Sau khi được Phật chỉ bảo
tận tường để thu bốn khoa và bảy đại vào Như Lai Tạng bản thể
thì ông A Nan và đại chúng cùng trực ngộ tâm tánh, không còn
hoài nghi, dính mắc. Ban đầu ông A Nan và đại chúng chấp cái
thân giả tạm này cho là tâm ở trong thân. Ông A Nan nhờ Phật chỉ
dạy bằng phương tiện dẫn dụ, lời lẽ khéo léo nhiệm mầu nên cả
thính chúng thân tâm bây giờ thanh thoát rỗng rang.
Xưa cho hư không là rộng
lớn, nay ngộ được tâm nhiệm mầu mới là bao la quảng đại, vô cùng
vô tận nên chỉ xem mười phương hư không như chiếc lá cầm trong
tay thôi. Tất cả sự vật hiện tượng trên thế gian đều là diệu
dụng của tâm Bồ-đề nhiệm mầu, sáng suốt của mình biểu hiện. Tâm
này biến khắp và bao trùm cả mười phương. Từ chơn tâm, bản thể
thanh tịnh đó mà sinh ra con người, núi cao rừng thẳm, chim bay
cá lặn, mặt trời mặt trăng… ngay cả vũ trụ bao la vô cùng vô tận
cho đến những sự vật bé nhỏ như vi trần, không có vật gì ngoài
chơn tâm cả.
Xưa chỉ nhận thân do cha mẹ
sinh ra là thật rồi sinh tâm yêu mến, nay nhìn ngược lại thân
này chẳng khác chi một hạt bụi trong mười phương hư không, như
những bong bóng giữa đại dương nổi chìm có ly có hợp, chẳng biết
sinh từ đâu. Xưa mê lầm chơn tâm nên chỉ chấp vọng tưởng sinh
diệt làm tâm. Nay nhờ ngộ rồi nên biết được chơn tâm mới là tâm
tánh nhiệm mầu thường trụ bất diệt và mới thật là tâm tánh bản
lai thường trụ của chính mình.
Ở trước Phật, ông A Nan thay lời đại chúng, xin được nói lên một
bài kệ tán dương Đức Phật, cùng phát nguyện và trình lên những
điều tâm đắc của tận đáy lòng :
Diệu trạm tổng trì bất
động Tôn
Thủ Lăng Nghiêm vương
thế hy hữu
Tiêu ngã ức kiếp điên
đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch
Pháp thân.
Nguyện kim đắc quả thành
bảo vương.
Hoàn độ sa thị hằng sa
chúng.
Tương thử thâm tâm phụng
trần sát.
Thị tắc danh vi báo Phật
ân.
Phục thỉnh Thế Tôn vị
chứng minh
Ngũ trược ác thế thệ
tiên nhập
Như nhất chúng sinh vị
thành Phật.
Chung bất ư thử thủ Nê
Hoàn.
Đại hùng đại lực đại từ
bi
Hi cánh thẩm trừ vi tế
hoặc
Linh ngã tảo đăng vô
thượng giác
Ư thập phương giới tọa
đạo tràng.
Thuấn-nhã-đa tánh khả
tiêu vong
Thước-ca-la tâm vô động
chuyển.
Dịch là :
Cao quý hay! Thủ Lăng Nghiêm Vương ít có
Là pháp diệu trạm, bất động tổng trì
Đây là những lời tán thán Pháp thân thanh tịnh nhiệm mầu, vắng
lặng ứng hiện đến khắp tất cả nên gọi là Diệu trạm. Tuy nói Pháp
thân mà vẫn trọn vẹn ba thân. Vì Pháp thân là thể của các pháp
và có đầy đủ ba đức nên gọi là Tổng trì. Thân Phật biến khắp
pháp giới, ứng hiện đến với tất cả quần sanh và tùy duyên cảm
ứng khắp mọi nơi mà luôn an trú ở cội Bồ-đề nên gọi là bất động.
Trọn câu này là muốn chỉ cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ông A Nan vì thấy Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp nên sanh tâm
yêu thích mới phát tâm xuất gia nên Đức Phật mới chỉ cho ông
thấy tuy thân Phật rực rỡ huy hoàng, nhưng cũng chỉ là ứng thân
sinh diệt cho nên sự phát tâm xuất gia như vậy là hư vọng, không
chính đáng. Nay nhờ ơn Phật khai thị nên diệu ngộ được tâm mình
mà thấy được Pháp thân Phật. Ban đầu, A Nan thỉnh Phật khai thị
con đường tu tập thiền định thì Phật dạy rằng : ”Có pháp
tam-ma-đề gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương” sẽ giúp
ông phá vọng hiển chơn để thấu tột nguồn nhất chân mà chứng nhập
chân lý. Vì đã ngộ được thể của định nên ông khen ngợi pháp này
là hiếm có.
Trừ hết tướng điên đảo ức kiếp của con
Không trải A Tăng Kỳ mà được pháp thân
Xưa ông A Nan chấp vọng tưởng điên đảo mà cho là chân thật,
nay nhờ liễu ngộ nên phiền não biến mất, điên đảo tiêu trừ. Xưa
chỉ biết thân tâm huyển vọng, nay cũng thân ngũ uẩn mà ngộ được
pháp thân mà không cần trải qua A Tăng Kỳ kiếp. Đây là thiền đốn
ngộ, trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật.
Tôi nguyện từ nay cho đến khi thành Phật
Độ chúng sinh như số cát sông Hằng
Đem thân tâm phụng sự vi trần quốc
Thế mới đủ đáp đền thâm ân Phật.
Phật giáo Đại Thừa luôn khuyến khích người đệ tử Phật vì chúng
sinh hoằng pháp độ sinh. Tâm niệm rằng : “Thượng cầu thành Phật,
hạ hóa chúng sinh” là cách đền ơn Phật thực tiễn nhất.
Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho :
Đời ác trược tôi thề vào trước
Còn một chúng sinh chưa thành Phật
Thì tôi không nhận hưởng Niết Bàn
Đời ác trược ngũ thế mà tôn giả A Nan nguyện vào để cứu chúng
sinh còn trầm luân trong chốn bụi trần, thống khổ chớ không lo
an lạc thanh tịnh Niết bàn cho riêng mình. Ngài nguyện độ tất cả
chúng sinh rồi mới thành Phật. Đây là lời thề nguyện rộng lớn mà
có lẽ chưa có vị A la hán nào trong hàng Thanh Văn phát nguyện
như vậy. Ngài Địa Tạng Bồ-tát cũng phát nguyện rằng : “Khi nào
còn chúng sinh trong chốn u minh thì Ngài nguyện sẽ không thành
Phật”.
Bạch đấng Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi
Tôi hy vọng xét trừ vi tế hoặc
Để sớm lên Vô Thượng Bồ-đề
Tôi sẽ làm Phật sự khắp mười phương
Tôn giả A Nan tuy ngộ được Pháp thân, nhưng đây mới chỉ là kiến
đạo chớ chưa phải là chứng đạo. Vì thế trong A Nan vẫn còn vô
minh vi tế ẩn núp thâm sâu rất khó tiêu trừ cần phải dùng oai
lực dũng mãnh của thiền định mới có thể phá được. Một khi những
kiến hoặc đã tiêu tan thì con đường để viên thành Phật quả sẽ
không còn xa. Khi thành Phật thì Ngài sẽ độ chúng sinh mười
phương thế giới bao la vô cùng vô tận.
Hư không dù hết, nguyện tôi không cùng.
Thuấn-nhã-đa là hư không. Thước-ca-la là kiên cố. Đây là lời thệ
nguyện để nói lên tâm bất thối kiên cố. Tuy hư không, vô hình vô
tướng, bao la vô cùng vô tận mà còn có thể tiêu tan, còn tâm
kiên cố và nguyện lực của Ngài A Nan không bao giờ lay chuyển.
|
|