A Nan bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Đúng như lời pháp vương dạy: tâm tánh cùng khắp
mười phương thế giới, yên lặng thường trụ, không có sinh diệt.
Song nếu đem lời dạy này, so sánh với thuyết của Phạm Chí Sa Tỳ
Ca La về “minh đế” và thuyết của bọn ngoại đạo Đầu Khôi về “chân
ngã” khắp cùng, khác nhau chỗ nào?Bottom
of Form
Vào thời Đức Phật còn tại thế đã có trên 96 tôn giáo với rất
nhiều giáo điều khác nhau. Vì thế không có gì ngạc nhiên trước
khi thời Đức Phật đã có và ngay cả vào thời với Đức Phật cũng có
rất nhiều dị phái triết gia đưa ra những chủ thuyết để giải
thích nhân sinh và vũ trụ quan dựa theo sở kiến của họ. Chủ
thuyết thì nhiều, nhưng đại để có những tư tưởng chính như sau :
1) Nhóm phạm chí Satìcala : Nhóm này chủ trương rằng có một minh
đế tạo ra vạn vật trên thế gian này. Minh đế là một đấng thiêng
liêng có công năng sáng tạo ra tất cả vạn vật mà con người không
thể thấu biết được mà nhóm này gọi là đại ngã. Còn tất cả chúng
sinh trong thế gian này là tiểu ngã. Do đó minh đế sinh ra tiểu
ngã và sự tiến hóa cùng cực của tiểu ngã sẽ nhập vào đại ngã
này. Chính Đức Phật không hề nói đến tiểu ngã hay đại ngã vì
giáo lý Đức Phật dạy chúng sinh phá cho được ngã chấp và pháp
chấp thì tâm sẽ được an trụ vĩnh viễn nơi tự tánh Niết bàn.
2) Nhóm thứ hai lại chủ trương thần ngã : Nhóm này có tên là
“Đầu Khôi” và họ tin rằng từ thần ngã mới sinh ra vạn vật bao
gồm cả con người.
3) Nhóm thứ ba đề xướng thuyết “Tự Nhiên”: Họ lý luận rằng vạn
vật trên thế gian này tự nhiên sinh chớ không có nguyên nhân hay
quả báo gì cả. Cùng thời với Đức Phật, ở Trung Hoa có Lão Tử
cũng đề xướng thuyết “Tự Nhiên” như vậy. Thuyết này lý luận rằng
con người, vạn vật, thế gian vũ trụ tự nhiên sinh, tự nhiên
diệt, tự nhiên có mưa, tự nhiên có nắng. Thử hỏi nếu không ăn
con người có tự nhiên được no không? Không đi làm tự nhiên tiền
của có vào nhà mình không? Không học, không nghiên cứu tự nhiên
có biết được không? Đức Phật phủ nhận hoàn toàn thuyết này mà
đưa ra thuyết duyên khởi, nhân quả luân hồi. Đó là con người bây
giờ là thọ báo của những tác nhân mà chính họ đã tạo ra từ những
kiếp quá khứ chớ không phải tự nhiên mà có hay do trời đất nào
tạo ra cả. Có trồng cây mới có trái, có ăn mới được no, làm ác
thì phải thọ báo quả dữ còn làm lành thì được hưởng phước, thế
thôi.
4) Nhóm thứ tư chủ trương tôn sùng Phạm thiên vì chỉ có Phạm
thiên mới có đủ công năng sinh ra muôn loài vạn vật. Đó là những
tôn giao chủ trương “Thiên chủ tạo vật” có nghĩa là tất cả nhân
sinh vạn vật đều do một đấng Thượng đế tạo ra. Ở Ấn Độ có đạo Bà
la môn, ở trung Đông và thế giới Tây phương có đạo Thiên chúa
giáo và đạo Tin lành.
Nếu đứng về mặt hiện tượng tức là thế giới hữu hình thì vạn pháp
là do nhân duyên sanh. Phật giáo đối với nhân sinh quan và vũ
trụ quan tức là thế giới hữu vi có một giải thích rất rõ ràng vì
tất cả chỉ là những hiện tượng trong pháp giới duyên khởi. Duyên
khởi là pháp tắc phổ biến về tính nhân quả. Tất cả mọi pháp tồn
tại đều là duyên khởi chẳng hạn to lớn như trăng sao hoặc nhỏ
như vi trần, một cành hoa, một cọng cỏ không có pháp nào không
là pháp duyên khởi. Đó là “Cái này có nên cái kia có, cái này
sinh nên cái kia sinh. Cái này không nên cái kia không và cái
này diệt nên cái kia diệt”.
Còn đứng bên mặt bản thể chơn như thì Phật giáo chỉ chú trọng
vào “Pháp nhĩ như thị” nghĩa là vạn vật thế gian thế nào thì
biết như thế đó thì tâm sẽ an tịnh mà không cần phải thêm ngã
kiến hay tâm phân biệt vào. Bởi vì tất cả vạn pháp duyên sanh
như huyển nên chẳng có cái gì là thật cả vì tất cả sinh diệt
thay đổi theo luật vô thường vô ngã. Đức Phật dạy rằng: “Phi
nhơn duyên, phi tự nhiên, phi hòa, phi hợp, pháp nhĩ như thị”
nghĩa là vạn pháp chẳng do nhân duyên, cũng chẳng tự nhiên sanh,
cái này hòa hợp với cái khác cũng không đúng mà thật ra vạn pháp
sinh ra như thế nào thì phải thấy biết như thế ấy.
Lúc ở núi Lăng Già, Thế Tôn dạy cho ông Đại Huệ rằng: Bọn ngoại
đạo thường nói “tự nhiên” còn Phật thì nói “nhân duyên”. Con nay
suy nghĩ cái tâm tánh vốn tự nhiên vì nó không phải sanh cũng
không phải diệt. Nó xa rời tất cả điên đảo hư vọng. Con nghĩ cái
tự nhiên này khác với thuyết tự nhiên của bọn ngoại đạo. Xin Thế
Tôn khai thị cho chúng con để được tâm tánh sáng suốt, khỏi rơi
vào tà kiến.
Nếu đã nói đến thuyết tự nhiên thì tất cả đều là tự nhiên đâu có
lý do gì mà thuyết tự nhiên của ngoại đạo lại sai còn thuyết tự
nhiên của Đức Phật lại đúng. Tại núi Lăng Già, Đức Phật đã bác
bỏ thuyết tự nhiên của ngoại đạo vì trên thế gian này chẳng có
cái gì tự nhiên mà có vì tất cả vạn pháp là do nhơn duyên sinh
ra. Nhưng ông A Nan khi nghe Phật nói thuyết nhơn duyên cũng
chưa phải là đệ nhất nghĩa tức là thế giới bản thể chơn như vì
thuyết nhân duyên chỉ đúng đứng về mặt hiện tượng vạn hữu tức là
của thế giới hữu vi. Còn đứng về mặt bản thể chơn như thì phi
nhơn duyên, phi tự nhiên, phi hòa, phi hợp, pháp nhĩ như thị mới
là chân lý. Vì sao? Nếu đứng về bên “Tục đế” mà quan sát hiện
tượng vạn hữu qua cái lý “nhơn duyên sanh” thì hoàn toàn đúng.
Không những nó đúng riêng đối với Phật giáo mà nó còn đúng sự
thật với cuộc đời, đúng với tất cả những quy luật khách quan của
thế giới hiện tượng.
Tuy nhiên, nếu đứng bên
“Chơn đế” mà nhìn nghĩa là tư duy quán chiếu rộng rãi hơn để
quán triệt căn nguyên, xuyên suốt bản thể của tất cả hiện tượng
vạn hữu thì hiện tượng nào cũng là hiện tượng của bản thể và bản
thể nào cũng không ngoài hiện tượng. Cũng như sóng nào cũng là
sóng của thể nước yên lặng, nhưng sóng và thể nước yên lặng cũng
đều là nước, bất ly mà bất tức. Nói cách khác, tâm chỉ có một,
nhưng khi tâm động thì từ bản tâm vô vi thanh tịnh biến thành
thế giới hiện tượng, ngược lại nếu tâm tịnh thì thế giới hiện
tượng biến mất mà được thay vào bằng sự thanh tịnh an lạc của
Niết bàn. Ông A Nan một lần nữa lại hiểu lầm thế giới hiện tượng
hữu hình và thế giới của bản thể chân như nên ông đem thuyết
nhơn duyên của thế giới hữu vi mà so sánh với bản thể chơn tâm
tức thế giới vô vi thanh tịnh. Như thế thì làm sao đúng được.
Phật dạy rằng :
- Nay Như Lai dùng
phương tiện chỉ dạy như vậy mà ông còn chưa tỏ ngộ, lại lầm là
“tự nhiên”. Này A Nan! Nếu là tự nhiên thì ông thử chứng minh
cái gì là tự thể của cái tự nhiên ấy? Ông hãy xét kỹ tánh thấy
nhiệm mầu lấy cái gì làm tự thể? Lấy sáng làm tự thể hay lấy tối
làm tự thể? Lấy rỗng không làm tự thể hay lấy ngăn bít làm tự
thể?
A Nan! Nếu lấy sáng làm tự thể lẽ ra không thấy được tối. Nếu
lấy rỗng làm tự thể lẽ ra không thấy được ngăn bít. Bởi vì nếu
lấy sáng làm tự thể thì khi đến khi tối tánh thấy đã diệt mất đi
rồi làm sao thấy được tối?
Tự nhiên ở đây không có nghĩa là từ trên trời rơi xuống mà bất
cứ cái tự nhiên nào cũng phải có cái tự thể tức là bản tánh chân
thật nằm bên trong. Thí dụ một này nọ cả cha lẫn mẹ đều đi làm
về trễ. Khi vừa mở cửa vào họ đã ngửi mùi thơm của nồi cơm cùng
thức ăn dọn sẳn trên bàn. Quá ngạc nhiên họ hỏi đứa con gái mới
lớn rằng ai dạy con nấu cơm ngon quá vậy? Đứa bé gái trả lời:
“Tự nhiên con làm chớ có ai dạy con đâu”. Vậy thế nào là tự
nhiên? Tự nhiên dựa theo lời đứa bé gái là tuy không có người
trực tiếp chỉ cách nấu nướng, nhưng đứa bé gái trong quá khứ đã
bao lần học cách nấu nướng từ người mẹ bằng cách quan sát và để
ý. Vậy cái khả năng để đứa bé gái có thể nấu, mà cháu gọi là tự
nhiên thật ra chỉ là cái kinh nghiệm cháu đã có sẳn trong tâm
thức của mình mà nhà Phật gọi là tự thể. Nếu không có những kinh
nghiệm này chắc chắn đứa bé gái không thể nào “tự nhiên” mà nấu
những món ăn ngon giống mẹ nó được.
Nếu lý luận như vậy thì tự
thể của tự nhiên là gì? Thí dụ như tự thể của mặt trời là sáng
tức là không bao giờ có tối. Khi có mặt trời là có ánh sáng và
không có mặt trời thì bóng tối mới xuất hiện. Nhưng ở đây tánh
thấy đâu có tự nhiên được. Tại sao? Bởi vì nếu tánh thấy cũng
giống như tự nhiên thì khi sáng không thấy được tối hoặc khi
trống rỗng không thể thấy ngăn bít. Nhưng tánh thấy có thể thấy
ánh sáng mặt trời và cũng có thể thấy được bóng tối ban đêm.
Hoặc tánh thấy có thể thấy được trống rỗng cũng như ngăn bít.
Nếu nói tự thể của tánh thấy là xanh thì nó không thể thấy được
màu đỏ hay màu hồng, nhưng tánh thấy thì thấy tất cả mọi sắc mọi
màu. Do đó tánh thấy không thể gọi là tự nhiên được.
A Nan bạch Phật rằng :
- Bạch Thế Tôn! Tánh
thấy nhiệm mầu này chắc không phải tự nhiên. Nay con phát minh
tánh thấy do “nhân duyên” sanh. Xin Như Lai dạy cho, con phải
hiểu thế nào cho hợp với tánh “nhân duyên” của Phật?
Phật dạy :
- Ông nói tánh thấy do
nhân duyên. Vậy tôi hỏi ông: Tánh thấy đó, nhân sáng mà thấy hay
nhân tối mà thấy? Nhân trống không mà thấy hay nhân ngăn bít mà
thấy? Nếu nhân nơi sáng mà có thấy thì lẽ ra không thấy được
tối. Nếu nhân nơi tối mà có thì đáng lẽ chẳng thấy được sáng.
Như thế cho đến nhân nơi hư không, nơi ngăn bít cũng giống như
sáng và tối. Lại nữa A Nan! Cái thấy này lại duyên nơi sáng mà
có thấy hay duyên nơi tối mà có thấy? Duyên nơi hư không mà có
thấy hay duyên nơi ngăn bít mà có thấy? A Nan! Nếu duyên nơi hư
không mà có thấy, lẽ ra không thấy chỗ bít lấp, nếu duyên nơi
bít lấp mà có, lẽ ra không thấy nơi hư không. Như thế cho đến
duyên nơi sáng, duyên nơi tối cũng giống như hư không và bít
lấp.
A Nan! Ông nên biết: tánh thấy nhiệm mầu, sáng suốt, không phải
“nhân” không phải “duyên”, không phải “tự nhiên” không phải
“không tự nhiên”; không có cái “phải” hay “không phải”. Nó rời
tất cả tướng, nhưng nó không ngoài tất cả pháp. Ông đem các danh
tướng hí luận thế gian mà nhận thức phân biệt chẳng khác lấy tay
nắm bắt hư không chỉ thêm nhọc sức chớ hư không làm sao để ông
bắt được.
Sau khi bị Phật bác bỏ thuyết tự nhiên, bây giờ ông A Nan quay
sang thuyết nhân duyên để so sánh với tánh thấy. Thuyết nhân
duyên là đứng về mặt hiện tượng vạn hữu nghĩa là thế giới hữu vi
sinh diệt tức là sự tướng trong khi đó tánh thấy thuộc về mặt
bản thể chơn như tức là thế giới thật tướng vô tướng thì làm sao
so sánh được. Do đó nếu muốn biết được tánh thấy nhiệm mầu thì
ông A Nan phải lìa sự tướng sinh diệt mà quay về với bản thể
chơn như, phải lìa xa ngôn thuyết sắc tướng thì thức tâm không
còn chỗ bám víu vào tâm phan duyên thì chơn tâm, Phật tánh mới
có thể hiện bày.
Trong Nhiếp Đại Thừa luận có câu chuyện “Kẻ mù rờ voi”. Người
thứ nhất rờ nhằm cái chân thì nói con voi như cột nhà, người
khác rờ nhằm lỗ tai thì nói con voi như cái quạt và người mù thứ
ba rờ nhằm cái đuôi thì nói con voi như cây chổi quét nhà…Do đó,
nếu những người mù kia không thấy được chân tướng của con voi,
cho dù có rờ trúng, thì họ nói cách nào cũng sai cả.
Vậy nên biết nếu con người chưa ngộ được thể tánh chơn tâm thì
cho dù nói cách nào cũng sai. Vì thế mà trong kinh Duy Ma Cật
khi được hỏi về chứng nhập nguyên lý bất nhị, ông Duy Ma Cật chỉ
biết lặng thinh. Sự im lặng của ông tức là ông không còn dựa vào
hình tướng sinh diệt của thế gian mà diễn tả sự tịch diệt của
thế giới vô vi thanh tịnh được. Biết mà không nói được thì đây
mới là cái biết tột cùng rốt ráo vậy.
A Nan thưa:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh
giác nhiệm mầu này chẳng phải nhân chẳng phải duyên, tại sao Thế
Tôn thường chỉ dạy các Tỳ kheo: tánh thấy thường đủ bốn thứ nhân
duyên, nghĩa là nhân nơi hư không, nhân nơi sáng, nhân nơi tâm
và nhân nơi mắt. Nghĩa ấy thế nào?
Phật bảo A Nan :
- Như Lai nói các tướng
nhân duyên trong thế gian, chẳng phải đệ nhất nghĩa.
Đức Phật dùng pháp thế gian để dạy chúng tỳ kheo bốn pháp nhân
duyên để họ quán chiếu tu hành. Nhưng đây chỉ là phương tiện để
dạy chúng đệ tử trong giai đoạn đầu vì giáo pháp này không giúp
họ thấy được thật tướng vạn pháp nên Đức Phật mới nhấn mạnh đây
không phải là đệ nhất nghĩa. Nhưng ông A Nan lại lấy giả làm
chân nên áp dụng sai lầm cũng như thuốc tuy có hay mà không trị
đúng bệnh thì chẳng những không có giá trị mà còn tai hại thêm.
Sự huyền diệu của giáo lý Đức Phật là không cứng ngắc cố định,
mà tùy duyên hóa độ chúng sinh. Đó là có khi Phật nói “khai” và
cũng có khi Ngài nói “hợp”. Khi căn cơ chúng sinh còn thấp thì
Đức Phật dạy Tứ Diệu Đế nghĩa là có Khổ, Tập, Diệt, Đạo tức là
khai. Khi chúng sinh đã thấu hiểu thế giới hữu vi sinh sinh diệt
diệt thì bây giờ Đức Phật lại phủ định không có cái gì là Tứ
Diệu Đế cả mà chỉ còn lại Tam Đế để chuyển tâm thức con người
sang một hệ tư tưởng mới là tánh Không. Đó là Chân Đế, Tục Đế và
Trung Đạo Đế nghĩa là Ngài chuyển từ khai đến hợp tức là gom
lại. Sau đó Ngài lại nói bây giờ không còn Tam Đế mà chỉ là Nhị
đế tức là Chân Đế và Tục Đế. Đến đây chúng sinh đã thấu hiểu
giáo lý tối thượng thừa thì Đức Phật lại nói rằng không có cái
gì là Nhị Đế cả mà chung quy chỉ có Đệ Nhất Nghĩa Đế mà thôi tức
là trăm sông cùng đổ về biển lớn đó là Nhất thừa Phật đạo vậy.
A Nan! Các người thế gian khi họ nói: “tôi thấy”. Vậy thế nào
họ gọi là thấy, thế nào gọi là không thấy?
A Nan thưa:
- Người đời nhân ánh
sáng mặt trời, mặt trăng hoặc đèn mà thấy các sắc tướng, họ gọi
đó là thấy. Nếu không có các thứ ánh sáng đó, họ gọi là không
thấy.
Phật bảo :
- Nếu lúc không có ánh
sáng mà gọi là không thấy thì lẽ ra lúc đó không thấy tối. Nếu
đã thấy tối thì đó chỉ là không sáng, chớ không phải không thấy.
Nếu lúc tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy thì lúc
sáng không thấy tối cũng nên gọi là không thấy. Vậy thì sáng tối
cả hai đều là không thấy!
A Nan! Thực tế không phải vậy. Tối và sáng tự lấn át nhau, tánh
thấy của ông chẳng có lúc tạm không. Như thế đủ biết trong cả
hai trường hợp đều gọi là thấy. Sao gọi là không thấy?
Thế nên A Nan! Nay ông
phải biết, khi thấy sáng thì cái thấy không phải là sáng, khi
thấy tối thì cái thấy không phải là tối, khi thấy hư không thì
cái thấy không phải là hư không, khi thấy ngăn bít thì cái thấy
không phải là ngăn bít. A Nan! ông lại nên biết, khi ông thấy
được tánh thấy thì tánh thấy không phải là cái bị thấy. Tánh
thấy còn vượt xa cả cái thấy và cái thấy còn không thể bắt gặp
được tánh thấy. Tại sao ông còn nói nhân duyên tự nhiên và tướng
hòa hợp?
Các ông là hàng Thanh
Văn, kiến thức hẹp hòi thiếu hiểu biết, không thông đạt được
thật tướng thanh tịnh. Nay Như Lai chỉ dạy, ông khéo suy nghĩ,
không được biếng trễ trên đường Bồ-đề!
Tánh thấy thì lúc nào cũng có. Có ánh sáng hay không có ánh sáng
thì tánh thấy vẫn còn đó vì nếu không có ánh sáng thì bây giờ
thấy bóng tối chớ đâu phải không thấy gì hết. Con người thế gian
thường lầm lẫn là phải có sắc tướng mới gọi là thấy. Vì khi thấy
sáng thì con người tin chắc là thấy còn ban đêm thì họ nghĩ rằng
không thấy chi hết. Thật ra khi thấy sáng thì chúng sinh không
thấy tối và ngược lại khi thấy bóng tối thì dĩ nhiên con người
không thấy ánh sáng. Tuy ánh sáng và bóng tối thay đổi theo
không gian và thời gian, nhưng tánh thấy lúc nào cũng còn ở đó,
không thay đổi. Cũng như mặt trời lên, áng sáng ban mai dần dần
lấn áp màn đêm đen hút nhưng tánh thấy trước sau như vậy, không
thêm không bớt.
Tại vì nếu thấy sáng thì
bóng tối không còn và khi màn đêm buông xuống làm ánh sáng tan
biến thì bóng tối xuất hiện vậy thôi. Vì vậy ánh sáng, bóng tối,
màu sắc, hình tướng ngay cả hư không đều là đối tượng tức là vật
bị thấy. Chúng sinh cần phân biệt cho rõ ràng rằng tánh thấy
không phải là cái thấy. Tại sao? Khi mắt của con người tức là
nhãn căn tiếp xúc với tiền trần tức là vật bị thấy mà nhận ra
cái thấy. Còn tánh thấy là khả năng nhận biết được đối tượng của
mình lúc nào cũng ở đó, không thay đổi, là tánh duyên giác
nên nó là vô hình vô tướng thì làm sao thấy được. Do đó nếu ông
A Nan thấy được tánh thấy của ông thì tánh thấy ấy bây giờ biến
thành vật bị thấy tức là tánh thấy trở thành ngoại cảnh, tiền
trần. Điều này chắc chắn không đúng. Khi chúng sinh lìa xa tất
cả mọi vọng thức trong tâm để có được pháp nhãn thanh tịnh thì
mới thấy được tánh thấy. Ông A Nan và hàng đại chúng hữu học
chưa chứng được thánh quả nên tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh vì
thế ông không thể nào thấy được tánh thấy của chính mình.
|
|