A Nan gặp Phật, đảnh lễ rơi lệ vì hối
hận xưa nay chỉ ham học rộng nghe nhiều mà đạo lực không tự cứu
được mình. Ông tha thiết cầu xin Phật dạy cho ông ba thứ thiền
quán: Chỉ (xa ma tha), Quán (tam ma) và Thiền Na là phương tiện
vi diệu đầu tiên của mười phương chư Phật đã tu tập mà thành tựu
Bồ-đề, Niết Bàn. Khi ấy có hằng hà sa số Bồ-tát, các vị Đại A La
Hán, Bích Chi Phật trong khắp mười phương đều mong mỏi được
nghe, im lặng ngồi yên để lãnh thọ pháp yếu của Phật.
Khi ấy, Thế Tôn giơ tay
dịu dàng rờ đầu và nói với A Nan cùng đại chúng rằng :
- Có pháp Tam Ma Đề, gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
Vương, bao hàm vạn hạnh, là đường lối vi diệu trang nghiêm và
cũng là pháp môn đưa đến giải thoát cuối cùng của mười phương
chư Phật, nay ngươi hãy chú ý nghe.
Trong kinh Viên Giác, Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi thỉnh Phật nói nhân
địa pháp hạnh thanh tịnh bổn khởi của đức Như Lai nghĩa là Ngài
Văn Thù xin Phật chỉ dạy phương pháp nào mà Như Lai trong khi tu
nhân địa đã thực hành để thành tựu đạo quả Bồ-đề tức là thành
Phật. Còn trong kinh này, ông A Nan cũng thỉnh Phật chỉ dạy
phương pháp nào mà đức Phật đã tu chứng để thành Phật. Đó là
pháp Tam Ma Đề. Đây chính là ba thứ thiền quán mà chư Phật mười
phương tu thành chánh giác :
1) Tu pháp Xa ma tha tức là tu Chỉ hay cũng được gọi là tu Định.
Nếu chúng sinh biết buông bỏ hết vọng tưởng để tâm được an định
thì đây là tu theo “Chỉ”.
2) Tu pháp Tam ma bát đề tức là tu Quán tức là tu Trí Tuệ.
Nếu chúng sinh tu để thấy rõ thân, tâm và cảnh giới là giả, là
huyễn hóa, là không chắc thật thì phương pháp nầy là tu theo
“Quán”.
3) Tu pháp Thiền Na tức là Chỉ-Quán đồng tu nghĩa là Định-Tuệ
song tu. Thiền Na có nghĩa là Tịnh lự. Tịnh là Chỉ tức là Định
và Lự là Quán tức là Trí tuệ.
Ba thứ định này là ba giai đoạn trong quá trình tu học. Nói cách
khác, Xa ma tha, Tam ma bát đề và Thiền na là những giả đặt danh
xưng do mức độ tâm thanh tịnh sai khác. Thí dụ, tâm thanh tịnh
của chúng sinh bị nhiễm ô mười phần mà hóa giải được ba phần thì
gọi là Xa ma tha, trừ được sáu bảy phần gọi là Tam ma bát đề và
nếu trừ được tám chín phần gọi là Thiền na. Đến khi chúng sinh
trừ sạch cả mười phần gọi là Thủ Lăng Nghiêm. Tâm đạt được một
phần thanh tịnh, chúng sinh có được một phần công đức, cho đến
khi rốt ráo viên mãn thì chính là “Thủ Lăng Nghiêm rốt ráo kiên
cố”.
Bây giờ nếu chúng sinh mà bên trong buông xả tất cả vọng tưởng
và bên ngoài không dính mắc ngoại trần thì đây là tu theo “Thiền
Na” tức là trở về sống với Chơn tâm thường trú và Thể Tánh tịnh
minh tức là Tánh Giác của mình. Như vậy pháp Tam ma đề chính là
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm giúp chư Phật mười phương ba đời
thành tựu đạo quả Bồ-đề. Đây là pháp môn vi diệu, thù thắng đưa
đến giải thoát giác ngộ.
A Nan đảnh lễ, kính vâng lời Phật dạy.
Đức Phật bảo A Nan :
- Ông với Như Lai là anh em cùng một dòng họ,
khi mới phát tâm tu tập trong giáo pháp của Như Lai, ông thấy
điểm thù thắng nào mà từ bỏ ân ái sâu nặng thế gian để xuất gia?
A Nan bạch với Phật rằng :
- Bạch Thế Tôn! Do con thấy ba mươi tướng tốt thù thắng vi diệu
tuyệt đẹp của Như Lai, hình thể sáng chói trong suốt như ngọc
lưu ly. Con thường luôn nghĩ những tướng tốt này không phải sanh
ra do ái dục. Tại sao vậy? Bởi vì dục khí thì thô nặng và dơ
bẩn. Từ sự uế tạp và thối tha ấy giao hợp với nhau tạo thành một
thứ tinh thể hỗn tạp. Từ đó, không thể sinh ra một thân thể thù
thắng, thanh tịnh, sáng rỡ vi diệu như khối vàng tía nầy. Do đó
mà con đem lòng khát ngưỡng, theo Phật xuất gia.
Đức Phật nói :
- Lành thay! A Nan, các ông nên biết, tất cả
chúng sinh từ vô thỉ đến nay, sinh tử liên tục, chỉ vì chẳng
biết chơn tâm thường trụ, thể tánh vốn trong sạch sáng suốt, lại
nương theo vọng tưởng mà vọng tưởng chẳng thật nên có luân hồi.
Mười phương chư Phật cùng một đạo lìa khỏi sanh tử đều do trực
tâm, vì tâm hạnh và lời nói ngay thẳng, như thế từ đầu đến cuối,
cho đến các ngôi bậc, ở khoảng giữa chẳng có các tướng quanh co.
Cứu cánh vào đạo là yếu tố quan trọng nhất của người phát tâm
Bồ-đề để đi đến giải thoát giác ngộ. Dựa theo Phật giáo, xuất
gia có những trường hợp như sau :
1) Thân xuất gia, tâm xuất gia. Đây là những bậc xuất gia pháp
khí, rất đáng kính trọng, là thầy của Trời, người, ba cõi. Tâm
hằng thanh tịnh, trong sáng như pha lê, chiếu suốt mười phương
thế giới. Họ là tấm gương sáng chói cho hàng xuất gia và chúng
tại gia.
2) Thân xuất gia, tâm không xuất gia.
Nghĩa là những vị tu hành tuy thân đã vào đạo mà tâm vẫn còn đắm
nhiễm thế tục, thích việc hý luận thế gian vì thế nơi nào có
danh văn lợi dưỡng là có mặt vị này. Vì thế những vị tu hành mà
không tu theo Thiền na, nghĩa là họ không nhập định được thì tâm
vọng động sẽ nổi lên mà nhà Phật gọi là “thối đọa” nghĩa là tu
lâu mà không đạt được gì cả. Lúc đó họ sẽ sinh tâm ham danh lợi,
thích tham gia hoạt động chính trị thay vì tu tâm cầu giải
thoát. Tại sao? Bởi vì danh lợi, tài sắc lúc nào cũng núp ở
trong tâm của con người, nó chỉ đợi có cơ hội để phát hiện cho
nên nếu người không nhập vào đại định để có đủ trí tuệ mà tiêu
diệt nó thì sự xuất hiện của tham-sân-si chỉ còn là vấn đề thời
gian trước hay sau, mau hay chậm mà thôi. Định không thể diệt
được tham-sân-si mà chỉ có thể đè nén nó xuống cũng như cục đá
lớn đè lên cỏ làm cỏ không lớn được, nhưng cỏ đâu có chết. Nhưng
khi tâm đã định thì trí tuệ lúc bấy giờ sẽ phát sinh làm hành
giả trực nhận rất rõ ràng bản chất thật của tham-sân-si mà đối
trị và tiêu diệt nó. Nói tóm lại, vị tu hành nào mà còn ham
chính trị, còn chạy theo những tham vọng thế tục thì chắc chắn
đây là tâm bất định, tâm bất giác, bất an.
3) Thân không xuất gia, tâm xuất gia. Tức
là những người tâm đã thấu suốt pháp giới tánh, trực ngộ chân
lý, nhưng muốn hòa mình với thế gian để tùy duyên mà hóa độ
chúng sinh. Họ có gia đình, con cái, địa vị trong xã hội, làm ăn
buôn bán nhưng không đắm nhiễm bụi trần, tâm hoàn toàn thanh
tịnh. Ở Ấn Độ có cư sĩ Duy Ma Cật, ở Việt Nam có Tuệ Trung
Thượng sĩ, ở Trung Hoa vào thời Mã Tổ có Bàng Uẩn… cũng nguyện
làm thân cư sĩ để độ chúng sinh…
4) Thân không xuất gia, tâm không xuất gia:
Là những người chìm đắm trong ái dục, chạy theo lục dục thất
tình nên trôi nổi trầm luân trong lục đạo luân hồi, đời này tan,
đời khác đến không tìm ra lối thoát. Họ đâu biết rằng nụ cười
thì ít mà nước mắt thì nhiều cho nên Phật mới dạy rằng : “Nước
mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển”. Chúng sinh lặn hụp trong ba
cõi, lên xuống trong sáu đường, sinh sinh diệt diệt cho nên Đức
Phật cũng dạy rằng : “Xương chúng sinh chất còn cao hơn núi Tu
Di” là vậy.
Khi A Nan thỉnh Phật chỉ dạy về pháp tu Tam ma đề thì Phật không
trả lời ngay mà Ngài quay lại gạn hỏi nguyên nhân nào khiến A
Nan xuất gia. Phật là bậc y vương cho nên trước khi bốc thuốc
cho con bệnh, phải xem xét căn bịnh phát xuất từ đâu bởi vì nếu
không hiểu bịnh thì làm sao chữa được bịnh. Nhưng trước khi gạn
hỏi A Nan, Phật muốn ông A Nan phải dùng trực tâm tức là tâm
thành thật, ngay thẳng, không quanh co dối trá mà trả lời. A Nan
vì thấy ba mươi hai tướng tốt của Như Lai, thù thắng vi diệu nên
đem lòng khát ngưỡng mà phát tâm xuất gia. Rõ ràng A Nan phát
nguyện xuất gia với tâm không chân chính vì thấy sắc tướng mà ái
mộ và thương yêu thì đây chính là tâm vọng tưởng.
A Nan tuy thân xuất gia mà
tâm chưa vào đạo vì tâm của A Nan còn ham học rộng thích nghe
nhiều mà không chịu tu chứng thánh quả A La hán nên tâm A Nan
không bao giờ trụ được trong Thiền Na. Tâm không định thì còn bị
thế trần cám dỗ cho nên nạn Ma đăng già làm sao A Nan tránh
khỏi. Đối với các vị A la hán, tâm hằng thanh tịnh, không còn
sắc nhiễm vì các Ngài đã vượt qua dục giới, sắc giới và vô sắc
giới nên tà chú Saticala hay sắc đẹp nàng Ma đăng già không thể
nào lay chuyển định lực kiên cố của các Ngài. Cứu cánh của kẻ
xuất gia là giải thoát giác ngộ, tự độ rồi độ tha chớ không phải
chạy theo hình sắc. Vì thế trong kinh Kim Cang, Phật dạy rằng :
“Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhơn hành tà
đạo, Bất năng kiến Như Lai” nghĩa là : “Nếu thấy ta bằng sắc
tướng, nghe ta bằng âm thanh, người nầy đi đường tà, không thấy
được Như Lai”. Ý Phật dạy rằng :
Nếu có người cho rằng thấy
sắc thân của Phật có 32 tướng tốt, là thấy được Phật, thì ông
Chuyển Luân Thánh Vương cũng có đủ 32 tướng tốt , hoặc ma nó
hiện ra sắc thân Phật có đủ tướng tốt, vậy cũng là Phật hay sao?
Hay nghe tiếng nói pháp thanh tao của Phật mà cho là nghe được
tiếng Phật, thì tiếng chim Ca-lăng-tần-già, kêu rất thanh tao
lảnh lót, vậy cũng là tiếng nói của Phật hay sao? Những người
tin tưởng như vậy, là theo tà đạo, không bao giờ thấy được Phật
tâm, Phật tánh của mình. Thí dụ như chúng sinh hằng ngày tụng
kinh, niệm Phật tức là nương theo âm thanh sắc tướng của Phật để
tu, nhưng âm thanh sắc tướng ngay cả của Phật đi chăng nữa cũng
là sinh diệt cho nên nếu con người dựa vào thức tâm làm nhân địa
tu hành thì làm sao thấy được chơn tâm, Phật tánh của chính mình
tức là không thấy được Như Lai vậy.
Đức Thế Tôn muốn chúng sinh
tư duy quán chiếu và thực hành lời Phật dạy để thanh lọc những ô
nhiễm tham-sân-si mà có thể loại trừ những vẩn đục phiền não
chướng và tri kiến chướng. Có hồi quang phản chiếu, có hồi đầu
thị ngạn thì mới thấy được bản thể chân như của mình. Vì thế
trong tịnh độ, khi chúng sinh niệm Phật đến chỗ “Lục tự Di Đà vô
biệt niệm” thì mới có “Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh”. Niệm
Phật đến chỗ không còn biết mình niệm, tức là vô niệm vô biệt
niệm thì âm thanh sắc tướng tan biến đâu còn và Phật tánh Di Đà
mới hiện bày. Đó là chứng được Nhất tâm bất loạn hay thành A la
hán rồi vậy. Đoạn kinh trên chứng minh rằng cho dù Phật thuyết
trong kinh Kim Cang hay kinh A Di Đà thì cũng cùng một ý nghĩa,
không sai khác.
Nói cách khác tu hành là
dùng tâm chuyển vật nghĩa là chúng sinh điều khiển âm thanh sắc
tướng mà có giải thoát giác ngộ. Ngược lại nếu vật chuyển tâm
nghĩa là âm thanh sắc tướng điều khiển tâm mình thì suốt đời vẫn
là phàm phu tức là thức tâm của mình không tịnh, luyến ái theo
sắc pháp bên ngoài, thấy đẹp thì thương nghe hương thì thích,
chạy theo lục dục thất tình. A Nan chỉ thấy sắc tướng sinh diệt
của Phật nên đem lòng kính yêu mà xuất gia, nhưng thật ra cho dù
Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp thì luật vô
thường sanh lão bệnh tử có thương xót, bảo tồn những tướng tốt
và vẻ đẹp của Ngài mãi mãi được đâu. Một ngày nào đó thì ứng
thân của Phật cũng mỏi mòn, già yếu và chết. Chỉ có Pháp thân
Phật mới vĩnh viễn trường tồn bất biến và một khi chúng sinh có
được chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh thì Pháp thân nầy
sẽ hiển hiện trong tất cả mọi chúng sinh chớ không phải chỉ dành
riêng cho chư Phật. Ông A Nan vì sống với tâm vọng tưởng cho nên
nếu ông đã kính yêu sắc tướng Như Lai được thì sẽ đam mê sắc
tướng nàng Ma đăng già. Vì ông A Nan nhân địa phát tâm không
ngay thẳng, không chân chính, theo Phật bằng tâm sinh tử nên mới
vướng phải nạn Ma đăng già, rơi vào đường đọa lạc. Thật ra, A
Nan chỉ là một thí dụ điển hình cho tất cả chúng sinh từ vô thỉ
đến nay luôn chạy theo tâm vọng tưởng mà sống trong điên đảo khổ
đau.
Phật dạy tiếp :
- A Nan! nay tôi hỏi ông : “Ngay khi ông vừa mới phát tâm là do
ông thích ba mươi hai tướng tốt của Như Lai. Vậy ông lấy gì để
thấy và ông ưa thích cái gì?
A Nan bạch Phật rằng :
- Bạch Đức Thế Tôn! Sự yêu thích như thế là do mắt và do tâm của
con. Do mắt thấy tướng thù thắng của Như Lai nên tâm ưa thích và
phát tâm nguyện xả bỏ sanh tử.
Phật bảo A Nan :
- Như ông nói, thật chỗ yêu thích là do tâm và con mắt, nếu ông
không biết tâm và mắt ở đâu thì làm sao hàng phục được trần lao.
Ví như quốc vương, khi có giặc đến xâm chiếm nước mình, muốn
phát binh đi trừ dẹp thì cần phải biết giặc trú ngụ nơi nào. Lỗi
lầm là ở tâm và mắt khiến ông bị luân hồi. Nay tôi hỏi ông, tâm
và mắt của ông hiện đang ở đâu?
A Nan vì thấy Phật có 32 tướng tốt, hào quang sáng chói, trang
nghiêm thanh tịnh nên đem lòng kính yêu mà xuất gia theo Phật.
Cổ nhân có câu : “Tâm sanh tướng” cho nên người có tâm thanh
tịnh như các vị A la hán, chư Bồ-tát, chư Phật thì tướng mạo
hiền hòa, phúc hậu, ai cũng kính yêu. Ngược lại, người hung ác,
khó chịu thì tướng diện khô khan, cằn cỗi, đằng đằng sát khí. Vì
mắt A Nan thấy vẻ đẹp nên tâm sanh yêu thích cho nên mắt và tâm
chính là mấu chốt phát sinh vọng tưởng. Tư tưởng Tây phương cũng
có câu : “Ánh mắt là cửa sổ của tâm hồn” là cùng một lối nhìn và
nhận thức về vọng tâm giống như ông A Nan. Vậy mắt là căn tiếp
xúc với trần tức là ứng thân Phật rồi phát sinh ra vọng thức tức
là vọng kiến tình thức trong tâm. Mà vọng kiến tình thức gồm có
đủ: yêu, thương, ghét, giận, hờn, có, không,
và nó chính là nguyên nhân của sinh tử luân hồi.
Thật ra, trong tất cả mọi
chúng sinh đều có sẵn chơn tâm thường trú không sanh không diệt
giống như chư Phật, nhưng chúng sinh từ vô thỉ đến nay luôn chạy
theo phiền não vô minh làm che lấp chơn tâm mà sống với vọng
thức điên đảo, tức là vọng tâm nên cuộc sống đầy hệ lụy khổ đau.
Nếu con người còn thương, còn ghét, còn giận, còn hờn, còn ưa,
còn thích, còn ham, còn muốn… thì họ còn đang sống với vọng tâm
điên đảo. Nên biết rằng vọng tâm là khách trần, nó đến rồi đi.
Còn chơn tâm thì luôn luôn thanh tịnh, luôn ở mãi với chúng
sinh, không bao giờ mất, chỉ bị vô minh che lấp. Chơn tâm thì
không bao giờ có hờn, giận, tham, muốn, thương, ghét, tốt, xấu
mà lúc nào cũng thanh tịnh, không biến đổi theo thời gian và
không gian.
Mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây
tâm trí con người luôn thay đổi từ buồn giận, thương yêu, ham
muốn… thì cái tâm cuồng loạn này luân chuyển theo thời gian và
không gian nên gọi là vọng tâm. Những gì làm thỏa mãn bản ngã
thì tâm chúng sinh vui, hạnh phúc. Còn những gì đi ngược lại bản
ngã thì họ buồn, đau khổ. Cái tâm vui, tâm buồn là vọng tâm còn
chơn tâm thì như như bất động, không thay đổi. Vì thế Khế Kinh
mới có câu : “Vô bất tùng thử pháp giới lưu, mạc bất hoàn qui
thử pháp giới” nghĩa là không có pháp nào chẳng lưu xuất từ tâm
và cũng chẳng có một pháp nào chẳng trở về tâm nầy. Thật vậy, có
Phật, có Thánh hiền cũng phát xuất từ tâm, mà tạo ra địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh cũng bởi từ tâm. Do đó, nếu biết dập tắt tâm
si mê cuồng loạn thì có thanh tịnh Niết bàn tức là sống với chơn
tâm thường trụ của mình. Còn chạy theo lục dục thất tình thì
chơn tâm biến mất và vọng tâm sẽ dẫn dắt con người vào chốn trầm
luân đau khổ.
Vậy vọng tâm phiền não là căn bản của sinh tử luân hồi và chơn
tâm thanh tịnh là căn bản của Bồ-đề Niết bàn.
|
|