì Mạt na thức liền chuyển tư tưởng đó
vào A lạ da thức và sau khi so sánh các kinh nghiệm của các đóa
hoa đã có trong đó xong thì một lần nữa Mạt na thức liền chuyển
ý tưởng đó cho tưởng uẩn thành ra “tri giác” tức là “sự thấy”
hay là “sự nhận ra” vật đó là đóa hoa. Vì vậy tri giác dễ bị
đánh lừa bởi kinh nghiệm, do vì thực tại thì luôn sinh động. Vì
sao? Bởi vì chúng ta chỉ thấy đóa hoa dựa theo quan niệm
của mình chớ không thấy thật tánh của đóa hoa tức là “tự
nó thật sự là”. Khi nhìn đóa hoa chúng ta cho rằng mình
đang nhìn đóa hoa, nhưng đóa hoa là tên do mình đặt cho nó chớ
tự nó “không phải là” đóa hoa “hay là”
đóa hoa. Mà thật chất của nó là sự tổng hợp của đất, nước, gió,
lửa qua trùng trùng duyên khởi kết thành hình tướng rồi chúng ta
đặt tên hình tướng đó là đóa hoa. Nói vậy thì trong đóa hoa có
nước, nhưng chúng ta có thấy trời mưa hoa rơi xuống đâu? Trong
hoa có ánh sáng mặt trời, nhưng ngoài trời đâu có rơi hoa? Trong
hoa có phân bón, nhưng trong các thùng phân bón làm gì có hoa?
Do đó thật tánh của hoa là không tánh vì hoa là do sự kết hợp
của trùng trùng duyên khởi chớ đóa hoa không tự nó có hay tồn
tại được. Vì vậy cái biết của tri giác là cái biết “không
thật” mà là cái biết của duyên khởi cho nên tri giác tồn tại
có điều kiện, vì vậy chúng vô thường, trống rỗng; và do duyên
sinh nên tri giác đầy hư vọng mà ta thường gọi là vọng tưởng.
4)Hành uẩn: Hành có nghĩa là các hiện tượng tâm lý mang
tính chất tạo tác nghiệp, có năng lực đưa đến quả báo của
nghiệp, nói cách khác là tạo động lực tái sinh. Hành uẩn là
những hiện tượng tâm lý còn được gọi là tâm sở. Duy thức học
chia thành 51 tâm sở gồm cả thọ, tưởng, tức là cảm giác và tri
giác cũng gọi là hành. Nhưng ở đây không xếp cảm giác và tri
giác vào nhóm hành vì thọ và tưởng không có khả năng tạo nghiệp
và quả của nghiệp. Hành uẩn tồn tại nhờ các điều kiện do duyên
sinh nên chúng vô thường, trống rỗng và biến động bất tận. Mỗi
uẩn chỉ có thể làm công việc của chính nó. Thọ uẩn chỉ kinh
nghiệm lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ. Tưởng uẩn đóng vai trò
nhận ra đối tượng là cái gì. Thức uẩn chỉ làm nhiệm vụ nhận biết
đối tượng (chỉ biết thấy, biết nghe, biết ngửi v.v...). Nhưng
hành uẩn có đặc tính là phản ứng hay tác động của tâm. Hành uẩn
là nguyên nhân của đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi, di chuyển,
cười, nói, nghĩ, thấy, nghe... và tất cả những hoạt động
khác.
Do sự kích thích của hành uẩn nên tất cả hành động về thân,
khẩu, ý xảy ra. Bởi vậy, thân, khẩu, ý là sự biểu hiện của hành
uẩn, nhưng khi hành uẩn biểu hiện qua thân, khẩu, ý người ta
hiểu lầm rằng: Đó là linh hồn, tự ngã, tôi, ta.
5)Thức uẩn: Thức là có khả năng rõ biết, phản ánh thế
giới hiện thực. Khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, thực nhận
biết sự có mặt của đối tượng, thức không nhận ra đối tượng ấy là
gì, là cái gì, màu gì... đó là chức năng của tri giác (tưởng);
thức chỉ nhận biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm
gương phản chiếu tất cả những hình ảnh đi ngang qua nó. Thức có
tám loại nên gọi là bát thức tâm vương: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức và A lại da
thức. Thức là nền tảng của thọ, tưởng, hành. Thức là Tâm vương
còn thọ, tưởng, hành là Tâm sở. Duy thức triển khai bát thức tâm
với mục đích khai thác các khía cạnh sâu kín của thức. Mạt
na thức là ý căn, là căn cứ của ý thức đồng thời nó cũng có tác
dụng nhận thức sự tồn tại của một thực thể, một bản ngã. A lại
da thức là cái kho dung chứa tất cả những chủng tử của kinh
nghiệm, ký ức, kiến thức và tất cả những chủng tử thiện ác hay
vô ký. Mặt khác, A lại da thức làm căn bản cho các hoạt động tâm
lý trở về sau khi không còn điều kiện hoạt động. Nhờ khả năng
bảo tồn của A lại da thức mà các hiện tượng tâm lý phát khởi trở
lại khi hội đủ các yếu tố. Có thể hiểu A lại da thức như là một
cái kho chứa và Mạt na thức là người giữ kho. Chính Mạt na thức
vào trong cái kho để chuyển các chủng tử ra hay vào mà Duy thức
gọi là hiện hành hay biến hành và từ đó tưởng uẩn mới biết được
vật đó là gì.
Mặc dù thức uẩn là nền tảng của tâm lý nhưng nó không tồn tại
độc lập, không thể tự chủ bởi vì thức uẩn có tồn tại cũng bởi do
duyên sinh. Thí dụ nếu không có sắc, thọ, tưởng, hành thì không
thể nào có thức được cho nên mối quan hệ của ngũ uẩn là bất khả
phân ly vì vậy đạo Phật không chấp nhận có một thức nào đó độc
lập, tự chủ như khái niệm về một linh hồn bất tử chẳng hạn. Tuy
A lại da thức là một cái kho chứa nhóm, nhưng nó biến chuyển vận
hành liên tục không ngừng nghĩ, có lúc chuyển chủng tử mới vào
và có khi đưa chủng tử ra gọi là biến hành. Vì sự biến chuyển
này mà con người mới có thể tu thành Thánh nhân hay trở thành ác
quỷ. Còn linh hồn là cố định, bất biến cho nên đạo Phật phủ nhận
có một linh hồn sống giữ chết đem về. A-lại-da hàm chứa mọi nội
dung của thức. Nội dung này luôn luôn biến đổi theo hoàn cảnh
sống và theo hành động của chúng sanh mang nó. Chính đấy là năng
lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi,
nó đẩy A-lại-da hay Thức nương gá vào một thân thể mới vừa tượng
hình có hoàn cảnh phù hợp với nó. Đó là ý nghĩa của “linh hồn đi
đầu thai” mà Phật giáo gọi là Thức đi đầu thai. Thức được hiểu
như là dòng chảy liên tục của các ý niệm. Các ý niệm này tùy
thuộc nhiều yếu tố khác mà phát sinh, đức Phật gọi quá trình tùy
thuộc phát sinh nầy là “duyên khởi” (paticasamupàda). “Thức” chỉ
là một mắc xích trong 12 mắc xích duyên khởi mà thôi. Do
đó, khái niệm “thức” của Phật giáo khác nhau với "linh hồn bất
tử" của các tôn giáo khác rất lớn. Chính sự tiếp nối của các ý
niệm tương tục nầy mà thức đi tái sanh, lên xuống trong 3 cõi 6
đường, chứ không phải là một linh hồn bất tử, vĩnh hằng như cách
hiểu của các tôn giáo khác.
Dựa theo khoa học thì vật lý là sự vật chưa có cái biết, chưa có
sự sống. Sinh lý là sự vật có sự sống mà chưa có cái biết. Còn
tâm lý là có sự sống, có cái biết mà chưa có phân biệt đó là cảm
giác tức là thọ uẩn. Thế thì vật lý là trần, sinh lý là căn và
tâm lý là thức. Dựa theo Duy thức thì căn tiếp xúc với trần sinh
ra thức tức là sinh lý tiếp xúc với vật lý thì tâm lý phát hiện.
Và tâm lý đầu tiên là cảm giác tức là thọ uẩn. Tuy nhiên mỗi uẩn
đều nương tựa vào các uẩn kia mà tồn tại. Thí dụ trong sắc uẩn
có thọ uẩn và trong thọ uẩn có sắc uẩn rồi. Khi chúng ta có một
cảm giác đau khổ, khó chịu thì cái cảm giác này gồm luôn cả thân
thể và tri giác, tâm tư và thức.
Tuy con người là sự kết hợp của ngũ uẩn, nhưng mỗi uẩn là vô
thường, vô ngã nên toàn khối cũng là vô thường,vô ngã tức là
Không chẳng khác nào như cây chuối không có lõi, chỉ là sự kết
tập của các bẹ chuối. Khi thấu rõ bản chất thật của con người và
vũ trụ mà chúng ta đang sống thì chúng ta sẽ không còn bám vúi
vào cái thân giả hợp, sẽ không còn thấy nó là Ta hay là của Ta
thì những phiền não khổ đau sẽ đoạn diệt.
Dựa theo khoa học thì vật lý là sự vật chưa có cái biết, chưa có
sự sống. Sinh lý là sự vật có sự sống mà chưa có cái biết. Còn
tâm lý là có sự sống, có cái biết mà chưa có phân biệt đó là cảm
giác tức là thọ uẩn. Thế thìvật lý là trần, sinh lý là căn và
tâm lý là thức. Dựa theo Duy thức thì căn tiếp xúc với trần sinh
ra thức tức là sinh lý tiếp xúcvới vật lý thì tâm lý phát hiện.
Và tâm lý đầu tiên là cảm giác tức là thọ uẩn.
Thế thì sự chuyển biến của các căn đối với ngũ uẩn như thế nào?
v
Nhãn căn: Trước hết lấy con mắt làm thí dụ.
Khi con mắt nhìn bình hoa để trên bàn nghĩa là nhãn căn tiếp xúc
với sắc trần thì bình hoa là vật lý còn con mắt là sinh lý và
hai thứ đó gọi chung là sắc uẩn. Sắc uẩn là hình tướng mà chưa
có phần tâm linh. Sau đó giây thần kinh của thị giác ở mắt tiếp
xúc với bình hoa tạo ra sự rung động. Từ đó tâm cảm giác mượn sự
rung động để tạo ra những cảm giác dễ chịu hay khó chịu, biết
vui biết buồn hay biết không vui không buồn thì gọi là thọ uẩn
tức là cái biết chưa có sự phân biệt.Thấy nét mặt thay đổi vì
những cảm nhận vui buồn khi mắt nhìn bình hoa thì có người hỏi
bạn tại sao thế? Cảm giác biết nhưng không trả lời được nên
chuyển những cảm giác vui buồn đó thẳng vào hệ thống trung ương
nảo bộ tức là bộ óc. Khi bộ óc tiếp xúc với những cảm giác vui
buồn thì tư tưởng tức là tưởng uẩn mới phân biệt. Nhưng muốn
phân biệt thì nó phải nhớ lại để có thể so sánh. Mà cái kho chứa
tất cả những kinh nghiệm, ký ức, kỷ niệm hay tất cả những chủng
tử thiện ác lại nằm trong thức uẩn tức là A lại da thức. Nhưng
tưởng uẩn không thể chạy vào thức uẩn được nên phải nhờ nghiệp
(thức thứ bảy hay Mạt na thức) đưa tư tưởng vào thức uẩn (A lại
da thức) để so sánh với những cảm xúc, kinh nghiệm đã xảy ra
trong quá khứ. Khi so sánh xong thì tư tưởng liền biến thành ý
niệm để sai khiến thân và khẩu thực hành những gì nó muốn tức là
hành uẩn. Vì thế tư tưởng, ý niệm có dấy khởi được là bởi có
thức uẩn tức là A lại da thức cho nên nếu con người đánh mất
thức uẩn thì không cách nào người đó phát khởi bất cứ ý niệm nào
được.
Tóm lại, khi mắt nhìn bình hoa đẹp hay xấu đặt trên bàn thì lòng
cảm thấy vui hay không vui. Nhưng tại sao nhìn bình hoa mà lòng
lại vui hay không vui? Vì cái nhìn của mắt tức là nhãn thức, là
trực giác thì thấy sao biết vậy mà Duy thức gọi là hiện lưọng
nên chưa có sự phân biệt vì thế nếu hoa đẹp thì biết ngay là hoa
đẹp nên lòng vui thế thôi. Bây giờ có người hỏi tại sao mắt nhìn
bình hoa mà anh lại vui? Vì vui là do trực giác bởi vì thấy là
biết ngay mà không biết cảm giác đó từ đâu đến nên không giải
thích được. Để trả lời, những hình ảnh của bình hoa được chuyển
vào óc để so sánh với những hình ảnh hay kỷ niệm đã tồn
lưu trong thức uẩn (A lại da thức). Nhưng những cảm giác này
không đi thẳng vào trong thức uẩn được mà “nghiệp” tức là thức
thứ bảy hay Mạt ma thức đóng vai trò như là chất xúc tác, người
đưa thơ để chuyển những tư tưởng đó vào cái kho thức uẩn (A lại
da thức) rồi so sánh. Mặc dầu tư lương nhưng chấp là của mình
cho nên tánh chất nhận thức nơi Mạt na thức không được khách
quan trung thực, luôn bị bóp méo biến đổi khác đi mà Duy thức
gọi là phi lượng. Với khuynh hướng chấp ngã và suy tư lo nghĩ,
Mạt na thức luôn bám lấy A lại da thức mà chấp là mình, là của
mình tức là ngã và ngã sở nghĩa là bất cứ cái gì có lợi cho Ta
và cái Ta thì nó làm theo bất chấp hậu quả. Khi tư tưởng (ý
thức) so sánh cái bình hoa đặt trên bàn và những bình hoa đã có
trong quá khứ thì cho tâm câu trả lời rằng “bình hoa này rất
đẹp, có nhiều màu sắc rực rỡ và hương thơm ngào ngạt…” Sau đó,
một lần nữa nghiệp (thức thứ bảy) tác dụng như là người đưa thơ
liền đem câu trả lời giao lại cho tưởng uẩn và từ đó tưởng uẩn
có thể cho ta biết đó là vật gì. Rồi sau đó ý chuyển thành thân
và khẩu nghiệp tức là hành uẩn. Có tác tạo, có ý nghiệp là có
tội nghiệp, có sinh tử luân hồi. Vì vậy tư tưởng, ý niệm phát
xuất từ tưởng uẩn là cội nguồn phát sinh ra nghiệp để chôn con
người vào nấm mồ sinh tử.
v
Tỷ căn: Bây giờ hãy lấy lỗ mũi làm thí dụ.
Khi thắp một nén nhang thì lỗ mũi tiếp xúc với mùi thơm của
nhang nghĩa là tỷ căn tiếp xúc với hương trần thì sự tiếp xúc đó
gọi là sắc uẩn tức là chưa có cái biết bởi vì nhang trầm là vật
lý còn mũi là sinh lý (có sự sống). Sau đó giây thần kinh thuộc
về khứu giác tiếp xúc các mùi trong các tuyến của lỗ mũi khiến
các giây thần kinh rung động mà tạo ra cảm giác vui buồn hay
không vui không buồn tức là thọ uẩn. Thọ uẩn tiếp nhận nên có
cái biết nhưng chưa có sự phân biệt. Mới nghe chúng ta nghĩ rằng
cảm thọ tức là thọ uẩn phải xảy ra sau tưởng uẩn, nhưng trên
thực tế khi hệ thần kinh nhận được những rung cảm từ lỗ mũi để
biết mùi thơm hay thúi thì thọ uẩn vẫn chưa có sự phân biệt. Bây
giờ có người hỏi tại sao khi ngửi mùi nhang mà nét mặt bạn lại
thanh tịnh nhẹ nhàng? Cảm giác không trả lời được nên chuyển tất
cả cảm giác vui buồn thẳng vào trong hệ thống trung ương nảo bộ
tức là bộ óc. Khi bộ óc tiếp xúc với những cảm giác vui buồn thì
tư tưởng tức là tưởng uẩn mới bắt đầu phân biệt. Nhưng muốn phân
biệt thì nó phải nhớ lại. Mà cái kho chứa tất cả những kinh
nghiệm, ký ức, kỷ niệm hay tất cả những chủng tử thiện ác lại
nằm trong thức uẩn tức là A lại da thức. Đến đây tư tưởng bắt
đầu hoạt động bằng cách quay vào thức uẩn tức là cái kho chứa A
lại da thức để tìm cách so sánh phân biệt với những ký ức của
mùi vị đã tồn trữ trong đó vì thế tưởng uẩn liền cho ta biết đó
là loại nhang gì và hương thơm như thế nào. Thế thì tưởng uẩn
là cái biết có sự phân biệt. Nhưng làm sao tư tưởng vào được
thức uẩn để tìm cách so sánh? Chính nghiệp (Mạt na thức) đưa tư
tưởng từ ngoài vào trong thức uẩn (A lại da thức) để so sánh rồi
sau đó cũng chính nghiệp (Mạt na thức) nghe theo tư tưởng mà sai
sử hành uẩn thực hành những gì mà tư tưởng mong muốn. Do đó một
khi ý niệm tức là tư tưởng (ý thức) đã hoàn thành thì nghiệp sẽ
sai khiến thân và khẩu tác tạo tức là từ tưởng uẩn chuyển sang
hành uẩn khiến con người tác tạo ra tội nghiệp để phải chịu sinh
tử luân hồi. Vì thế ý niệm là nhân, là chủ động để sanh ra thân
và khẩu nghiệp tức là quả. Sau khi thân khẩu nghiệp tác tạo thì
tất cả những chủng tử thiện ác đó bây giờ sẽ dung chứa trở lại
trong thức uẩn (A lại da thức). Vậy thức uẩn là cái kho dung
chứa tất cả những chủng tử của kinh nghiệm, ký ức, kiến thức và
tất cả những chủng tử thiện ác hay vô ký. Thế thì cái nhân mà
chúng sinh đã tác tạo được chứa trong A lại da thức cho nên khi
có duyên thì nhân duyên sẽ phát khởi mà sinh ra quả báo. Cũng
như hạt giống (nhân) có nước (duyên) thì sẽ sinh mầm nẩy giống
rồi sinh cành sinh lá.
Các căn còn lại cũng thế.
Đây là lối giải thích dựa theo tư tưởng Phật giáo Đại thừa, tuy
nhiên trong kinh ACELA-SUTTA thuộc Trung Bộ Kinh (Majjhima
Nikaya) của Phật giáo Nguyên thủy nói về câu chuyện giữa đức
Phật và vị tu khổ hạnh Kassapa theo đường lối lõa thể thì đức
Phật dạy rằng:
“…các hiện tượng tâm thần và các hiện tượng vật chất tạo điều
kiện làm phát sinh ra sáu khả năng (tức là mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý). Sáu khả năng tạo điều kiện làm phát
sinh ra sự tiếp xúc (tức là sáu căn tiếp xúc với sáu
trần); sự tiếp xúc (căn tiếp xúc với trần) tạo
điều kiện làm phát sinh ra giác cảm (tức là thọ uẩn);
giác cảm tạo điều kiện làm phát sinh ra dục vọng (tức
là ham muốn, thèm khát.. là tưởng uẩn); dục vọng tạo điều
kiện làm phát sinh ra sự bám víu; sự bám víu tạo điều
kiện làm phát sinh ra quá trình của sự hình thành (hành
uẩn), quá trình của sự hình thành tạo điều kiện làm phát
sinh ra sự sinh; sự sinh tạo điều kiện làm phát sinh ra sự hủy
hoại, cái chết, ta thán, khổ nhọc, đớn đau, buồn phiền và tuyệt
vọng (tạo nghiệp). Đấy là cách làm phát sinh ra cả khối
khổ đau ấy.”
Thế thì Phật giáo Đại thừa và Nguyên thủy tuy danh tự có khác
nhau, nhưng tựu trung vẫn giải thích sự liên quan giữa sáu căn
và ngũ uẩn để tạo ra tội nghiệp mà phải chịu cảnh khổ thì hoàn
toàn giống nhau, không sai khác.
Nói chung dựa theo Phật giáo, con người có bốn cái tâm. Sắc thân
thì chưa có cái biết, chưa có sự phân biệt nên không phải là
tâm. Nhưng thân cũng có hai phần là sắc thân tứ đại và tịnh sắc
căn tức là các giây thần kinh. Khi con người chết thì tim ngừng
đập, sắc thân tứ đại chết ngay, nhưng tịnh sắc căn chưa chết.
Dựa theo Duy thức thì cần đến 8 tiếng đồng hồ thì tất cả các
giây thần kinh mới ngưng hoạt động. Vì thế một người chết đừng
di dộng thi thể cho đến 8 tiếng đồng hồ sau để thần thức thoát
ra được yên ổn.
ü
Tâm thứ nhất là cảm giác là cái biết mà chưa có sự phân biệt, đó
là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức. Cái
biết này chính là cái biết của trực giác cho ta những cảm giác
dễ chịu, khó chịu, không dễ chịu, không khó chịu. Tâm này còn
gọi là tiền ngũ thức nghĩa là thấy sao biết vậy tức là
trực tâm.
ü
Tâm thứ hai là tư tưởng tức là ý thức. Nó mượn sự
hoạt động của bộ óc để phát hiện tức là phân biệt tốt xấu, phải
quấy, thịnh suy, vinh nhục, ngon dở, thân sơ…Tâm này là quan
trọng và nguy hiểm nhất vì nó sai sử con người vào chỗ đọa lạc.
Vì thế nếu người tu diệt được ý thức là thoát ly sinh tử tức là
được liễu sanh thoát tử ngay.
ü
Tâm thứ ba là thức thứ bảy tức là Mạt na thức có
công năng tính toán, đắn đo. Ý thức tức là tư tưởng đề nghị thì
Mạt na thức tính toán đắn đo rồi lựa chọn những gì có lợi cho Ta
và cái của Ta nằm trong A lại da thức và sau cùng quyết định sai
năm thức đầu (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân
thức) hành động và dĩ nhiên tác tạo ra nghiệp. Tuy thức thứ bảy
có tính toán quyết định gì chăng nữa thì cũng do thức thứ sáu là
ý thức thúc đẩy, xúi giục cho nên ý thức mới là thức nguy hiểm
nhất. Thức thứ bảy này là thức ngu si nhất và thức thứ sáu là
thức khôn ngoan nhất và cũng là tội lỗi nhất trong bát thức tâm
vương. Tâm này thường được gọi là tâm nghiệp, tâm đồng lõa dẫn
dắt chúng sinh vào biển sinh tử luân hồi.
ü
Tâm sau cùng là thức thứ tám là kho chứa tất cả
kinh nghiệm, kiến thức, ký ức, kỷ niệm và tất cả những chủng tử
thiện, ác, tốt, xấu và vô ký.
Bây giờ hãy tưởng tượng A lại da thức là cái kho ví như ông vua
làm chủ cả giang san, vàng bạc, gấm vóc, lụa là, binh khí…Mạt na
thức ví như ông đại tướng là người đánh nam dẹp bắc tức là tạo
nghiệp, nhưng chính Mạt na thức lại biết rất rõ ràng những gì
nhà vua cất giữ trong cái kho. Nhưng muốn đánh đấm hay phân phát
cơm gạo cho ai thì phải có sự xúi giục, hướng dẫn, chỉ bảo của
ông quân sư tức là ý thức. Ông quân sư bày vẽ theo hướng nào thì
ông đại tướng thực hành theo hướng đó nghĩa là vào kho lương lấy
tiền gạo ra phân phát cho quân lính. Sự phân phát thì do tiền
ngũ thức thực hiện. Vì Mạt na thức lúc nào cũng tính toán và làm
việc gì cũng nghĩ đến lợi cho A lai da thức nghĩa là lợi cho Ta
và cái của Ta nên bị ý thức đánh lừa khiến con người sa vào hầm
tăm tối, tạo tội nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời.
Ngày nay những chiếc máy vi tính chạy rất nhanh (high speed),
chứa biết bao dữ kiện (documents) nhưng thật ra sự hoạt động của
nó giống y như là sự hoạt động của bộ óc con người. Bộ óc của
máy vi tính là CPU (Central Processing Unit) (đơn vị trung tâm
xử lý) sản xuất bởi Intel (hoặc ADM: Advanced Micro Devices).
Intel lần đầu tiên giới thiệu con chip Intel 4004 năm 1971 chứa
khoảng 2250 transitors và có 16 chân. Đến năm 2006 Intep giới
thiệu con chip Intel Northwood P4 có sức chứa 55 triệu
transitorsvà có 478 chân. Mới nhất hiện nay năm 2011, Intel giới
thiệu con chip Sandy Bridge-E có trên hai tỷ (over two billion)
transitors. Trong những thập niên tới, chúng ta sẽ không lạ gì
khi thấy xuất hiện nhiều con chip rất nhỏ và chạy rất nhanh làm
thay đổi cách sống của nhân loại trên thế gian này. Càng nhiều
transitor thì máy vi tính càng giải quyết nhiều công năng phức
tạp trong thời gian ngắn nhất. Ngày nay để tăng vận tốc và công
năng xử lý, Intel gép những CPU lại với nhau nên có những danh
từ như Dual-core Processor tức là có hai CPU ghép chung lại. A
Quad-core Processor chứa 4 cái CPU và xa hơn nữa họ có thể ghép
6 cái CPU (a hexa-core processor) hoặc 8…
Cái bộ óc CPU này có hai nhiệm vụ là:
1)Tính toán những phép như nhơn, chia, trừ, cộng đơn giản cho
đến giải quyết những phương trình toán học rất phức tạp… gọi là
ALU (Arithmetic logic unit).
2)Chức năngthứ hai là CU (Control unit) (đơn vị điều khiển) có
nhiệm vụ xử lý nghĩa là thông dịch các đòi hỏi của chương trình
và sau đó hoạt động xử lý nó. Tốc độ xử lý nhanh hay chậm tùy
theo con chip mạnh hay yếu. Đơn vị điều khiển (CU) sẽ ra lịnh
cho mỗi CPU hay vài CPU xử lý một chương trình, một bài toán…rồi
sau đó chuyển kết quả về mản ảnh. Phần này tùy thuộc vào người
viết chương trình (program) để điều khiển nó (Programer thuộc về
Computer Sciense).
Ngoài bộ óc, máy vi tính phải có phần nhớ để dự trữ và so sánh
dữ kiện. Phần nhớ cứng (hard disk drive) dung chứa tất cả những
dữ kiện mà không bị mất. Ngày nay phần nhớ này rất lớn có thể
dung chứa từ Megabytes (MB) tức là một triệu bytes, đến
Gigabytes (GB) là một tỷ bytes cho đến Terabytes (TB) là một
ngàn tỷ bytes. Danh từ byte là chỉ cho units of digital
information cho nên chữ bit hay byte là cho tính nhơn với lũy
thức 2. Phần nhớ mềm (RAM) có thể chứa GB nghĩa là nó có dung
lượng của 1 073 741 823 bytes tương đương với 230
(hai lũy thừa 30). Để dễ hiểu RAM (phần nhớ mềm) là phần nhớ tạm
thời mà bộ óc (CPU) sử dụng trước vì dễ tiếp xúc, nhưng sau đó
tất cả dữ kiện được chuyển sang phần nhớ cứng (Hard drive) để
lưu giữ vĩnh viễn.Vì thế khi máy vi tính bị hư (có virus) thì bộ
óc (CPU) bị hư, nhưng phần nhớ cứng vẫn tồn tại nên tất cả dữ
kiện dung chứa trong đó không bao giờ mất được.
Tuy nói dài dòng nhưng trên thực tế thì CPU tác động như bộ óc
của con người. ALU tính toán, tư lương tức là Mạt na thức. CU
tác dụng như là ý thức dùng để phân biệt, sai sử bộ óc chạy tới
chạy lui. Phần nhớ cứng (hard disk drive) là A lại da thức là
cái kho mà Mạt na thức chạy ra chạy vô để so sánh (dùng catche).
Sau cùng CU tức là ý thức liền chuyển ý thức, tử tưởng để sai
khiến thân và khẩu thực hiện. Do đó khi con người chết thì bộ óc
(CPU) bị hư, thân tứ đại tan rã, nhưng thần thức (hard drive)
tức là thức uẩn (A lại da thức) vẫn còn nguyên trong không gian
và chuyển sang một thân xác mới gọi là tái sinh. Nhưng khi có
máy vi tính mới thì tất cả những dữ kiện từ phần nhớ cứng (hard
drive) của máy vi tính củ có thể chuyển sang phần nhớ của máy vi
tính mới chớ không bị mất bất cứ một dữ kiện nào. Con người cũng
thế, khi chết thì tất cả những chủng tử thiện ác tốt xấu từ
trong A lại da thức sẽ kết tập với những nhân duyên mới để định
đoạt con người mới của chúng ta nghĩa là chúng ta sẽ thọ sanh
vào gia đình nào, làm con cái của ai và thọ lãnh phước đức lành
dữ, tốt xấu như thế nào.
Khoa học ngày nay giải thích rằng bộ óc là chỗ chứa tất cả sự
hiểu biết, nhưng Duy thức phủ nhận lý luận này. Thật vậy nếu sự
hiểu biết của con người là do bộ óc vậy khi con người chết đi bộ
óc bị hủy diệt thì sự hiểu biết đó cũng phải tan biến theo,
nhưng trên thực tế tuy con người có chết, bộ óc bị hủy diệt
nhưng tất cả những chủng tử chứa trong A lại da thức trở về
không gian và chuyển sang thân xác mới chớ đâu có mất. Đây là
chỗ khác biệt giữa khoa học và đạo Phật.
Thế thì đạo Phật thật sự có một nhận thức chính xác hơn khoa học
đấy chứ. Thí dụ trong bộ óc của những nhà bác học có rất nhiều
ngăn xếp rất vi tế nhiều hơn người thường mà khoa học cho rằng
đây là những cơ năng phát xuất ra tư tưởng dị thường. Duy thức
cũng phủ nhận luôn điều này vì tư tưởng là nhớ lại mà muốn nhớ
lại thì phải quay về cái kho chứa tức là thức uẩn (A lại da
thức) để tìm lại ký ức, kỷ niệm, kinh nghiệm rồi từ đó mới tìm
ra những phát minh mới. Bộ óc của các nhà bác học có nhiều ngăn
mé rất vi tế nên hoạt động rất nhạy bén cũng ví như những máy vi
tính có công năng chạy rất nhanh (high speed) tức là con chip
CPU rất tốt so với con chip thường nên giải quyết vấn đề
(process) nhanh chóng, phức tạp và hoàn hảo hơn. Nhờ đó họ tìm
ra những phát minh mới cho nhân loại, nhưng bộ óc không thể tự
nó phát minh được mà bộ óc phải quay về cái kho (thức uẩn) để so
sánh rồi từ đó mới tìm ra những điều mới lạ. Thuyết “Duyên Khởi”
của đạo Phật chứng minh rằng bất cứ hiện tượng tinh thần hay vật
chất nào trên thế gian đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Vì
thế quay về với A lại da thức là nhân và từ đó phát triển, tìm
tòi thêm là duyên để tạo thành những phát minh mới tức là kết
quả. Bằng chứng là các nhà bác học như Albert Einstein, Niels
Bohr, Mary Curry, Galileo Galilei…đã dày công nghiên cứu trong
phòng thí nghiệm để chứng minh những phương trình, những khám
phá mà họ đã phát minh. Do đó tuy là những phát minh mới lạ,
nhưng nó vẫn dựa vào những định luật hóa học, vật lý hay toán
học vốn đã có sẵn chớ không phải tự trên trời rơi xuống tức là
phải vào thức uẩn để so sánh rồi sau đó tưởng uẩn mới phát triển
thêm và sau cùng đưa đến kết quả tức là hành uẩn. Gần đây Paul
Allen có viết cuốn sách “Idea Man: a memoir by the co-founder of
Microsoft” diễn tả lại những tiến trình từ lúc ông và Bill Gates
có những ý niệm rất thô thiển và quyết định viết ra những
“program” để chạy cho máy vi tính. Vì thế window – 7 mà chúng ta
có ngày nay là một tiến trình rất dài từ lúc ban đầu chớ không
thể đùng một cái có nó ngay được. Họ dùng những dữ kiện và kỷ
thuật đã có và từ đó phát triển thêm. Cũng như điện thoại di
động có iPhone 4 rồi sang iPhone 4S và năm tới sẽ có iPhone 5
rất mỏng, chạy rất nhanh và có nhiều kỷ thuật mới lạ. Thế thì
Steve Jobs cũng phải quay về thức uẩn là cái có trước rồi sau đó
mới phát minh những cái mới lạ được tức là tưởng uẩn rồi sau đó
chuyển sang hành uẩn tức là thực hành. Ngày xưa chỉ có TV trắng
đen rồi sang TV màu và trải qua mấy chục năm TV bây giờ rất
mỏng, rất rõ, ngay cả 3D khiến chúng ta nhìn vào TV mà y như
nhìn cảnh thật ngoài đời.
Thí dụ có một người bị bệnh Alzheimer’s disease nghĩa là một bộ
phận nào đó trong bộ óc bị hư hỏng nên cho dù họ có cố gắng để
nhớ lại (tưởng uẩn) nhưng không thể nào tìm được những gì trong
quá khứ bởi vì tư tưởng (ý muốn của họ) tức là tưởng uẩn bây giờ
không còn tác động với phần đó của bộ óc nên những luồng tư
tưởng không vào được thức uẩn (A lại da thức) để so sánh mặc dù
thức uẩn vẫn còn nguyên vẹn không hề bị hư hoại. Vì thế muốn tư
tưởng có thể hoạt động được mỹ mãn tốt đẹp như ý muốn thì bộ óc
phải tốt để nghiệp (thức thứ bảy) chuyển những luồng tư tưởng
vào trong thức uẩn và từ đó mới có sự phân biệt. Tuy nhiên những
bộ phận khác trong bộ óc vẫn còn tốt và hoạt động bình thường
cho nên tư tưởng có thể ra vào thức uẩn giúp cho họ nhớ lại
được. Vì thế một người có thể quên hết những chuyện hiện tại vừa
mới xảy ra vì phần đó trong bộ óc bị hư, nhưng họ có thể nhớ lại
rất rõ những gì xảy ra trong quá khứ vì phần nảo bộ đó không bị
hư hoại. Do đó sự hình thành của tưởng uẩn để tạo ra sự phân
biệt là do sự hoạt động giữa tư tưởng và thức uẩn. Ngày nay số
người bị bệnh lãng trí (Alzheimer’s disease) tại Hoa Kỳ càng
ngày càng gia tăng vì thế người học Phật phải có một cái nhìn
thực tế để cảm thông, an ủi và giúp đở họ ngỏ hầu hàn gắn những
niềm đau mà người đó sẽ đi qua và những nỗi khổ mà thân nhân của
họ phải gánh chịu. Nên nhớ đây không phải là bệnh do ma quỷ hay
trời hành Phật đọa gì hết mà bộ óc là một thành phần của thân tứ
đại nên phải chịu sự thoái hóa của luật vô thường giống như
những phần khác của thân thể thế thôi.
Tóm lại, muốn dễ hiểu chúng ta có thể quán chiếu sự biến hành
của ngũ uẩn như là cuộc Tây Du Ký của thầy trò ngài Huyền Trang.
Sắc uẩn là con ngựa ngài Huyền Trang cởi cũng như thân xác của
chúng ta. Thọ uẩn là Trư Bát giới là người thích cảm thọ mọi thú
vui trên thế gian. Tưởng uẩn là Tề thiên đại thánh, là người
phân biệt đủ mọi thứ tốt xấu, thánh phàm cho đến người hay quỷ,
lợi hại, nhục vinh, tốt xấu, bày vẽ ra đủ điều…Tưởng uẩn có thể
hiểu là nơi phát xuất ra mọi ý niệm dựa theo sự phân biệt đối
đãi nhị nguyên để sai khiến hành uẩn thực hiện những tư tưởng đó
vì thế có thể nói tưởng uẩn như là vị quân sư của một triều đại.
Vì thế chính tưởng uẩn là nguồn gốc tạo ra sinh tử luân hồi.
Đã là con người thì ai cũng có cảm giác vui buồn, ngay cả đức
Phật cũng có cảm giác đấy chứ. Nhưng sự khác nhau là đức Phật
không dính mắc vào tư tưởng nên Ngài không có tâm phân biệt làm
sao giữ cái cảm giác vui này cho nó được dài lâu để hưởng thụ.
Ngược lại phàm nhân thì chạy theo ý thức phân biệt để kéo dài
cảm thọ thì tâm tham liền nổi dậy. Thậm chí còn tìm cách giữ cảm
giác đó cho dài thêm cho nên lòng tham cũng tăng theo. Mà giữ
không được thì tâm sân phát khởi làm cho cuộc đời điên đảo. Đối
với đức Phật thì Ngài cũng có tư tưởng đó chứ, nhưng Ngài không
bao giờ dính mắc vào tư tưởng. Ngài vẫn có cảm giác nhưng không
dính mắc vào cảm giác nên Ngài mới có Vô thượng Niết bàn, tâm
hằng tự tại. Trong khi đó chúng sinh có cảm giác rồi lại say mê
chìm vào trong cảm giác lạc thọ hay khổ thọ để phải chịu khổ.
Chưa có cảm giác lạc thọ thì mong có nên mới khổ mà có rồi thì
muốn có thêm nên khổ nhiều hơn. Có mà sợ mất thì càng khổ, sợ
mất mà nó vẫn mất hì quá khổ. Tóm lại cảm giác lạc thọ hay khổ
thọ đều cùng chung nỗi khổ như nhau. Tuy nhiên, chúng là những
cảm giác tự nhiên vì hễ có thân là có nó, nhưng nếu con người
dính mắc vào những cảm giác đó thì trở thành thèm khát chẳng
khác chi loài ngạ quỷ. Còn tìm cách phê phán những cảm giác này
chính là tư tưởng nghĩa là phân biệt cảm giác này hay chê bai
cảm giác nọ tức là chức năng của tưởng uẩn. Mà nơi cung cấp chất
liệu để hành uẩn thực hiện sự được so sánh là thức uẩn. Do đó
thức uẩn là quan trọng nhất bởi vì nếu không có nó thì tưởng uẩn
không thể nào thực hiện sự phân biệt được.
Tóm lại, khi con người chết thì sắc uẩn ngưng hoạt động. Sau đó
thần kinh đứt nên cảm giác bị gián đoạn tức là thọ uẩn cũng mất.
Bộ óc chết thì tư tưởng bám víu vào bộ óc cũng chết theo nên
tưởng uẩn cũng biến mất. Tưởng uẩn không còn nên không còn
nghiệp để sai khiến hành uẩn vì thế hành uẩn cũng tan theo. Duy
chỉ có thức uẩn là vô hình và không tùy thuộc bộ óc nên tuy thân
chết nhưng nó vẫn tồn tại. Nói cách khác sắc uẩn, thọ uẩn và
tưởng uẩn là “cái của Ta”đã bị diệt cho nên thức
uẩn bao gồm kiến thức, ký ức, kỷ niệm, kinh nghiệm và biết bao
chủng tử thiện ác khác tức là “cái Ta”duy nhất còn
tồn tại.
A lại da thức còn được gọi là Như Lai Tạng là cái kho để chứa
tất cả những chủng tử (hạt giống) của vạn pháp và cũng là cái
bọc chứa để giấu kín, che phủ phiền não mê lầm, che phủ Phật
tánh. Và A lại da thức cũng là cái mầm giác ngộ vốn có sẵn trong
tất cả mọi chúng sinh. Tạng là chất chứa cho nên Như Lai Tạng là
chất chứa mọi công đức quyền năng của Như Lai. Đứng về mặt ô
nhiễm, Như Lai Tạng là tượng trưng cho thế giới luân hồi sinh
diệt. Còn dựa theo phía thanh tịnh, Như Lai Tạng là biểu hiện
cho Niết bàn giải thoát.
Cứu cánh của giáo lý Phật Đà là đức Phật dạy chúng sinh
diệt khổ để có an lạc, hạnh phúc ngay trong cái thế giới
có sinh có diệt này chớ đức Phật không bao giờ dạy con người
trốn khổ nghĩa là cầu nguyện chạy sang một thế giới
nào đó để có an lạc mà tự mình không lo hóa giải hết những thứ ô
trược đó ở thế giới Ta Bà. Thế thì ngay trên cái khổ đó mà con
người làm chủ được nó thì gọi là diệt khổ. Nếu chúng sinh không
có khả năng diệt khổ thì cái khổ sẽ theo họ như bóng theo hình
cho nên bất cứ họ ở đâu cho dù là cõi cực lạc thì họ vẫn phải
sống trong cảnh khổ như thường. Vì vậy khi tâm thanh tịnh, không
còn phiền não quấy phá thì nơi ấy chính là cõi Phật thanh tịnh
rồi.
Nguyên nhân gây ra tất cả những nỗi khổ đau của cuộc sống là đều
do ý thức tức là tư tưởng mà ra. Vì thế đức Phật dạy chúng sinh
chuyển tất cả tư tưởng (ý thức) thành ra trí tuệ thì chấm dứt
khổ đau và dĩ nhiên Niết bàn an lạc hiển hiện. Thí dụ có đứa con
chửi cha mẹ của mình làm cho cha mẹ quá đau khổ, tâm muốn phát
điên. Nhưng tại sao lại phải phát tâm sân? Bởi vì tư tưởng gieo
vào trong tâm thức để phân biệt nó là con của mình, mình sanh đẻ
và nuôi nó lớn khôn thế mà hôm nay nó dám chửi mình. Vì thế
những tư tưởng xấu đó làm cho mình sân, chớ không phải đứa con
chửi làm mình sân. Bây giờ cũng câu chửi đó nhưng đối với bậc
thánh thì họ vẫn thản nhiên tự tại. Tại sao? Bậc thánh nhân
không sân bởi vì họ không có dòng suy tư như phàm nhân. Phàm
nhân thì suy nghĩ phân biệt nó là con mình mà nó chửi mình quá
nặng thì chính cái suy nghĩ này làm mình khổ, mình sân trong khi
đó bậc thánh họ cũng nghe mà không suy nghĩ nên tâm phẳng lờ thì
sân tìm đâu ra. Vì thế tất cả mọi phiền não đau khổ trên thế
gian này đều phát nguồn từ ý thức, tư tưởng mà ra.
Nhưng làm sao chấm dứt tư tưởng?
Đúc Phật dạy hành giả áp dụng hai lối tu:
ü
1) Một là tu Chỉ (định) (Xa-ma-tha) nghĩa là dùng thiền định ly
sanh hỷ lạc địa và định sanh hỷ lạc địa hay niệm Phật mà áp chế
nó. Tuy nhiên tư tưởng chỉ bị ép chế chứ không bị tiêu diệt cũng
như đá đè thì cỏ mọc không được đến khi dời đá đi chỗ khác thì
cỏ mọc lên tức thì mà đôi khi còn tốt hơn lúc trước nữa. Tu Chỉ
là mục đích làm dừng lại mọi vọng tưởng trong tâm để tâm được
yên tịnh (tạm thời).
Hành giả nhờ ly mà có được sự an lạc do đó sơ thiền là phương
pháp rất thực dụng cho tất cả mọi chúng sinh nếu muốn đạt được
sự an lạc. Vậy ly cái gì? Chữ ly ở đây là chữ gọi tắc của chữ
viễn ly. Sống trong thế gian thì bất cứ ai cũng đam mê về bản
ngã (chấp ngã) và ngã sỡ hữu (chấp pháp). Ngoại trừ những người
học đạo, hành đạo và chứng đạo thì mới có thể kiềm chế cường độ
đam mê đó còn phàm nhân thì chạy theo những thứ đam mê này là
chuyện thường chẳng có gì đặc biệt. Bản ngã và ngã sở hữu là cội
gốc của vô minh và từ đó nó phát sinh đâm chồi nẫy nhánh tạo
thành ba thứ vô minh căn bản tham-sân-si.Và từ cái tam độc này
nẫy sinh ra tham đắm về tài, sắc, danh, thực, thùy còn được gọi
là đam mê theo ngũ dục lạc. Ngày nào con người còn lặn hụp trong
tài sắc danh lợi ăn ngon ngủ kỷ này thì cuộc đời không bao giờ
có được an vui, tự tại. Đến đây có người thắc mắc rằng có tiền
nhiều, danh vọng lớn, ăn ngon, mặc đẹp thì nếu đây không phải là
hạnh phúc, là những cứu cánh của cuộc đời thì còn là gì? Thật
vậy, Phật giáo không phủ nhận những hạnh phúc giả tạm nầy, nhưng
nếu quán chiếu lại thì sẽ thấy rằng tất cả những hạnh phúc ở
trên đều phải có điều kiện. Mà hễ bất cứ cái gì trên thế gian mà
có điều kiện thì cái đó bị ràng buộc. Hạnh phúc nhỏ thì ràng
buộc ít còn hạnh phúc càng nhiều thì chắc chắn sự ràng buộc càng
to lớn hơn. Nói cách khác hễ có ràng buộc dầu ít hay nhiều thì
vẫn là cội nguồn cho những nỗi khổ sau này tức là trong cái hạnh
phúc đó đã ngầm chứa mầm mống khổ đau rồi. Thí dụ ngày tân gia
chắc chắn phải là ngay vui, hạnh phúc cho gia đình, nhưng chỉ
vài tháng sau nào là tiền nhà, tiền thuế, tiền bảo hiểm và biết
bao thứ tiền khác dính liền với căn nhà mới này thì lúc đó có
còn vui vẻ như mấy tháng trước chăng? Vì thế, con người càng
chạy theo ngũ dục lạc, càng đam mê tài sắc danh lợi ăn ngon ngủ
kỷ thì dễ sống trong vô minh bất giác, mê mờ chân tánh và sẽ
không bao giờ có được giây phút an lạc trong tâm hồn. Do đó bây
giờ hành giả tu theo sơ thiền sẽ làm cho tâm dần dần biết viễn
ly, xa lìa những ngã và ngã sở khiến cho những căn bản phiền não
tham sân si cũng dần dần tan biến. Càng viễn ly thì cường độ
tham sân si càng giảm khiến cho thân tâm nhẹ nhàng thanh thoát
khinh an tự tại.
Đến đây hành giả bắt đầu tu định,
nghĩa là định sinh hỷ lạc địa. Hành giả sau khi vượt qua viễn ly
tức là đến đây thì họ đã bỏ hết tất cả những ngoại duyên, nên họ
có thể chú tâm để quán về một đối tượng sở quán nào đó. Thí dụ
hành giả bây giờ xoay về quán vô thường để thấy biết rằng thân
là vô thường, cảnh cũng vô thường và tất cả vật thể hữu vi đều
là vô thường. Từ quán vô thường rốt ráo đó đưa hành giả trở về
viễn ly, xa lìa không dính mắc tức là trở về lại với sơ thiền.
Đến đây hành giả thấy thấu suốt được chân lý vô thường, khổ, vô
ngã, bất tịnh của thế gian. Nói cách
khác
hành giả dùng những đối tượng vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh
để quán và sau cùng thấy biết được bằng chính tri kiến của mình
do sức công phu thiền định, quán chiếu thì thời điểm này hành
giả chứng nhập những chân lý đó mà không phải cần qua sách vở
nữa. Do đó nhị thiền là do sức công phu tu tập định tâm mà sinh
ra hỷ lạc.
ü
2) Tu Quán (Tam-ma-bát-đề) tức là tu trí tuệ. Khi tâm đã định
thì giai đoạn kế tiếp là tu Quán nghĩa là tiếp tục thiền định
đến khi nhận chân được chân lý tức là trí tuệ phát sinh. Chỉ có
trí tuệ mới có sức mạnh và công năng tiêu diệt ý thức, vọng
tưởng. Đến đây thì những vi tế tham sân si mới thật sự bị hủy
diệt, tâm hằng tự tại thanh tịnh Niết bàn.
Thí dụ tiền làm tâm ô nhiễm nên người tu Phật chạy trốn không
dám đụng tới nó. Nhưng tại sao lại phải chạy trốn? Bởi vì cái
nhân của tham tiền, tham sắc, tham danh lợi thì lúc nào cũng núp
ở trong tâm của con người chỉ đợi có cơ hội, có đủ duyên là
chúng hợp lại đưa con người vào vòng sa đọa của tam ác đạo. Lục
Tổ dạy rằng: “Tịch tịch bất kiến văn” nghĩa là không còn
chấp nơi thấy, nghe, hay, biết thì có thanh tịnh nhẹ nhàng tức
là thấy thì thấy tất cả mà như không thấy gì hết. Nghe, ngửi,
nếm, xúc, biết cũng thế. Nói thế thì người chứng đạo cũng biết
vui, biết đẹp, biết xấu, biết dở, biết tất cả đấy chứ, nhưng họ
không đưa cái biết ấy vào tâm (vô trước là không chấp) để rồi
sanh ra tham luyến cho nên đối với họ cái gì cũng biết nhưng xem
như không biết gì hết.
Đức Phật giới thiệu giáo lý “Như Thị” để người tu Phật có một
cái nhìn, một nhận định chính xác về tánh “Như Thị” tức là
“Như Vậy” của vạn pháp. Thập Như Thị là tinh hoa, là giáo lý rất
thâm sâu của kinh Pháp Hoa bởi vì chỉ có Phật với Phật mới có
khả năng thấy biết cùng tận thật tướng của các pháp. Đó là các
pháp đều có như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị
lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như
thị báo, như thị bản mạt cứu cánh đẳng nghĩa là thật tướng của
tất cả các pháp có đầy đủ 10 như thị. Thí dụ Như thị tướng
(Tướng như vậy) nghĩa là hình tướng của vạn pháp như thế nào
chúng ta chỉ nên thấy biết như thế ấy, đừng thêm, đừng bớt, đừng
cộng ngã kiến vào thì chúng ta nhìn đúng “Như Thị Tướng”. Do đó
khi nhìn đóa hoa thì biết là đóa hoa, đừng cho là hoa đẹp,
hoa xấu, hoa tươi hay hoa héo…
Con người vì không nhìn vạn pháp bằng “Như Thị” mà nhìn đời bằng
những phạm trù đối đãi phân biệt cho nên mới sinh ra phải quấy,
thương ghét, tốt xấu, thân sơ, vui mừng, buồn giận…Nếu nhìn vạn
pháp bằng tánh “Như Thị” thì đó là lối nhìn theo Tri Kiến Vô
Kiến. Ngược lại nếu con người dựa theo thiển kiến chủ quan của
mình mà nhìn vạn pháp thì chắc chắn họ sẽ đánh mất tánh “Như
Thị” cho nên lối nhìn này chính là Tri Kiến Lập Tri có thể đưa
con người đến những nhận định không chính xác, sai lầm, thiếu
hoàn hảo.
Vì thế kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy rằng:
§
Tri kiến lập tri tức vô minh bổn,
§
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn.
Nghĩa là nếu con người lấy sự thấy biết nếm ngửi bên ngoài đem
vào tâm làm tâm phát khởi sự phân biệt khiến tham-sân-si dấy
khởi thì đây là căn nguyên của vô minh. Còn thấy biết thì cái gì
cũng thấy biết, nhưng không đem vào tâm thì thấy biết mà cũng
như không thấy biết gì hết nên tâm hằng thanh tịnh thì đây chính
là Niết bàn vậy.
Khi trí tuệ thấu suốt, lục căn thanh tịnh thì tuy biết đời là vô
thường nhưng không có đau khổ, biết đời là khổ nhưng không trốn
cái khổ mà tận diệt chúng để có an vui tự tại. Biết đời, vạn
pháp là vô ngã nhưng không vì thế mà hủy diệt những cái
có. Do đó mục đích chính vẫn là cải tạo làm cho lục căn được
thanh tịnh thì tuy sống trong thế giới vô thường vô ngã mà ta
vẫn an lạc tự tại Niết bàn. Vì thế đối với thế gian là khổ đau,
là phiền não mà ta vẫn an vui hạnh phúc. Quán vạn pháp giai
không thì tâm không dính mắc, không còn lưu luyến hay bị nhận
chìm đọa lạc. Con người có khổ vì sống trong vô minh, bất giác
cho nên khi thức tỉnh để biết rằng thật tánh của khổ là Phật
tánh thì làm gì còn khổ nữa.
Ngày xưa lúc còn là vị Thái tử giàu sang quyền quý, sống trên
nhung gấm lụa là mà Tất Đạt Đa đâu có hạnh phúc. Miệng ăn sơn
hào hải vị mà vị đắng như ngậm bồ hòn. Ngủ nơi lầu son gác tía
mà lòng cứ lo sợ nay bị kẻ này giết, mai người kia ám sát nên đi
đâu mặc dầu lúc nào cũng có tiền hô hậu ủng mà lòng không an.
Đến khi xuất gia thành đạo, ngày ăn một bửa đêm ngủ gốc cây mà
lòng an vui tự tại. Vì thế đối với đức Phật bỏ tất cả thì sẽ
được tất cả. Được tất cả nghĩa là không được gì hết tức là không
còn dính mắc. Do đó tôn chỉ của đạo Phật là diệt khổ chớ không
trốn đời bởi vì khi quán chiếu để thấy biết cuộc đời là vô
thường vô ngã, tịch tịnh thì ở đâu cũng thanh tịnh, làm việc gì
cũng an vui tự tại cho nên ngày xưa đức Phật đến đâu thì nơi ấy
là cõi Phật thanh tịnh bởi vì tâm Ngài thanh tịnh thì thế giới
sẽ thanh tịnh theo.
“Rõ ràng đạo quả đâu xa
Chơn tu thành Phật, Phật là người tu”.
∆
TOP |
NEXT
|