CĂN, TRẦN, THỨC, GIỚI,
THẤT ĐẠI ĐỀU LÀ DỮ KIỆN CHỨNG ĐẮC VIÊN THÔNG.
Ông A nan và đại chúng nhờ Phật khai thị
tuệ nhãn được Viên dung Thông đạt. Đối với chân lý xẻ bỏ được
màn lưới nghi ngờ đen tối. Tất cả đồng chấp tay cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn! Ngày nay chúng tôi thâm tâm sáng suốt vén bức
rèm vô minh, tuệ giác được phần vô ngại. Đối với diệu nghĩa “sáu
mở một không còn” Như Lai dạy chúng tôi đã lãnh hội. Nhưng nay
còn chưa rõ chúng tôi cần phải làm gì để tâm tánh được “viên
thông”, khi rời pháp âm hướng dẫn của Phật? Xin Phật rũ lòng
thương xót ban cho chúng tôi những bí pháp thậm thâm được xem
như lời dạy cuối cùng của Phật?
Ông A Nan và đại chúng nhờ
Phật khai thị nên trí tuệ được viên thông. Viên thông có nghĩa
là viên mãn thông suốt, là trình độ đạt đạo, nhận thức chân lý
nên có thể vượt qua những tri kiến chấp mắc hẹp hòi u ám của
phàm nhân. Viên thông trong kinh này không có nghĩa là hoàn toàn
trọn vẹn giống như viên mãn Vô thượng Bồ-đề mà chỉ là sự chứng
nhập viên thông của các vị Thanh Văn và Bồ-tát. Nếu con người có
thể diệt hết kiến hoặc và tư hoặc, ra ngoài ba cõi thì có được
giải thoát, chứng đắc Niết bàn. Do đó Niết bàn là do sự
giải thoát tất cả phiền não buộc ràng. Còn nếu phá được những vô
minh tác động hoành hành để nhận chân chân lý thì có giác ngộ
tức là có Bồ-đề. Đức Phật đã giải thích rõ ràng rằng sinh tử
luân hồi do nơi sáu căn, mà được an vui diệu thường cũng do nơi
sáu căn. Sáu căn tuy vọng, nhưng không thể ngoài sáu căn tìm cái
chơn được.
Khi mê thì các căn bị ràng
buộc nên gọi là thắt gút, đến khi thức tỉnh giác ngộ thì các căn
được viên thoát nên gọi là mở. Vì đồng một thể tánh chơn tâm
thanh tịnh, nhưng vì do mê lầm chấp trước nên mới hiện ra sáu
căn ràng buộc cho nên nếu nói là vọng thì căn nào cũng vọng, còn
nói rằng chơn thì căn nào cũng chơn. Khi đã được tự tại thì các
căn không còn bị bó buộc trong phạm vi giới hạn của nó. Thí dụ
mắt thì chỉ thấy sắc, tai chỉ nghe âm thanh, mũi chỉ ngửi mùi…
mà trái lại sáu căn bây giờ tự tại thọ dụng, viên dung vô ngại.
Tuy ông A Nan đã hiểu một khi sáu căn được mở thì một căn cũng
không còn thắt gút, nhưng ông còn chưa rõ trong sáu căn thì căn
nào là thích hợp nhất với căn cơ của ông và của tất cả đại
chúng. Pháp môn Thủ lăng Nghiêm tam muội là một pháp môn thù
thắng, vi diệu và con người chỉ có thể thu nhận khi nào tâm của
họ thật sự mở rộng để đón nhận. Vì thế Đức Phật đợi tâm của ông
A Nan và của tất cả đại chúng viên mãn đầy đủ thì lúc ấy Ngài
mới trao pháp bảo Thủ Lăng Nghiêm tam muội cho.
PHẬT HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ
NHÂN DUYÊN NGỘ ĐẠO VÀ DỮ KIỆN CHỨNG ĐẮC VIÊN THÔNG
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo khắp các đại Bồ-tát và hàng lậu tận A la
hán rằng :
- Các ông là Bồ-tát và A la hán sanh trong Phật Pháp đã chứng
quả vô học. Nay tôi hỏi các ông: Lúc mới phát tâm, trong thập
bát giới, các ông tâm đắc ở giới nào? Do nhân duyên gì? Từ
phương tiện nào mà các ông được Tam-ma-đề “viên thông” tâm tánh?
Từ đoạn này trở đi Đức Phật khai thị tường tận về phương tiện
tối sơ là thay vì trả lời làm thế nào để đạt được tâm tánh viên
thông, Ngài không tự nói ra mà lại hỏi Bồ-tát và Thanh Văn trong
pháp hội tùy theo phương tiện sơ tâm nhập đạo của từng người để
trình bày đường lối tu tập của mình từ lúc mới phát tâm cho đến
khi được thành chánh quả. Đại Bồ-tát là các vị đã chứng được
thường trụ pháp thân, vào Kim Cương Địa. Đại A la hán là các vị
A la hán đại thừa đã phá trừ chấp ngã, chấp pháp và vào trong đệ
bát địa. Nói chung trong thập bát giới, chúng sinh tu theo giới
nào thì cũng có thể được viên thông cả. Căn cơ, trình độ và
nghiệp quả của chúng sinh có sai khác nên Phật pháp mới có nhiều
phương tiện, nhiều pháp môn, nhiều cánh cửa, nhưng tựu trung
cũng đều vào căn nhà giác ngộ. Trong kinh Duy Ma Cật có ba mươi
mốt vị Đại sĩ Bồ-tát trình bày ba mươi mốt phương pháp khác nhau
để cùng chứng nhập pháp môn không hai nghĩa là trăm sông cùng đổ
về biển lớn.
Ở đây có hai mươi lăm vị
Thánh đệ tử đại diện cho sáu căn, cáu trần, sáu thức và bảy đại
cũng lần lượt trình bày những căn nguyên, phương pháp và sở đắc
của mình mà ngộ được tánh viên thông. Ông A Nan tuy đã thâm ngộ
cái ý nghĩa viên ngộ và viên tu, nhưng trên thực tế chưa rõ sáu
căn thì căn nào thích hợp với trình độ của mình nên cầu Phật chỉ
bày. Khi Đức Phật gạn hỏi chỗ ngộ đạo của các bậc hiền Thánh
tăng không phải là để so sánh chỗ hơn kém, cao thấp mà cốt để
chỉ rõ lối tu viên đốn của đại thừa khác với lối tu tiệm thứ của
nhị thừa và để cho ông A Nan nhân đó tự lựa cho mình căn nào
thích hợp với trình độ của mình mà tu để được giải thoát. Không
chỉ riêng cho ông A Nan, tất cả chúng sinh sau khi thâm hiểu và
biết chọn lấy cho mình một pháp môn thích hợp để tu hành thì
cũng sẽ được ngộ nhập viên thông tam muội.
1) VIÊN THÔNG VỀ THANH TRẦN
Nhóm ông Kiều Trần Như năm vị tỳ kheo từ chỗ ngồi đứng dậy
cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai thành đạo ở vườn Lộc Uyển,
chúng tôi gặp Phật trước tiên. Chúng tôi được Phật khai thị cho
về pháp Tứ diệu đế. Do nghe tiếng Pháp của Phật mà tôi tỏ ngộ.
Lúc đó Phật hỏi các tỳ kheo: Có hiểu không, tôi thưa là đã hiểu.
Nhơn đó Như Lai đặt cho tôi cái tên là A Nhã Đa, ấn chứng chúng
tôi là những người A la hán. Nay Phật hỏi “viên thông” đối với
tôi “thanh trần” là mầu nhiệm nhất.
Khi biết Phật xuất gia, vua Tịnh Phạn bèn ra lịnh cho ba người
trong dòng họ là A Hiền Bà, Bạt Đề, Ma Ha Nam và hai người bên
cậu là Kiều Trần Như và Thập Lực Ca Diếp đi theo hộ vệ cho Thái
tử. Nhưng sau đó họ bỏ Phật tu theo ngoại đạo. Đến khi Đức Phật
vừa thành đạo dưới cội Bồ-đề trên tòa Kim Cương thì Ngài nghĩ
đến việc hoằng pháp độ sanh nên liền đến vườn Nai ở xứ Ba La Nại
gặp lại năm anh em ông Kiều Trần Như, những người đã cùng tu khổ
hạnh với Ngài khi xưa. Bài thuyết pháp đầu tiên, Đức Phật đem
chân lý Tứ Diệu Đế mà giảng giải cho họ để chuyển bánh xe pháp.
Phật dạy đây là những nỗi khổ cần phải biết tức là khổ đế. Đây
là nguyên nhân gây ra những nỗi khổ tức là tập đế. Phật lại dạy
hễ hết khổ đau là có thanh tịnh Niết bàn tức là diệt đế. Và sau
cùng đạo đế là con đường để đoạn mọi phiền não mà chứng đắc sự
thanh tịnh tịch diệt Niết bàn.
Trước hết, nhóm ông Kiều
Trần Như nhờ nghe pháp âm của Phật mà ngộ được chân lý Tứ Diệu
Đế. Như vậy pháp âm của Đức Phật tức là thanh trần tác dụng vào
nhĩ căn của nhóm ông Kiều Trần Như làm cho các ông thức
tỉnh được tánh giác của mình. Nhưng điều quan trọng là chính ông
tư duy quán chiếu để thấu rõ thật tướng của âm thanh mà ngộ đạo.
Thật tướng của âm thanh là vô tướng, nó thường vắng lặng cùng
khắp mười phương và tùy theo tâm lượng nghiệp cảm của chúng sinh
mà phát hiện. Vì thế khi tai không còn nghe những âm thanh đối
đãi sinh diệt bên ngoài mà khi ấy tiếng (tánh nghe) cũng chẳng
phải không. Con người thường chỉ phân biệt theo giả ảnh của
thanh trần sinh diệt đối đãi với ta nên bị thống khổ khi có
tiếng, hay khi không có tiếng chớ không bao giờ chịu lắng lòng
định tâm để quán thật tánh của những tiếng “động tịnh” là từ đâu
nên chưa liễu nhập tánh âm thanh vốn là tánh diệu chơn như của
Như Lai Tạng. Khi tâm phân biệt với trần cảnh dần dần tan biến,
họ không còn nghe theo âm thanh, tiếng nói của thế gian thì tâm
trở thành thanh tịnh, ngộ được tánh viên thông, thoát ly sinh tử
và chứng đắc Niết bàn. Phật liền ấn chứng cho ông danh hiệu là A
Nhã Đa nghĩa là giải tức là nhờ thanh trần mà được giải ngộ.
2) VIÊN THÔNG VỀ SẮC TRẦN
Ông Ưu Ba Ni Sa Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi
chân Phật mà bạch rằng:
- Tôi cũng nhìn Phật lúc Ngài mới thành đạo. Phật đã dạy tôi
quán các tướng bất tịnh đến khi tôi thật sự nhàm chán thì ngộ
được bản chất của sắc. Đầu tiên tôi quán tướng bất tịnh, rồi
quán xương trắng cho đến vi trần, sao đó quy về hư không và khi
“Không” và “Sắc” đều không thì tôi đã thành tựu đạo vô học. Như
Lai ấn khả cho tôi tên Ni Sa Đà vì đối với tôi thì sắc trần đã
tiêu sạch nên được diệu sắc mật viên. Tức tôi từ sắc tướng mà
được quả A la hán. Nay Phật hỏi viên thông, theo chỗ tôi chứng
thì sắc trần là tối thượng.
Ông Ưu Ba Ni Sa Đà tuy đã xuất gia theo Phật, nhưng ông vẫn quý
yêu cái thân thể của ông. Đức Phật biết ông còn lụy về thân, còn
dính mắc nơi sắc trần nên rất khó tu đạo vì thế mà Ngài dạy cho
ông pháp môn “quán bất tịnh”. Ông bắt đầu quán rằng tấm thân tứ
đại bên ngoài đầy mồ hôi dơ bẩn, bên trong chứa đựng những đồ ô
uế. Sống thì bệnh tật khổ đau, đến khi chết sình lên hôi thúi và
da thịt tiêu chảy thành nước, bốc mùi tanh hôi. Xương trắng theo
thời gian cũng mục nát thành tro bụi cho nên chỉ cần gặp
một luồng gió nhẹ là tan mất trong hư không, không còn gì cả. Vì
quán thấu triệt như thế nên ông Ưu Ba Ni Sa Đà không còn lưu
luyến sắc thân giả huyễn và cũng không còn lưu luyến sắc trần
sinh diệt. Sắc thân trở thành cát bụi, tan theo hư không thì dĩ
nhiên cái đối đãi giữa sắc và không cũng không còn làm ông chợt
bừng tỉnh mà ngộ rằng sắc không, không sắc đều chẳng ra gì. Một
khi tâm không còn dính mắc vào những tướng trạng giả huyễn của
sắc trần thì tâm trở thành thanh tịnh, không còn phiền não nên
ông trở thành A la hán, tỏ ngộ viên thông và chứng đắc Niết bàn.
Nhờ ngộ được sắc tánh mà Đức Phật ấn khả cho ông danh hiệu Ni Sa
Đà nghĩa là Trần-Tánh Không.
3) VIÊN THÔNG VỀ HƯƠNG TRẦN
Ông Hương Nghiêm đồng tử đứng dậy cung kính chấp tay thưa :
- Bạch Thế Tôn! Trước đây Như Lai dạy tôi quán sát kỹ về các
pháp tướng hữu vi. Một hôm tôi tĩnh tọa trong giảng đường các tỳ
kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương thoang thoảng trong tĩnh
mịch u nhàn, tác dụng đến mũi tôi. Tôi tư duy quán xét: Hương
này không phải do gỗ, không phải do hư không, không phải do
khói, không phải do lửa. Đi ra không dính vào đâu. Đến đâu không
chỗ dừng trụ. Quán chiếu như vậy, ý thức phân biệt của tôi tự
khắc tiêu vong. Trí vô lậu phát sinh, Như Lai ấn chứng cho tôi
danh hiệu là Hương Nghiêm. Vì do tôi thể nghiệm mùi hương mà
chứng được A la hán quả. Nay Phật hỏi phương tiện được viên
thông, xin thưa: Với tôi, “hương trần” là tối thắng nhất.
Ông Hương Nghiêm đồng tử tuy xuất gia theo Phật lúc còn nhỏ,
nhưng tâm vẫn còn dính mắc nơi thế giới hữu hình. Vì chưa có trí
tuệ nên cái thấy, nghe, hay, biết của ông đối với thế giới hữu
vi sinh diệt thì ông cho là thật cho nên Đức Phật chỉ cho ông
phương pháp quán chiếu để trực nhận cái thật tướng của vạn pháp.
Thí dụ tướng hữu vi là mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi
hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc và ý phân biệt. Nói cách khác
còn chạy theo sắc tướng âm thanh là còn chạy theo vòng đối đãi,
sinh diệt và xa dần với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của chính
mình.
Con người thường nghĩ rằng mùi hương là một thứ sẵn có của gỗ
trầm. Tuy gỗ trầm có mùi hương, nhưng xét cho cùng thì thì mùi
hương ấy đâu phải chỉ do gỗ trầm mà có được. Nếu không có không
khí, do lửa đốt và do tỷ căn của con người tiếp nhận thì không
thành mùi hương được. Nói cách khác có được mùi hương là do các
nhân duyên cây hương, hư không, lửa khói… hợp lại mà thành. Một
khi do nhân duyên kết hợp thì mùi hương không có tự tánh, không
có chủ thể, là vô ngã tức là không. Vậy cái tánh chơn thật của
hương trần không phải là do năng tri sở tri và cũng không phải
là ly năng tri sở tri mà có, nhưng chỉ tùy theo nghiệp của mỗi
chúng sinh mà phát hiện. Vì quán được tất cả các pháp hữu vi là
duyên sinh như huyển, không bền không chắc mà Ngài chứng được
tánh viên thông của hương trần và thành A la hán.
4) VIÊN THÔNG VỀ VỊ TRẦN
Hai vị Bồ-tát Dược Vương, Dược Thượng cùng năm trăm phạm
thiên trong Hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân
Phật mà bạch rằng :
- Bạch Thế Tôn! Từ vô lượng kiếp, chúng tôi là lương y cứu tế
thế nhân. Miệng chúng tôi thường nếm những lá hoa cây cỏ kim
thạch trong cõi Ta bà này. Tất cả những vị: Mặn, nhạt, chua,
cay, ngọt, đắng… cùng các vị biến đổi, do các vị kia hòa hợp
cùng sinh ra, vị nào lạnh, vị nào nóng, thứ nào có độc, thứ nào
không độc, tôi đều biết cả. Được phục vụ chư Phật và tất cả
chúng sinh, rõ biết tánh chất của vị trần. Không phải không,
không phải có, không phải tức thân tâm, không phải ly thân tâm.
Nhờ tôi phân biệt “vị trần” mà được khai ngộ. Phật ấn chứng cho
tôi danh hiệu là Dược Vương và Dược Thượng Bồ-tát. Nay Phật hỏi
nhân duyên và phương tiện được viên thông, xin thưa: Đối với
chúng tôi vị trần là ưu việt nhất.
Vị trần là các vị chua, cay, mặn, nhạt, đắng, ngọt… Có những vị
tự nó chỉ có một vị duy nhất như ớt thì cay, bồ hòn thì đắng.
Tuy nhiên cũng có những vị biến dị tức là do thay đổi mà ra. Thí
dụ mật ong để lâu biến thành chua hay rượu để lâu thành lạt.
Tuy chúng sinh có nếm biết rất nhiều mùi vị, nhưng có lẽ không
có ai trên đời mà nếm được nhiều mùi vị hơn hai Ngài Dược Vương
và Dược Thượng. Vì là lương y nên các Ngài vào tận rừng sâu để
tìm rất nhiều loại thảo dược, kim thạch cho nên tất cả các vị
đắng, cay, mặn, chát các Ngài đều nếm qua. Càng nếm nhiều thảo
dược, cái vị nếm của các Ngài càng tăng trưởng nên sự đối đãi
phân biệt cũng phát triển theo. Nhưng thay vì chạy theo vọng
tưởng phân biệt làm tâm bất tịnh, các Ngài bây giờ lại quan sát
bốn nhân của vị trần mà chứng đạo. Thứ nhất nếu nói rằng vị có
trong hư không thì tại sao khi nếm hư không con người không biết
có vị ngọt, đắng? Thứ hai nếu cho rằng vị là do lưỡi mà có thì
vị không phải từ vật chất bên ngoài thế thì trái chanh với mật
ông có khác gì nhau? Thứ ba nếu cho rằng vị là do thân tâm thành
ra vị có tánh biết? Sau cùng nếu nói vị ly thân tâm thì lấy cái
gì phân biệt mà biết vị?
Các Ngài quán sát tại sao
chiếc lá này có vị mặn, rễ cây kia có vị chua, vỏ cây nọ có vị
đắng…, nhưng sau cùng đã thấy được cái tướng giả hợp của vị trần
là do nhân duyên kếp hợp và cũng do nhân duyên mà tan rã. Thí dụ
trái ớt là do biết bao nhân duyên hợp lại như hột giống, đất,
nước, ánh sáng, phân bón… để quyết định vị cay của nó. Cũng thì
hột giống đó mà trồng hai nơi khác nhau thì vị cay không giống
nhau. Nhờ quan sát như vậy các Ngài ngộ nhập cái tánh phi tức,
phi ly, phi hữu, phi không của vị trần nên tất cả vọng ý tiêu
tan mà giác tánh được tỏ bày.
5) VIÊN THÔNG VỀ XÚC TRẦN
Ông Bạt Đà Bà La cùng với mười sáu vị tăng sĩ đồng là bạn đạo
cùng đứng dậy cung kính chấp tay thưa :
- Bạch Thế Tôn! Bọn tôi trước kia ở thời Phật Oai Âm Vương, nghe
pháp xuất gia. Lúc chư Tăng tắm, tôi theo thứ lớp vào nhà tắm để
tắm. Bỗng nhiên tôi tư duy và nhận thức rằng: Nước vốn không rửa
bụi và cũng chẳng rửa thân, trung gian an nhiên lặng lẽ. Tôi tâm
đắc tột độ cái chân lý “Chẳng có gì”. Tập quán trước không quên,
đến nay tôi theo Phật xuất gia được quả vô học. Đức Phật thuở ấy
gọi tôi với cái tên: Bạt Đà La (thiên thủ). Do tôi phát hiện
tánh nhiệm mầu của xúc trần mà thành Phật tử. Nay Phật hỏi duyên
cớ được viên thông, xin thưa : Đối với tôi “xúc trần” là hơn tất
cả.
Ông Bạt Đà Bà La là một Bồ-tát tại gia, nhưng tu hành chứng đắc.
Bình thường các vị A la hán chỉ có thể nhớ lại được khoảng 84
ngàn tiền kiếp của mình, nhưng túc mạng thông của ông Bạt Đà Bà
La lại có thể nhớ lại hằng hà vô lượng kiếp bởi vì từ thời Phật
Oai Âm Vương đến thời Đức Phật Thích Ca rất dài không thể đếm
được. Ông Bạt Đà Bà La là một điển hình về sự hiện thân của các
vị Bồ-tát vào thế gian tùy nhân duyên mà hóa độ chúng sinh. Ông
cũng còn là biểu tượng cho người tại gia mà nếu biết hóa giải vô
minh phiền não thì người cư sĩ tại gia cũng có giải thoát giác
ngộ.
Bồ-đề, Niết bàn tùy thuộc
vào khả năng đoạn trừ vô minh phiền não ở chính con người. Vì
thế quan hệ tình cảm trong gia đình giữa vợ chồng, con cái, cha
mẹ hay bà con thân quyến không phải là cánh cửa lúc nào cũng
đóng chặt không cho con người bước vào căn nhà giải thoát giác
ngộ. Ngày xưa Bàng Uẩn cũng có gia đình, con cái, cư sĩ Duy Ma
Cật cũng vậy nhưng họ đã giải thoát được những cái gút mà bình
thường đã cột chặt con người vào vòng sinh tử. Người tu tại gia
dĩ nhiên phải đối diện với nhiều phiền não, nhưng người xuất gia
cũng có những cái gút, cái khổ tuy bề ngoài, danh xưng có khác
nhưng cái gốc của vô minh phiền não đâu có khác gì nhau.
Khi nói về Bồ-tát thị hiện, câu chuyện “Quán Âm bán cá” nói về
về một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, thường mang giỏ cá đi bán
trong một ngôi làng mà cư dân vốn hoàn hoàn không tin theo đạo
Phật. Khi gặp một cô gái đẹp đẽ như thế thì tất cả trai tráng
trong làng đều nổi lòng tham muốn, người nào cũng ao ước được
cưới cô làm vợ. Tuy rằng dân trong làng ấy không đông lắm khoảng
trên một trăm thanh niên nên cô gái bèn nói với họ: “Phận tôi là
gái không thể nào kết hôn cùng cả trăm người được, vậy giờ tôi
xin dùng cách này để kén chồng. Trong hơn một trăm quý ông ở
đây, hễ người nào học thuộc được Phẩm Phổ Môn trước nhất thì tôi
sẽ kết duyên với người ấy. Bây giờ quý ông hãy về nhà mà học đi,
tôi cho quý ông thời hạn là ba ngày thôi đấy”.
Thế là hơn một trăm thanh niên, người nào cũng lấy một bản Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn Phẩm để về học.
Hết kỳ hạn ba hôm thì có khoảng bốn, năm chục người đã thuộc
được. Như vậy là hơn một trăm ngời dự thi lúc ban đầu thì bây
giờ còn lại chỉ một nữa. Người này nói đã thuộc rồi, người kia
cũng bảo đã học xong nên Quán Âm bán cá bèn nói: “Bây giờ vẫn
còn quá nhiều. Mặc dù hơn năm mươi quý ông đây đều thuộc Phẩm
Phổ Môn cả, song tôi không thể kết hôn với cả năm mươi người
được! Tôi chỉ có thể kết hôn với một người mà thôi. Thôi thì bây
giờ quý ông hãy trở về, tôi lại cho quý ông thời hạn năm ngày để
học Kinh Kim Cương, ai thuộc được thì tôi sẽ cùng người ấy kết
duyên”.
Hơn năm mươi thí sinh ấy quay về và miệt mài học Kinh Kim Cương
và sau năm ngày thì có hơn hai mươi người đã học thuộc. Thiếu nữ
bán cá lại nói: “Thế này thì vẫn còn đông quá, tôi không thể kết
hôn với nhiều người như vậy được. Bây giờ tôi lại có một điều
kiện: “Tôi kỳ hạn cho quý ông bảy ngày, hễ ai học thuộc lòng
được bộ Kinh Pháp Hoa thì tôi sẽ kết hôn với người ấy. Lần nầy,
tôi tin rằng người học thuộc sẽ được toại nguyện”.
Như thế là hơn hai mươi người và luôn cả những người đã dự thi
khi trước lại cùng nhau cặm cụi học Kinh Pháp Hoa và nội trong
bảy ngày thì có một người có thể tụng nhuần nhuyễn và thuộc nằm
lòng được trọn bộ kinh. Anh ta xuất thân từ một gia đình giàu
có. Vì là người duy nhất trúng tuyển nên anh gởi thiệp mời thân
thuộc đến dự lễ thành hôn của mình. Không ngờ sau lễ gia tiên,
vừa vào phòng tân hôn thì cô gái xinh đẹp ấy lại bị lên cơn đau
tim mà chết. Chàng thanh niên đã hao tổn biết bao tinh thần để
học thuộc Phẩm Phổ Môn, Kinh Kim Cương, Kinh Pháp Hoa mới cưới
được vợ, thế mà vừa vào phòng tân hôn thì cô dâu lại đột ngột
ngã ra chết.
Khi đưa đám tang cô gái ấy thì có một vị Sư xuất hiện và hỏi:
“Chẳng hay quý vị đang làm gì vậy?” Tang gia đáp: “Cô dâu mới
cưới về bỗng dưng mắc bệnh mà chết đột ngột, bây giờ chúng tôi
đang đưa đám cô ta đây”.
Vị sư nói: “Không đúng! Cổ quan tài kia hoàn toàn trống rỗng,
sao lại bảo là có người chết nằm trong đó? Quý vị không tin thì
hãy mở ra xem đi”. Mở nắp quan tài ra thì bên trong quả nhiên
trống không, thi hài của cô gái bán cá được đặt nằm trong áo
quan bây giờ chẳng thấy đâu nữa. Thấy thế, ai nấy đều kinh ngạc
bảo nhau: “Vậy thì cô ấy đi đâu?” Hãy mau mau đuổi theo! Phải
tìm cho ra cô ấy và đưa về đây, nhanh lên!”.
Bấy giờ vị sư giải thích: “Thật ra cô gái ấy chính là Quán Thế
Âm Bồ-tát thị hiện đấy. Bởi dân chúng ở địa phương này không tin
Phật nên Bồ-tát mới thị hiện làm một thiếu nữ xinh đẹp khiến cho
những kẻ háo sắc như các ông say mê mà chịu học Phật Pháp. Nay
các ông đã chịu học rồi thì Bồ-tát ra đi thôi. Nghe xong chú rễ
chợt tỉnh ngộ: “Ồ! Thì ra như vậy”.Thế rồi, khi đã nhìn thấu
suốt được mọi chuyện ở thế gian, anh ta quyết định xuất gia,
tinh tấn tu hành và sau đó chứng được Thánh quả.
Xúc là đụng chạm, tiếp xúc. Khi thân căn tiếp xúc với xúc trần
mà nhận biết có nóng, lạnh, cứng, mềm, trơn, nhám… Như vậy, xúc
trần được phát hiện là bởi có thân căn với sắc cảnh. Nếu thiếu
một thì không thành tức là không có xúc trần. Nhưng khả năng thu
nhập cảm giác của mỗi cá nhân cũng không giống nhau. Thí dụ cùng
đứng trước một lò lửa, nếu kẻ lạnh thì có cảm xúc ấm, còn kẻ
nóng thì có cảm xúc nóng hơn. Vậy tùy chúng sinh mà thành lạnh
hay nóng chớ không có thật thể nhất định. Đối với nước cũng vậy,
khi con người dùng nước tắm gội thì dòng nước chảy trên thân thể
mà phát sinh ra cảm giác tức là xúc trần. Nhưng hãy suy nghiệm
kỹ rằng cái tắm rửa ấy là rửa cho thân thể hay rửa cho bụi trần?
Nếu nói rửa thân thể nghĩa
là không có bụi trần thì thân thể sạch đâu cần phải rửa! Còn nếu
nói là rửa bụi trần thì cũng dòng nước kia chảy trên mặt đất thì
cũng gọi là tắm rửa sao? Vì vậy nước tắm không rửa bụi, không
rửa thân thể mà nó chỉ làm tách rời bụi ra khỏi thân thể mà
thôi. Thế thì nước, bụi trần, thân thể vốn an nhiên nghĩa là
nước không phải rửa (năng) và bụi trần hay thân thể không phải
bị rửa (sở) cho nên xúc trần chỉ là tướng giả dối, đối đãi theo
vọng nghiệp chúng sinh không xúc mà hiện xúc. Một khi năng sở
không còn tức là tâm phân biệt đối đãi biến mất thì chơn tâm,
Phật tánh hiện bày khiến ông chứng được Thánh quả, ngộ được tánh
viên thông.
6) VIÊN THÔNG VỀ PHÁP TRẦN
Ông Ma Ha Ca Diếp và bà Tử Kim Quang Tỳ khưu ni…
đồng đứng dậy cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Kiếp xa xưa trong cõi này có Phật ra đời hiệu
Nhật Nguyệt Đăng. Sau Phật diệt độ chúng tôi thắp sáng ngọn đèn
chánh pháp để cúng dường, lại lấy vàng thắm thếp tô hình tượng
Phật. Do đó đời đời kiếp kiếp thân thường viên mãn, rực rỡ như
vàng ròng. Bọn Tử Kim Quang Tỳ kheo ni cũng đồng phát tâm như
tôi vậy. Chúng tôi quan sát sáu trần luôn luôn biến hoại. Tôi
trụ tâm trong vắng lặng, nhập định diệt tận, thân tâm rỗng rang,
thời gian trăm nghìn kiếp tựa hồ như cái khảy móng tay. Do thành
tựu pháp “không quán” mà tôi được quả A la hán. Thế Tôn ấn chứng
tôi là: Đầu đà đệ nhất, pháp trần thâm diệu nhờ tuệ nhãn tôi
được khai minh, lậu hoặc được dứt trừ. Nay Phật hỏi duyên cớ
viên thông, với sở ngộ sở chứng của tôi thì “pháp trần” là tối
thượng.
Ông Ma-Ha Ca-Diếp tức là tôn giả Đại Ca Diếp, sinh ra trong một
gia đình phú hộ mà kham nhẫn tu khổ hạnh đầu đà. Ở trên hội Linh
Sơn được Đức Thế Tôn ngầm trao chánh pháp nhãn tạng “Niêm hoa vi
tiếu” là điểm tích tối sơ của thiền tông. Đức Phật đã di huấn
cho ông thành sơ tổ thiền tông rằng: ”Ta có chánh pháp nhãn
tạng, Niết bàn diệu tâm, pháp môn nhiệm mầu, chẳng lập văn tự,
ngoại giáo lý truyền riêng. Nay ta giao phó cho ông. Ông khéo
giữ gìn chánh Pháp này để truyền lại mãi mãi cho những đời sau”.
Đến khi Tôn giả Đại Ca Diếp ngoài trăm tuổi, tuy trí tuệ sáng
suốt nhưng sắc thân tứ đại mỏi mòn theo năm tháng nên sau khi
phú chúc cho A Nan làm người thừa kế, Ngài bèn ôm bình bát và y
của Đức Phật trao lại vào núi Kê Túc mà nhập diệt. Ngài nhập vào
diệt tận định mà chờ cho đến khi Đức Di Lặc thành đạo ở hội Long
Hoa và sau đó đến núi Kê Túc, búng ngón tay vào thì ngọn núi
tách ra và nhận lại y bát của Đức Phật Thích Ca. Bà Tử Kim Quang
Tỳ kheo ni tức là người vợ không chung gối của tôn giả lúc ông
chưa xuất gia. Về sau xuất gia theo Phật, bà trở thành Tỳ kheo
ni và chứng đắc A la hán. Trong số Tỳ kheo ni, bà được Phật khen
tặng là người rất giỏi về mặt “túc mạng thông”.
Pháp trần là tất cả ấn tượng của tiền trần: sắc, thanh, hương,
vị, xúc lưu lại trong tâm ý mà làm cảnh sở duyên cho ý thức.
Cảnh này còn gọi là “độc ảnh cảnh” nghĩa là cảnh do một mình ý
thức khơi lại bởi những điều nhớ biết chớ không phải cảnh hiện
đang xảy ra ở ngoài. Nên nhớ rằng tất cả thế gian vũ trụ biến
chuyển vô cùng vô tận cũng không ngoài sáu trần: sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp. Những pháp đó luôn biến chuyển, thay đổi
chớ không niệm nào yên lặng, dừng nghĩ. Một ý niệm vừa thoáng
qua trở thành hiện tại, rồi hiện tại biến thành quá khứ vì thế
pháp là giả huyển, không có chi là chân thật. Thí dụ khi còn bé,
độc ảnh cảnh gần như không có vì trong tâm em bé chẳng có cái gì
để nhớ cả cho nên các em chỉ sống với kiến đại tức là trực giác
nhiều hơn thức đại. Đến khi lớn lên thì sự thu thập kiến thức và
kinh nghiệm của cuộc sống dần dần đưa vào tâm và lưu giữ lại
trong Tàng thức (A lại da thức). Chính những ý niệm này làm căn
bản cho ý thức có sự so sánh phân biệt.
Chẳng hạn khi nhìn cái nhà
thì trong tâm đã bắt đầu so sánh, phân biệt đối đãi với những
cái nhà mà tâm đã biết trong quá khứ để cho con người biết ngay
rằng cái nhà này thì đẹp quá, to quá, sang quá hay ngược lại.
Đây chính là cội nguồn phát sinh ra vọng tưởng, phiền não khổ
đau. Con người có khởi niệm tham-sân-si thì cũng từ những ý thức
phân biệt từ pháp trần mà ra. Một thí dụ khác là khi tai nghe ai
nói tới me chua thì miệng chảy nước miếng. Tại sao miệng lại
chảy nước miếng? Bởi vì trong quá khứ lưỡi đã từng nếm vị chua
của me, nên tai nghe tiếng me chua thì ý thức liền so sánh và
cho tâm biết ý niệm chua làm con người lầm tưởng rằng mình đang
ăn me chua thật sự.
Vì là ăn tưởng tượng nên
tất cả những ý tưởng phát ra từ Pháp trần là không thật,
là giả dối. Do đó những hình ảnh lưu lại đều do
tưởng niệm mà thành, như cảnh chiêm bao không có thực. Vì thế mà
ông Ma Ha Ca Diếp quán các pháp trần là giả huyển thì các món
thọ, tưởng, hư vọng phiền não nương theo pháp trần mà sinh ra
liền bị tiêu diệt. Ông phá trừ ý thức nên tâm không còn phân
biệt mà trở về với thể tánh thanh tịnh trong sáng mà chứng diệt
tận định để diệt luôn cái không phân biệt mà chứng vào tánh viên
thông, đắc thành A la hán.
Nói tóm lại, sáu trần thì trần nào cũng là dữ kiện để tạo ra
thành quả viên thông, chứng đắc Niết bàn tự tại. Con người
thường nhận thức sai lầm rằng khi nói đến trần là nói đến nhiễm
ô, bất tịnh, nhưng thật ra nó chỉ nhiễm ô chỉ khi nào nó tác
động vào sáu căn của những ai chưa tự chủ. Nếu nói trần qua định
nghĩa nhiễm ô là đứng về phương diện tục đế duyên sanh hiện
tượng, nhưng đối với nhãn quan của những bậc giác ngộ có khả
năng tự chủ thì trần bây giờ vẫn là một hiện tượng biểu hiện
phát xuất từ Như Lai Tạng bản thể thanh tịnh.
Nếu con người nhìn thế gian
vũ trụ này bằng nhận thức khách quan thì sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp vẫn có đầy đủ tự tánh thanh tịnh bản nhiên nên chúng
rất thanh tịnh và không có chi là tội lỗi, ô nhiễm cả. Nhưng bây
giờ nếu con người cũng nhìn thế gian này với tâm hắc ám, đầy
khát vọng điên cuồng thì cái nhìn khách quan tự tại biến mất mà
được thay bằng chủ quan, hẹp hòi, ích kỷ nên họ nhìn cái gì cũng
thích, cũng tham đắm say mê. Một khi vọng tưởng nổi lên, chơn
tâm thanh tịnh biến mất và phiền não khổ đau xuất hiện. Do đó
nếu con người làm chủ được bản tâm của mình thì cho dù khách
trần giả dối có biến hiện, mê hoặc cách mấy cũng không bao giờ
thay đổi thanh tâm của ta được.
7) VIÊN THÔNG VỀ NHÃN CĂN
Ông A Na Luật Đà đứng dậy cung kính chấp tay thưa :
- Bạch Thế Tôn! Lúc tôi mới xuất gia thường ưa thích nằm và ngủ
li bì. Như Lai quở trách tôi là loại súc sanh. Nghe lời quở của
Phật, tôi thầm khóc, tủi hổ và tự trách mình. Tôi cương quyết
thề không ngủ và tôi thức suốt bảy ngày đêm. Hai con mắt tôi bị
bệnh và hư mất. Thế Tôn thương dạy cho tôi pháp: “Lạc kiến chiếu
minh kim cương tam muội”. Sau khi được tam muội, tôi thấy thấu
suốt hiện tượng trong mười phương như trái
quít để trên bàn tay. Như Lai ấn chứng cho tôi quả A la hán. Nay
Phật hỏi nguyên nhân nào đươc viên thông, xin thưa: Theo chỗ tâm
đắc của tôi là: Xoay tánh thấy của nhãn căn trở về với bản thể
thanh tịnh bản nhiên là ưu việt nhất.
Ông A Na Luật là anh em chú bác với Phật, con vua Bạch Phạn tức
là em vua Tịnh Phạn. Vì tôn giả thích ngủ nên bị Phật quở rằng:
“Sao lại ngủ giống như loài ốc, loài sò ngủ một giấc cả ngàn
năm, chẳng nghe danh hiệu Phật”. Ông hổ thẹn và tự nguyện với
lòng không ngủ nữa nên sau bảy ngày đêm thức trắng, mắt sưng vù
và sau cùng ông bị mù.
Tánh thấy (kiến tánh) thì lúc nào cũng thường diệu, thường minh,
nương theo con mắt mà phát ra cái dụng thấy sắc gọi là nhãn căn.
Tánh thấy vốn đã diệu minh cho nên kiến dụng thì lúc nào cũng
minh cũng diệu. Con người thường có ý nghĩ sai lầm là cái thấy
là do con mắt mà có thấy tức là mở mắt là thấy còn nhắm mắt là
không thấy hay có sắc trần là có thấy và không có sắc trần thì
gọi là không thấy. Khi tánh giác diệu minh viên dung cùng khắp
tác động vào con người trở thành minh giác nên tánh viên dung
cùng khắp trở thành ngăn ngại. Thí dụ mắt thấy không ngoài sống
mũi, tai tuy không bị kẹt tường kẹt vách nhưng cái nghe đâu có
xa.
Trong đoạn kinh trước, Phật
gạn hỏi ông A Nan về cái thấy là tâm hay con mắt? Phật sau đó
dạy rằng: “Tâm thấy chớ không phải mắt thấy”. Vì thế có mắt
không tâm, không thành có thấy, có tâm không mắt cũng thấy khắp
mười phương. Đây là pháp môn “Lạc kiến chiếu minh kim cương tam
muội” tức là tánh thấy (kiến tánh) thì lúc nào cũng soi sáng,
xưa nay không hề lay chuyển nên gọi là Kim Cương tam muội. Ông A
Na Luật nương vào những lời Phật dạy, đi sâu vào bản tánh của
nhãn căn chứng được tánh viên thông thì cái sáng suốt của tự tâm
xuất hiện khiến ông thấy thấu suốt mười phương mà không có gì
ngăn ngại. Nhờ đó ông đạt được thiên nhãn thông thấy được tam
thiên đại thiên thế giới như thấy quả quít trong bàn tay, chứng
quả A la hán, tự tại Niết bàn.
8) VIÊN THÔNG VỀ TỶ CĂN
Ông Châu Lợi Bàn Đặc Ca đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật
rằng :
- Tôi vì thiếu trì tụng kinh điển nên không có tuệ đa văn. Khi
mới gặp Phật, tôi xin xuất gia nghe học pháp Phật tôi cố nhớ một
bài kệ của Như Lai mà không sao nhớ nổi. Tôi gắng học suốt cả
một trăm ngày, nhớ đoạn trước thì quên câu sau, nhớ đoạn sau lại
quên câu trước. Phật thương tôi ngu muội, dạy tôi ở một nơi yên
tĩnh tu tập pháp môn điều hòa hơi thở ra vào. Bấy giờ tôi vận
dụng quán trí theo dõi từng hơi thở, từ thô đến vi tế, từng sát
na nhiếp ý, vận dụng tư duy, chia hơi thở thành bốn thời kỳ :
Hít vô gọi là “sanh”. Đầy hơi gọi là “trụ”. Thở ra gọi là “dị”.
Mãn hơi gọi là “diệt”. Thực hiện một thời gian, tâm tôi bừng
sáng rỗng rang được đại vô ngại, các lậu hoặc dứt hết thành A la
hán. Trước pháp tòa, Phật ấn chứng cho tôi thành quả vô học. Nay
Phật hỏi viên thông, theo chỗ sở hành của tôi: Tập trung tư
tưởng xoay vào quán hơi thở ra vào kinh mạch là pháp hành hiệu
quả nhất.
Bàn Đặc Ca Châu Lợi là nói về hai anh em chớ không phải tên của
một người. Khi bà mẹ sinh người anh bên đường lớn nên đặt tên là
Châu Lợi. Về sau bà mới sinh ra người con thứ hai ở bên đường
nhỏ nên đặt tên là Bàn Đặc Ca. Vào một kiếp quá khứ, ông Bàn Đặc
Ca là một vị đại Pháp sư, nhưng vì tâm bỏn xẻn không chịu đem
Phật Pháp giảng giải hết cho chúng sinh vì sợ họ sẽ hơn mình nên
qua đến kiếp này ông trở thành một người ngu si đần độn, ngay cả
một câu trong bài kệ cũng không thuộc được.
Thấy vậy, người anh khuyên
ông nên hoàn tục nhưng ông rất lưu luyến cuộc sống Tăng đoàn nên
không chịu. Đức Phật biết được bèn dạy cho ông pháp môn “sổ tức
quán” tức là tập đếm hơi thở. Trong hai mươi mốt ngày liên tiếp,
ông quán sát theo dõi từng hơi thở dựa theo chu kỳ sinh, trụ,
dị, diệt. Mỗi hơi thở bắt đầu hít vào tức là sinh, hơi vào đầy
trong phổi là trụ. Sau đó thở ra tức là dị và cuối cùng mãn hơi
là diệt. Ông suy tư quán chiếu từng hơi thở thì nhận thức rằng
hơi thở quay cuồng theo chu kỳ sinh, trị, dị, diệt chỉ là huyển
ảnh của hơi gió ở trong thân. Khi ấy thì hơi thở của ông không
còn ra vô bình thường, mà nó trở thành một làn quang minh khiến
tâm trí ông bừng sáng, ngộ được tánh viên thông, chứng quả A la
hán. Khi tâm được khai mở, ông trở thành một người biện tài vô
ngại và ông là một trong mười sáu vị A la hán được Phật tin
tưởng cho đi hoằng pháp khắp các nơi ở Ấn Độ.
9) VIÊN THÔNG VỀ THIỆT CĂN
Ông Kiều Phạm Ba Đề đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật :
- Rằng tôi mắc khẩu nghiệp trong kiếp quá khứ, nhiều đời phải
tật nhai mãi như trâu. Như Lai thương dạy cho tôi pháp: “Nhất vị
thanh tịnh tâm địa”. Nhờ đó tôi diệt phân biệt, được tam-ma-đề.
Tôi quán chiếu rằng: Tánh biết vị không phải do thân thể, cũng
không phải do ở ngoại vật. Do đó trong thì thân tâm giải thoát,
ngoài thì như rời bỏ thế gian. Viễn ly ba cõi như chim sổ lồng,
cấu nhiễm không còn, tiêu vong hóa trần tướng, pháp nhãn thanh
tịnh, được quả A la hán. Như Lai ấn chứng cho tôi lên hàng vô
học. Nay Phật hỏi phương tiện được viên thông, xin thưa: Theo
tôi thì “trả vị” về cho phân biệt của “thiệt căn” là ưu việt
nhất.
Ông Kiều Phạm Bạt Đề trong một đời quá khứ đã từng buông lời chê
bai vị lão Tăng nên khi qua đến kiếp này bị quả báo miệng thường
nhai như trâu. Đức Phật cảm thương dạy cho ông pháp môn “Nhất vị
thanh tịnh tâm địa” nghĩa là quán cái tánh biết của vị (tánh
nếm) vốn thường thanh tịnh, không phải giả dối, không chạy theo
vị mặn, ngọt, đắng, cay nên gọi là nhất vị. Nói cách khác bình
thường con người khi ăn một món gì thì tướng lưỡi tạo sự phân
biệt để cho biết đó là vị mặn hay vị chua khiến con người thích
món ngon và chê bai món dở. Khi con người cố gắng để không còn
chạy theo mùi vị, không còn say đắm món nầy, món kia thì sự phân
biệt của tướng lưỡi dần dần tan biến. Và sau cùng sẽ nhận biết
được tánh nếm thường trụ, không sinh diệt của mình. Chính ông tư
duy quán chiếu thấy rằng tánh nếm chẳng phải trần nên chẳng phải
vô tri và không phải căn nên không giả dối. Khi tâm bừng sáng
thì các món hữu lậu, dục lậu, vô minh lậu trong thế gian không
còn ràng buộc và ông được thư thái như chim ra khỏi lồng, thong
dung tự tại, thấy xa biết rộng, không còn thọ sanh trong vòng
sinh tử luân hồi, chứng đắc tánh viên thông, tự tại Niết bàn.
10) VIÊN THÔNG VỀ THÂN CĂN
Ông Tất Lăng Già Bà Ta đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật
rằng :
- Lúc tôi mới phát tâm xuất gia theo Phật, thường nghe Phật dạy:
“Cuộc đời chẳng có gì vui”. Đang khi đi khất thực, vừa đi vừa tư
duy lời Phật, bỗng dưng tôi đạp phải cái gai độc. Cả mình đều
đau đớn. Trong lúc đau đớn, tôi quán chiếu tư duy: Giác tâm
thanh tịnh vốn không có cái đau và cái biết đau. Một thân thể lẽ
đâu lại có hai tánh biết! Nhiếp niệm không bao lâu thân tâm bỗng
nhiên rỗng rang thanh tịnh. Hai mươi mốt ngày sau, các lậu hoặc
được tiêu trừ, Phật ấn chứng cho tôi lên hàng vô học, chứng quả
A la hán. Nay Phật hỏi duyên cớ nào được viên thông, xin thưa,
đối với tôi: Nắm giữ giác tánh xem nhẹ thân căn là thành công dễ
nhất.
Trong đời trước, ông Tất Lăng Già Bà Ta có quá nhiều tập khí ngã
mạn nên ỷ mình là người Bà la môn mà mắng chửi thần sông Hằng là
loài Tiểu tỳ nên khi qua đến kiếp này, ông sinh vào trong một
gia đình nghèo khó. Lúc mới nhập đạo, Đức Phật dạy ông nên quán
các pháp thế gian là khổ, không, vô thường nghĩa là thế gian chỉ
toàn là khổ chớ chẳng có cái gì là vui cả. Tại sao Phật lại dạy
“cuộc đời chẳng có gì vui” trong khi cũng chính cái cuộc đời này
chính Ngài có Niết bàn, đệ tử của Ngài cũng có an vui tự tại?
Không lẽ hễ có cuộc đời là đau khổ hết sao? Thật ra đây chỉ cách
nói đối với những người còn dính mắc trong phiền não vô minh nên
họ nhìn đâu, thấy đâu cũng toàn là tam khổ, bát khổ.
Nói chung khi con người còn
nhìn đời xuyên qua thấu kính của tham-sân-si thì nhãn thức của
họ bị cái vẫn đục tham đắm dục tình che phủ khiến tâm trí không
còn sáng suốt mà cứ nhắm mắt cắm đầu làm nô lệ cho tư kỷ cá
nhân. Khi không có gì thì tủi khổ mà có càng nhiều thì lòng tham
càng muốn thêm tức là càng thêm khổ cũng như người đang khát
nước mà uống nước muối cho nên càng uống thì càng khát. Nhưng
cũng trong cái thế gian này mà nếu chúng sinh biết diệt hết kiến
hoặc và tư hoặc thì cuộc sống của họ rất an vui, tâm hằng thanh
tịnh Niết bàn. Do đó khổ hay vui là do người chớ đâu phải do
cuộc đời cho nên trong kinh Duy Ma Cật có câu: “Tùy kỳ tâm tịnh,
tắc Phật độ tịnh” nghĩa là khi chúng sinh có tâm hồn trong sáng
thanh tịnh thì bất cứ ở đâu cũng có cảnh giới an nhàn, thanh
thoát cả.
Ông Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều thì cũng nhìn đời nhưng bằng một
tâm tư âm u, ảm đạm, đen tối của kẻ chán đời yếm thế trong “Cung
Oán Ngâm Khúc” như sau :
Thảo nào khi mới chôn
nhau
Đã mang tiếng khóc ban
đầu mà ra!
Khóc vì nỗi thiết tha sự
thế,
Ai bày trò bãi bể nương
dâu,
Trắng răng đến thuở bạc
đầu,
Tử, sinh, kinh, cụ làm
nau mấy lần.
Cuộc thành bại hầu cằn
mái tóc,
Lớp cùng thông như đúc
buồng gan,
Bệnh trần đoài đoạn tâm
toan,
Lửa cơ đốt ruột, dao
hàng cắt da.
Gót danh lợi bùn pha sắc
xám,
Mặt phong trần nắng rám
mùi dâu,
Nghĩ thân phù thế mà
đau,
Bọt trong bể khổ, bèo
đầu bến mê.
Mùi tục vị lưỡi tê tân
khổ,
Đường thế đồ gót rỗ kỳ
khu,
Sóng cồn cửa bể nhấp
nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô
xô mặt ghềnh.
Trẻ tạo hóa đành hanh
quá ngán,
Chết đuối người trên cạn
mà chơi,
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ
người tan thương.
Đền vũ tạ nhện giăng cửa
mốc,
Thú ca lâu dế khóc canh
dài,
Đất bằng bỗng rấp chông
gai,
Ai đem nhân ảnh nhuốm
mùi tà dương.
Mồi phú quý dữ làng xa
mã,
Bả vinh hoa lừa gã công
khanh,
Giấc Nam Kha khéo bất
bình,
Bừng con mắt dậy thấy
mình tay không.
Sân đào lý mây lồng man
mác,
Nền đỉnh chung nguyệt
gác mơ màng,
Cánh buồm bể hoạn mênh
mang,
Cái phong ba khéo cợt
phường lợi danh.
Quyền hóa phúc trời
tranh mất cả,
Chút tiện nghi chẳng trả
phần ai,
Cái quay búng sẵn trên
trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người
đi đêm.
Hình mộc thạch vàng kim
ố cổ,
Sắc cầm như ủ vũ ê
phong,
Tiêu điều nhân sự đã
xong,
Sơn hà cũng ảo côn trùng
cũng hư.
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ
độ,
Quán thu phong đứng rũ
tà huy,
Phong trần đến cả sơn
khê,
Tang thương đến cả hoa
kia cỏ này.
Tuồng ảo hóa đã bày ra
đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy
mà đau,
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ
khâu xanh rì.
Mùi tục lụy đường kia
cay đắng,
Vui chi mà đeo đẳng trần
duyên.
Cái gương nhân sự chiền
chiền,
Liệu thân này với cơ
thiền phải nao.
Thà mượn thú tiêu dao
cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt
cho xong,
Đa mang chi nữa đèo
bồng,
Vui gì thế sự mà mong
nhân tình.
Lấy gió mát trăng thanh
kết nghĩa,
Mượn hoa đàm đuốc tuệ
làm duyên
Thoát trần một gót thiên
nhiên,
Cái thân ngoại vật là
tiên trong đời.
Sống nhiều năm trong phủ Chúa Trịnh vì ông là cháu của Chúa
Trịnh Doanh nên Ôn Như Hầu đã chứng kiến sự suy tàn, sa đọa của
giai cấp phong kiến, thấy rõ đời sống đau khổ của những người
phụ nữ sống trong cung Vua Lê, phủ Chúa Trịnh. Vì thế mà ông nổi
tiếng với tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc, tác phẩm trử tình gồm 356
câu song thất lục bát nói về nỗi đau khổ của người cung nữ và
được xem là thành tựu xuất sắc nhất của thể loại “ngâm” trong
lịch sử văn học Việt Nam. Ông sống cùng thời với những danh nhân
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, những người đã góp phần
cho sự phát triển của nền văn học dân tộc. Có người đánh giá thơ
của ông cho rằng sự thành công của Cung Oán Ngâm Khúc là do ông
đã học tập Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (Nguyên tác Hán văn:
Đặng Trần Côn). Từ sự phản ánh hiện thực với lòng phẫn nộ và sự
oán hờn khi nhìn cuộc đời ảo mộng, dối trá, phù du và tuyệt vọng
nên Nguyễn Gia Thiều đã mượn lời cung nữ để nói lên sự bế tắc
của ông cũng chính là sự bế tắc của lớp nhà nho vào thời đại
ông.
Thật là quá u sầu, ảm đạm, tang tóc, đau thương cho số kiếp con
người dưới cái nhìn của Nguyễn Gia Thiều, nhưng đạo Phật đâu có
phải như vậy. Chúng sinh có 84 ngàn phiền não chướng nên Đức
Phật mới dạy 84 ngàn phương pháp để hóa giải. Đối với đạo Phật,
đừng nên chấp phương tiện vì nó chỉ là nhân tức là giả mà giải
thoát giác ngộ mới là thật, là cứu cánh, là quả. Bằng chứng là
trong phần tu chứng viên thông này, Đức Phật tùy theo căn cơ, sở
nguyện của từng người mà giáo hóa phương tiện giúp họ đạt đến
cứu cánh tột cùng là giác ngộ tánh viên thông của mình và chứng
đắc thánh quả. Do đó tam khổ, bát khổ trong Phật giáo chỉ là
giáo lý phương tiện, là cách nói chớ không có gì là khổ cả một
khi chúng sinh đã thanh lọc những vẩn đục trong tâm. Không vui
là tại mình, khổ là cũng do mình, chớ đâu phải tại đời hay là do
ở Phật trời. Cũng thì trái ớt đó mà có người thích, người không.
Mình chạy theo vô minh phiền não thì phải gánh chịu vô minh
phiền não. Còn nếu mình diệt hết vô minh phiền não thì cuộc sống
sẽ trở thành thanh tịnh, thanh thoát, an vui và tự tại. Đứng về
phương diện tâm lý mà nói thì cái nhìn, sự hiểu biết của mình
đối với thế gian ảnh hưởng rất lớn cho cuộc sống của con người
hay nói rộng rãi thêm thì lối biết sống làm thay đổi thân tâm
hằng ngày mà con người không hề để ý đến. Thí dụ một người bệnh
mà mang trong người nhiều tư tưởng tiêu cực thì căn bệnh khó
lành, ngược lại một người tuy bệnh nhưng tâm hồn trong sáng, lạc
quan, không chấp sự sống chết thì thân cảm thấy ít đau và bệnh
có nhiều cơ hội chóng lành. Một thí dụ khác là khi con người quá
lo lắng thì thần kinh căng thẳng làm rối loạn hệ thống tiêu hóa
và lở loét bao tử. Ưu tư, lo lắng, phiền muộn thì người ưu tư
chớ tóc đâu có ưu tư thế mà người càng lo thì dễ bạc đầu. Vì thế
thân tâm hay tinh thần và vật chất tuy hai nhưng mà một,
bất tức bất ly, tương trợ cho nhau.
Ông Tất Lăng Già Bà Ta nghe theo lời Phật, quán những cảnh khổ
của thế gian trong khi đi khất thực, thình lình chân đạp phải
gai độc nên đau buốt toàn thân. Cái đau của thân càng làm ông
thấm thía cái khổ của cuộc đời. Vì vậy khi về đến tịnh xá, ông
thiền quán tư duy sự đau đớn của thân. Ông tự hỏi cái gì là đau
đớn và cái gì là chủ thể để phân biệt sự đau đớn? Không lẽ trong
thân lại có hai cái là vừa bị đau đớn và vừa biết đau đớn? Nhờ
đi sâu vào thiền định, ông ngạc nhiên khám phá ra rằng tuy thân
có đau đớn, nhưng tâm lại không biết sự đau đớn này. Sau cùng
ông nhận biết rằng thân căn của con người là hư huyển, cái gai
độc bên ngoài cũng là giả huyển do nhân duyên giả hợp mà sinh ra
cái đau. Nói cách khác đau là cái biết hư vọng nơi thân căn dựa
theo nhân duyên ngoại cảnh mà phát hiện có năng có sở. Nhưng
giác tâm thanh tịnh vốn thường bất biến, không có năng sở, không
có trong ngoài, không bị khổ vui làm lay động, nhưng con người
vì bị mê lầm chấp trước khởi ra vọng tưởng phân biệt nên chấp có
ngoại cảnh, có nội thân, có năng có sở đối đãi phân biệt mà cảm
nhận cái đau. Khi đoạn được tướng “năng sở” thì không thấy có
cái tướng đau, không thấy cái tướng bị đau mà chỉ còn một giác
tâm thanh tịnh. Lúc ấy, cái đau biến mất mà chỉ còn là tánh giác
hoàn toàn thanh tịnh, tâm trí rỗng rang nên ông chứng đắc tánh
viên thông, trở thành A la hán.
11) VIÊN THÔNG VỀ Ý CĂN
Ông Tu Bồ Đề đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật rằng :
- Từ nhiều kiếp đến nay, tôi vẫn được tâm vô ngại thường trú nơi
không tịch. Sự vật hiện tượng trong mười phương đối với tôi trở
thành “chân không hóa” chẳng chút vướng víu
buộc ràng. Như Lai phát minh tánh giác là chân không, tôi tư duy
thể nhập: “Bảo minh không hải tam muội”,
tri kiến đồng như Phật. Tôi được Phật ấn chứng lên hàng vô học A
la hán. Nay Phật hỏi nhân duyên được viên thông, theo chỗ chứng
ngộ của tôi: Quán các tướng đều là phi tướng. Cái phi tướng đối
tượng cũng không lưu lại. Nhìn hiện tượng vạn pháp đúng như thật
của nó: “Có mà thật chẳng có gì”. Đối với tôi, đó là phương tiện
chinh phục ý căn hữu hiệu nhất.
Tu Bồ Đề là cháu của trưởng giả “Cấp Cô Độc” Tu Đạt Đa, người đã
xây cất tịnh xá Kỳ Viên để cúng dường Phật và chư Tăng an nghĩ
trong những mùa an cư kiết hạ. Trong những kiếp quá khứ, tôn giả
Tu Bồ Đề đã từng tu thiền định về hạnh “không tịch” nên khi Ngài
vừa mới chào đời thì tất cả tài bảo, dụng cụ trong nhà của cha
mẹ bỗng dưng biến mất. Mãi đến ba ngày sau, đột nhiên những tài
bảo nầy mới trở lại như xưa. Đây quả là chuyện hy hữu xưa nay ít
có. Khi xuất gia theo Phật, ông trở thành “đệ nhất giải không”
là một trong mười đại đệ tử của Phật đà. Vậy thế nào là “Không”?
Thí dụ lúc chưa có sự hòa hợp của gạch, ngói, xi măng, cốt sắt
thì chưa có cái nhà vì đây chỉ là một mảnh đất trống tức là
không. Nhưng sau này gạch, ngói đổ bể tan rã thì cái nhà cũng
không còn tức là nó trở lại với tánh Không ban đầu. Vậy “Không”
chính là “bản lai diện mục” của tất cả mọi sự vật. Như thế tất
cả vạn pháp trên thế gian nầy đều là do nhân duyên hòa hợp mà
thành nên không có vật nào có tự tánh, có chủ thể nên chúng là
vô ngã tức là Không. Người mê thì thấy mọi vật trên đời này là
thật, là bền chắc muôn đời nên lòng tham dễ phát khởi. Ngược lại
người ngộ được lý “không” thì tất cả thế gian vũ trụ tuy có mà
cũng như không, giống như là giấc mộng. Vì thế mà ông Tu Bồ-đề
thể nhập “Bảo minh không hải tam muội” nghĩa là cái nhìn sáng
suốt thấu đáo về vạn pháp giai không của ông nó to lớn bao la
như biển cả vô cùng vô tận vậy. Ở đây tôn giả Tu Bồ-đề nói rằng
ông có tri kiến đồng như Phật có nghĩa là phải có cái tri kiến
về “vạn pháp giai không” cho tất cả mọi hiện tượng về thế gian
và xuất thế gian pháp trong đó có cả quả Vô thượng Bồ-đề nghĩa
là tuy thế gian vũ trụ sờ sờ trước mắt, nhưng đối với họ tất cả
vẫn là không nên không dính mắc. Nói cách khác không có gì trên
thế gian là thật cả, ngay cả chứng đắc quả vị Phật vì thật ra
chẳng có cái gì gọi là chứng đắc hết. Một khi chúng sinh biết
hồi đầu thị ngạn, quay thuyền trở lại bến xưa thì có an vui, tự
tại, Bồ-đề, Niết bàn chớ đâu phải chưa bao giờ biết bến xưa, nhà
cũ mà gọi là đắc, là được. Vì thế mà trong kinh Kim Cang, Phật
dạy rằng: “Ta đối với Vô thượng chánh đẳng, chánh giác cho đến
một chút pháp cũng không chứng đắc thì đó mới gọi là Vô thượng
chánh đẳng chánh giác”. Nếu còn thấy mình chứng đắc tức là còn
vướng mắc nơi tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sinh, tướng thọ
giả thì không là Như Lai được.
Ý căn là tánh hiểu biết tất cả những hiện tượng của pháp trần.
Hễ có pháp trần là có ý căn cho nên nếu tiêu trừ được ý căn thì
pháp trần không phát khởi. Ông Tu Bồ-đề trong nhiều kiếp quá khứ
đã tu theo “ý căn không tịch” nghĩa là không phát khởi ý niệm,
tư tưởng trong tâm cho dù đó là ý niệm thiện hay ác mà quy tâm
về trạng thái yên tỉnh, thanh tịnh. Tại sao ông có thể đưa ý căn
trở về với không tịch được? Bởi vì Phật dạy trong kinh Kim Cang
rằng: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng; Nhược kiến chư
tướng, phi tướng tức kiến Như Lai” nghĩa là nếu chúng sinh muốn
thấy được Phật thì phải nhìn vạn pháp trong thế gian vũ trụ này
đều là như huyển, không có chi là thật cả.
Nói cách khác nếu con người
nhìn thấu được tánh chất phi vật chất của vật chất thì sẽ thấy
được Phật tức là “vạn pháp giai không” vậy. Nên biết rằng tất cả
vật chất có được trong thế gian là do nhân duyên trùng trùng
duyên khởi, tác động qua lại mà thành chớ không có cái gì mà tự
nó có được nên vật chất không có tự tánh, không có chủ thể vì
thế chúng là vô ngã tức là “không”. Vì là vô ngã nên vật chất sẽ
bị thoái hóa dựa theo tiến trình sinh, trụ, dị, diệt của luật vô
thường nên thấy đó rồi mất đó, không có chi là bền chắc cả. Nếu
biết thức tỉnh, con người sẽ không còn đam mê, say đắm, lưu
luyến, đừng vì nó mà tạo nên bao nhiêu tội nghiệp để phải gánh
chịu khổ đau bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp.
Vì thâm nhập các tướng đều
là phi tướng tức là vạn pháp giai không nên ông Tu Bồ-đề chứng
được tánh viên thông, tâm trí rỗng rang và chứng đắc A la hán.
Nếu đứng về mặt tục đế mà nói thì “căn” cũng ví như gốc rễ để
rồi từ đó sanh ra biết bao vô minh lậu hoặc mà gây ra đau khổ
cho cuộc sống con người. Nhưng bây giờ nếu nhìn “căn” bằng một
khía cạnh khác thì căn chỉ là một dạng vật chất phát xuất từ tứ
đại duyên sanh như vô vàn hiện tượng duyên sanh khác.
Thế giới vật chất hữu hình
biểu hiện vô vàn hình thái hiện tượng khác nhau, nhưng có một
điều chắc chắn là không có thứ vật chất nào là nguyên nhân của
tội lỗi gây ra phiền não khổ đau cho con người. Tuy trần có vô
vàn hiện tượng, nhưng cũng không ngoài sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp. Tự tánh của “căn, trần” là thanh tịnh bản nhiên,
không ô nhiễm, tội lỗi xấu xa gì, nhưng nó chỉ gây tác hại, đau
thương cho những ai không làm chủ được sáu căn của mình. Vì thế
nếu chúng sinh biết kiềm chế sáu căn, không cho dính mắc nơi sáu
trần thì chẳng những “căn trần” không phải là nguyên nhân gây
nên tội lỗi mà ngược lại còn là những dữ kiện để chứng đắc tánh
viên thông, có tự tại Niết bàn.
12) VIÊN THÔNG VỀ NHÃN THỨC
Ông Xá Lợi Phất đứng dậy cung kính chấp tay thưa :
- Bạch Thế Tôn! Từ nhiều kiếp đến nay, sự nhận thức của tôi
thường thanh tịnh. Số kiếp thọ sanh lên xuống nhiều như số cát
sông Hằng. Do vậy mà các pháp biến hóa thế gian, một khi thấy là
tôi nhận thức không xa chân lý, được vô chướng ngại. Trong lần
gặp gỡ giữa đường, anh em ông Ca Diếp dụng ý theo tôi để thuyết
pháp. Các ông nói cho tôi nghe về giáo lý nhân duyên sâu xa của
Phật. Nhân buổi đàm đạo đó, tôi được tỏ ngộ, nhận thức được
rằng: “Tâm không ngần mé”. Rồi tôi theo Phật xuất gia. Trí tuệ
sáng suốt ngày càng viên mãn, được đại vô úy, thành A la hán
quả, trưởng tử Phật. Nay Phật hỏi nguyên nhân tỏ ngộ viên thông,
xin thưa: Theo chỗ chứng đắc của tôi thì sự nhận thấy rõ ràng,
nhận thức đánh giá chính xác đúng như thực của sự vật hiện tượng
là thành công ưu việt nhất.
Dựa theo Duy Thức học, khi tiền ngũ thức tức là nhãn thức, nhĩ
thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức tiếp xúc với ngũ trần là
sắc, thanh, hương, vị, xúc thì chỉ thông qua “hiện lượng”. Hiện
lượng là sự lượng biết còn trong đệ nhất sát na chớ chưa chuyển
qua thành ý thức phân biệt. Sự tiếp thu tiền cảnh của tiền ngũ
thức cũng giống như sự tiếp thu âm thanh và hình ảnh của một
chiếc máy quay phim nghĩa là hình ảnh, màu sắc, cảnh giới, âm
thanh bên ngoài như thế nào thì chiếc máy ghi nhận y như vậy,
không thêm không bớt. Nói cách khác tiền ngũ thức là cái thấy
biết chưa có sự phân biệt cho nên công dụng của nó không có ý
niệm: mừng, giận, thương, ghét, yêu, sợ, phải, quấy, tốt, xấu,
lấy, bỏ, hơn, thua… vì vậy mà tiền ngũ thức không thể tạo nên
nghiệp “thiện” hay “ác” được. Thí dụ như thấy có người vào nhà
thì cái thấy này là nhãn thức, nhưng nếu quan sát kỷ thì nhận
biết người đó là người đàn ông cao lớn, tóc bạc phơ thì cái thấy
bây giờ là do ý thức phân biệt mà có.
Cũng theo Duy Thức luận thì
nhãn thức là một trong tám thức tâm vương mà tánh thấy chính là
tinh quang của tám thức soi vào năm trần mà rõ được cảnh. Nếu
lúc mắt mới chạm vào sắc trần thì cái thời điểm thấy sao biết
vậy này gọi là “hiện lượng”. Nhưng khi tâm vừa khởi sự phân biệt
thì gọi là “tỷ lượng” tức là thuộc về ý thức phân biệt. Sau cùng
“phi lượng” là sự nhận biết không đúng với chân lý mà thiên về
ngã kiến. Như thế nếu tiền ngũ thức chung khởi với tỷ lượng của
ý thức thì sự nhận biết của con người có thể đúng mà cũng có thể
sai tùy theo sự phân biệt đúng hay sai, khách quan hay chủ quan.
Nếu nhận thức đúng chân lý thì gọi là thiện bằng ngược lại là
ác. Nếu tiền ngũ thức chung khởi với phi lượng của ý thức thì sẽ
gây ra sự sai quấy hoàn toàn đối với chơn lý.
Con người có gây ra tội cũng vì do mê, do bất giác vô minh. Do
đó, nếu chúng sinh chỉ cần cảnh giác cội nguồn của phiền não là
tham-sân-si, mạn… để tâm trí được sáng suốt không mê thì sẽ trở
thành người giác. Nói cách khác đừng để kẻ giặc cướp vô minh
phiền não vào nhà “tánh giác diệu minh” cướp phá sự nghiệp trí
tuệ giải thoát giác ngộ của ta. Tóm lại, chỉ cần “không mê” thì
ta là “giác” và chỉ cần không “vọng” thì “chơn” hiển bày.
Do vậy ý thức ngoài hiện
lượng ra, còn có thêm tỷ lượng và phi lượng nên mới có câu “tâm
viên ý mã” là vậy. Xá Lợi Phật được sinh ra trong một gia
đình thuộc dòng Bà la môn. Thân phụ của tôn giả đã từng là một
luận sư nổi tiếng của đạo Bà la môn. Thân mẫu, trong thời gian
mang thai Ngài thì tâm trí trở nên linh mẫn khác thường cho đến
người em ruột là Câu Hi Na (Kotthita) vốn là một tay nghị luận
nổi tiếng lúc bấy giờ mà cũng phải chịu thua bà. Lúc mới lên tám
tuổi, Xá Lợi Phất đã làu thông kinh sử. Khi lớn lên, tôn giả trở
thành một thanh niên cao lớn, nét mặt thanh tú, đối mắt có thần,
tay dài quá gối và có cái phong độ của một nhà học giả trứ danh.
Trong giới học thuật lúc
bấy giờ, không ai là không biết đến đại danh của chàng thanh
niên “hậu sinh khả úy” đó. Khi được hai mươi tuổi, Xá Lợi Phật
xin phép song thân đi du phương học đạo, tìm cầu chân lý. Đầu
tiên ông đến thọ giáo với một thầy Bà la môn tên là San Xà Da
(Sanjayabelatthiputta) và cũng chính nơi này, Xá Lợi Phất kết
bạn với Mục Kiền Liên. Một thời gian sau, vì thấy San Xà Da
không đủ khả năng làm thỏa mãn ước vọng của mình, Xá Lợi Phất từ
giả để đi nơi khác. Cho đến một hôm, Xá lợi Phất bỗng nhìn thấy
tỳ kheo A Thị Thuyết (Mã Thắng, A Xả Bà Thể, Assja) là một trong
năm vị tỳ kheo đầu tiên xuất gia làm đệ tử Phật, đã từng nhiều
năm tu khổ hạnh với dáng vẻ trang nghiêm và mỗi cử chỉ, đi, đứng
đều tỏ rỏ oai nghi tế hạnh làm tôn giả cảm thấy tâm hồn rung
động.
Xá Lợi Phất hỏi :
- Bậc tôn sư của Ngài là ai? Và thường dạy Ngài những đạo lý gì?
- Thầy tôi là người thuộc dòng họ Thích Ca, người ta thường gọi
là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài thường dạy cho chúng tôi về chân
lý của vũ trụ và nhân sinh mà kẻ trí óc cạn cợt như tôi không
thể nào lãnh hội hết được. Giáo lý thầy tôi thường giảng dạy mà
tôi ghi nhớ nhiều nhất là như vầy:
“Các pháp do nhân duyên sinh,
Và cũng lại do nhân duyên mà diệt”.
Và người còn dạy thêm rằng :
“Tất cả các hành nghiệp đều là vô thường,
Đều là pháp sinh diệt.
Và một khi chấm dứt được sự sinh diệt,
Thì có được sự an lạc trong cảnh giới Niết bàn tịch tịnh”.
Xá Lợi Phất cảm thấy như trời long đất lở, như ánh sáng chói lòa
của mặt trời chiếu ngay trước mắt, bao nhiêu đám mây nghi ngờ về
các vấn đề nhân sinh vũ trụ từ trước đến nay bỗng dưng được quét
sạch. Từ đó Ngài đến xin quy y và trở thành “đệ nhất trí tuệ”
trong số mười vị đại đệ tử của Phật đà.
Con mắt thịt thì gọi là phù trần căn, còn bên trong con ngươi có
những giây thần kinh bao bọc võng mô thì gọi là tịch sắc căn. Do
đó thức nương gá theo cái căn đó mà cho ta cái thấy tức là nhãn
thức. Bình thường con mắt đâu có tội lỗi xấu xa gì, nhưng con
người vì không làm chủ được nhãn thức để có vui có buồn, có
thương có ghét, có phải có quấy, có hơn có thua nên mới có đau
khổ. Còn nếu thấy thì cái gì cũng thấy, nhưng đừng đem ý niệm
vào tâm tức là đừng cộng nhãn thức với ý thức mà có sự phân biệt
thì cái thấy kia đâu có phải là nguyên nhân của phiền não khổ
đau nên không có thấy ghét, thấy thương, thấy mừng, thấy giận…
Thật chất của nhãn thức là hiện lượng tức là vô tư, khách quan
chớ không phải là tỷ lượng hay phi lượng vì thế cái tánh thấy
không hề có thương ghét, phải quấy gì hết.
Nhờ có nhãn thức tức là cái thấy biết đúng, nhận thức đánh giá
chính xác đúng như thật khiến ông Xá Lợi Phất nhìn thế gian rất
rõ ràng, không sai chân lý cho nên dựa theo thuyết nhân duyên mà
ông đã nghe được thì con người ông có ngày hôm nay là do biết
bao nhân duyên sinh khởi mà tạo thành. Khi duyên đủ thì sinh và
khi duyên hết, thân tan và con người theo nghiệp lực tái sinh
vào kiếp khác. Cứ thế mà xoay vần, khi lên khi xuống, vô cùng vô
tận trong thế gian nầy. Lý nhân duyên sanh nghĩa là tất cả vạn
pháp nương gá, tác động qua lại với nhau mà sinh khởi và trong
sự nương gá đó nếu các pháp đồng chủng thì tương hợp, dị chủng
tương xích, đồng tánh tương cự và dị tánh thì tương để. Các pháp
trong thế gian này nhân duyên trùng trùng mà sinh khởi, nhân
thành duyên, duyên thành nhân, nhân này duyên nọ rồi nhân nọ
duyên này tiếp nối không ngừng mà tác tạo ra nhân sinh, thế
giới, vũ trụ.
Trong kinh Tỳ kheo Na Tiên, vua Milinda hỏi Tỳ Kheo về nhân
duyên sinh như sau:
- Bạch Đại đức, trên thế gian này có vật nào bỗng dưng mà tự
nhiên sinh ra không?
- Tâu Đại vương! Không có vật nào bỗng dưng mà tự nhiên sinh ra
cả. Hết thảy đều phải có sở nhân.
Na Tiên bèn hỏi ngược nhà vua :
- Cái cung điện mà nhà vua đang ngự đây, phải chăng là do tự
nhiên sanh ra hay do tay người kiến tạo?
- Do tay người kiến tạo. Cây thì đốn trong rừng về để làm kèo
cột… Nhân công cả đàn ông lẫn đàn bà xúm lại, kẻ cưa người đẽo,
kẻ đắp người tô, ai lo tròn việc ấy, mới kiến tạo xong tòa cung
điện này.
- Cũng như thế đó, con người cũng do yếu tố hòa hợp lại mà
thành. Mọi vật không thể bỗng không mà sanh ra được. Hết thảy
đều có sở nhân, chứ không do tự nhiên mà có.
- Xin cho thí dụ.
- Ví như nhạc công khảy đàn. Nếu không có dây, phiếm và tay
người khảy… thì khiến phát ra âm thanh trầm bổng nhặt khoang
được không?
- Thưa không.
- Con người và vạn vật trong thế gian cũng như thế đó. Không thể
bỗng dưng mà có sinh ra. Hết thảy đều phải có sở nhân. Các sở
nhân ấy kết hợp lại với nhau, tạo thành sự sự vật vật ngàn sai
muôn khác. Đó là nhân duyên sanh vậy. Chớ không thể nào có tự
nhiên sanh.
Tâm không có ngằn mé nghĩa là tâm thì bao la vô cùng vô tận, hòa
đồng chân lý vũ trụ vì thế tâm trong đạo Phật phải được hiểu là
Như Lai Tạng bản thể (tâm) chứa đựng tất cả những chủng tử (hạt
giống) để duyên khởi hình thành ra tất cả hiện tượng vạn pháp
trong cái thế giới vũ trụ bao la này. Vì tâm không giới hạn nên
khi chúng sinh thể nhập được chơn tâm thường trú, thể tánh tịnh
minh rồi thì cái tâm này mới có thể hòa đồng với chơn không
được.
Vì có nhận thức đúng về lý nhân duyên nên tỏ ngộ chân lý giúp
ông Xá Lợi Phất chứng đắc tánh viên thông, thành quả A la hán,
có được Niết bàn.
13) VIÊN THÔNG VỀ NHĨ THỨC
Bồ-tát Phổ Hiền đứng dậy cung kính chắp tay bạch
Phật :
- Rằng tôi từng làm Pháp vương tử cho các Như Lai nhiều như cát
sông Hằng. Mười phương Như Lai dạy các đệ tử Bồ-tát tu hạnh Phổ
Hiền chính là do dựa theo đức tinh tấn của tôi mà đặt ra cái tên
Phổ Hiền Hạnh.
- Bạch Thế Tôn! Tôi sử dụng tánh nghe của tâm mà nhận biết
nguyện vọng của chúng sanh, nếu có chúng sinh phát hạnh Phổ
Hiền. Do vậy, giả sử ở một phương khác, cách ngoài hằng sa thế
giới, có chúng sinh phát hạnh Phổ Hiền thì liền trong lúc ấy,
tôi cỡi voi sáu ngà, phân thân trăm nghìn đến chỗ người ấy.
Phỏng sử người kia nghiệp chướng sâu dày chưa thấy được tôi, tôi
cũng thầm kín xoa đầu an ủi ủng hộ khiến cho sở nguyện thành
tựu. Nay Phật hỏi nguyên nhân tu chứng viên thông, tôi xin thưa:
Sử dụng tánh nghe của nội tâm mà nhận biết tự tại, đối với tôi
là pháp môn ưu việt nhất.
Khi nói về giáo nghĩa phương tiện, Bồ-tát Phổ Hiền thường thị
hiện cởi voi trằng sáu ngà có nghĩa là Ngài dùng đại hạnh hóa độ
chúng sinh, đưa họ từ bờ mê đến bến giác. Con voi trắng sáu ngà
tượng trưng cho Lục độ là Bố thí, Trì giới, Tinh tấn, Nhẫn nhục,
Thiền định và Trí tuệ. Mặc dù bể khổ thì rộng lớn mênh mông còn
chúng sinh thì vô lượng, nhưng Ngài vẫn không ngại nhọc nhằn
tiếp tục cứu vớt chúng sinh kiếp này sang kiếp khác. Với chiếc
chèo bố thí, cánh buồm tinh tấn, mục tiêu thiền định, tay lái
trí tuệ, Phổ Hiền Bồ-tát luôn kiên nhẫn tiến tới mà chẳng ngại
sóng gió để cứu giúp chúng sinh.
Thấy Phổ Hiền Bồ-tát là thấy chân lý cho nên con người phải
tránh xa mọi ảo vọng để trở vế với chân lý. Gạt bỏ mọi vô minh,
đừng lấy chân làm giả mà hãy dùng trí tuệ mà nhìn thẳng váo chân
lý để được giác ngộ như chư Phật. Mười đại hạnh Phổ Hiền là:
1.Lễ kính chư Phật:
Lễ kính chư Phật ở đây không có nghĩa là lễ lạy tượng Phật, mà
chư Phật ở đây là ám chỉ cho tất cả mọi chúng sinh vì ai ai cũng
đều có Phật tánh như nhau. Giáo lý liễu nghĩa đại thừa thì chú
trọng Phật tánh tức là tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mỗi
chúng sinh. Đó là:
1) Pháp trí thanh tịnh lễ: Chúng sinh phải nhìn thấy cho được sự
thanh tịnh của nội tâm để kiểm tra tư tưởng của mình. Tâm thức
tức là tư tưởng thì biến chuyển không ngừng cho nên chúng sinh
phải biết nó đang nghĩ gì, nó đang nói gì và nó đang muốn làm
gì. Nếu ý thiện thì lấy còn ý xấu, ý ác thì bỏ ngay.
2) Chánh quán tâm thành lễ: Hằng ngày trong mọi uy nghi như đi,
đứng, nằm, ngồi chúng sinh đều có thể suy tư quán chiếu hay gọi
là hành thiền, tọa thiền hay ngọa thiền để xoay tâm mình trở về
với chánh đạo và tránh xa tà kiến.
3) Biến nhập pháp giới lễ: Biến tâm mình trở thành rỗng rang để
hòa nhập vào vủ trụ bao la mà không cần một đối tượng để không
còn vui buồn, hờn giận, thương ghét, nhân ngã bỉ thử… Tâm hồn
con người hoàn toàn rỗng rang thanh tịnh được xem như hòa tan
vào trong hư không vô tận để buông bỏ tất cả. Trạng thái sống
như vậy trong thời gian đó là biến nhập pháp giới lễ vậy.
4) Thực tướng bình đẳng lễ: Chúng sinh phải thấy cho được tính
cách vô tướng của vạn pháp vì thật tướng là vô tướng. Tất cả các
pháp là do duyên sanh nên không có chủ tể hay tự tánh nên không
có vật gì là vĩnh viễn tồn tại, bền chắc vì thế chúng sinh dễ
buông xả tất cả. Vì vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn nên
con người có thể coi thường cả sinh, lão, bệnh, tử của mình, coi
thường cả sự thành, trụ, hoại, không của vủ trụ và coi thường
ngay cả sinh, trụ, dị, diệt của cuộc đời nên lúc nào cũng an vui
tự tại.
Thực hành được như thế thì tuy không lễ lạy trước Đức Phật mà
chính chúng ta đã lễ lạy rồi vậy. Nếu chúng sinh không nhận thức
được Phật tâm của mình để sống với cái tự tánh thanh tịnh bản
nhiên để có an vui tự tại mà cầu Phật tướng bên ngoài thì chỉ
gởi gắm tâm hồn vào nơi vô định. Tu hành theo hình tướng bề
ngoài thì dĩ nhiên không có kết quả.
2. Khen ngợi Như Lai
3. Cúng dường khắp cả
4. Sám hối nghiệp chướng
5. Tùy hỷ công đức
6. Thỉnh Phật chuyển pháp luân
7. Thỉnh Phật thường ở đời
8. Thường theo học Phật
9. Hằng tùy thuận chúng sinh
10. Hồi hướng khắp hết.
Đức Phổ Hiền Bồ-tát đã sử dụng tánh nghe của nội tâm mà nhận
biết tiếng cầu cứu của chúng sinh. Vậy Ngài sử dụng tánh nghe
như thế nào? Nghe bằng tự tánh không phải là lối nghe thông
thường bằng nhĩ căn mà chỉ là tánh nghe trong nhĩ căn tức là cái
lý thể vô phân biệt. Với tánh nghe này, dù có âm thanh hay không
vẫn được sáng tỏ rõ ràng, không sai sót cũng như tấm kiếng cho
dù có hình hay không thì kiếng vẫn sáng tỏ. Khi con người chú
tâm vào tự tánh thì gọi là nhập lưu, vọng ngoại theo tiếng là
xuất lưu. Do đó, khi có thể lìa bỏ mọi âm thanh (thanh trần)
cũng còn gọi là phủi bỏ trần cảnh, dùng cách nhập lưu trở về tự
tánh nghĩa là hành giả không chú tâm vào tiếng bên ngoài mà chỉ
hướng vào trong tánh nghe, an trụ lặng lẽ thì những phân biệt
thô thiển không còn nữa và lúc đó tánh nghe sẽ hiện rõ như mặt
trăng mùa thu trong sáng. Nếu trong một thoáng, con người chú
tâm đến âm động bên ngoài thì tánh nghe sẽ mờ mịt, không còn
sáng suốt nữa. Vì vậy khi nhập lưu hành giả đừng bao giờ quan
tâm đến động tịnh thì mới thành tự tánh bổn định được.
Tất cả thế gian, vũ trụ, muôn sinh, vạn vật, trời, Phật, Thánh,
thần, A tỳ, súc sinh, địa ngục đều phát khởi từ tâm. Do đó cứ
mỗi giây, mỗi phút con người sống một trong thập pháp giới đó.
Thật vậy, tâm là cội nguồn của chư Phật, là biển của muôn pháp,
là đất tánh của chúng sinh. Đất thì sinh ra muôn sinh vạn vật
còn tâm thì bao gồm muôn pháp, trăm khéo ngàn hay, huyền cơ diệu
lý, mỗi mỗi đều từ tâm dựng lập. Vì thế khi chúng sinh phát hạnh
tinh tấn thì tâm ấy chính là tâm Phổ Hiền chớ đừng hiểu là Ngài
Phổ Hiền vì nghe biết nguyện vọng chúng sinh nên từ xa đến để
xoa diệu niềm đau nổi khổ. Đây là lối “văn dĩ tải đạo” nghĩa là
dùng lời văn mà chuyên chở đạo lý bên trong thế thôi.
Còn con voi trắng sáu ngà
phải được hiểu là tượng trưng cho sự kiên cường, sức chịu đựng
bền bỉ của Bồ-tát. Do đó dựa theo liễu nghĩa đại thừa thì Phổ
Hiền Bồ-tát cởi voi trắng sáu ngà là chỉ cho chúng sinh đã phát
tâm tinh tấn, kiên cố, chịu đựng bền bỉ không thoái bước trên
con đường Vô thượng Bồ-đề chớ đừng sống trong ảo tưởng cho rằng
có Ngài Phổ Hiền cởi voi trắng sáu ngà thật mà trông chờ, mong
đợi, van xin, cầu lạy. Đạo Phật dạy chúng sinh tin sâu vào nhân
quả nghĩa là mình đầu tư cái nhân bao nhiêu thì chỉ gặt hái
chừng ấy quả, không cầu không xin ai cả vì có cầu cũng chẳng
được nào chỉ tăng trưởng lòng tham tức là tăng thêm nỗi khổ mà
thôi. Vì xử dụng tánh nghe được viên mãn nên Ngài Phổ Hiền chứng
đắc tánh viên thông, tự tại Niết bàn.
14) VIÊN THÔNG VỀ TỶ THỨC
Ông Tôn Đà La Nan Đà đứng dậy cung kính chắp tay thưa với
Phật :
- Lúc tôi mới xuất gia theo Phật học đạo, trong khi tu
Tam-ma-đề, tâm thường tán loạn. Đức Thế Tôn dạy tôi quán điểm
trắng ở chót mũi. Tôi bắt đầu thực hành, trải qua thời gian hai
mươi mốt ngày, thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói, thân tâm
trong sáng như ngọc lưu ly. Tướng khói lần lần không còn, tâm
tôi được khai ngộ, các lậu tận sạch trong, thành A la hán. Thế
Tôn thọ ký cho tôi thành quả Bồ-đề. Nay Phật hỏi sở nhân được
viên thông, xin thưa: Đối với tôi tập trung ý niệm, quán hơi thở
và điểm trắng ở tỷ căn là thành tựu hữu hiệu nhất.
Ông Nan Đà có người vợ tên là Tôn Đà La vì thế kinh này gọi ông
là Tôn Đà La Nan Đà để tránh ngộ nhận ông với những ông Nan Đà
khác. Ông xuất gia theo Phật là người rất thông minh, giữ gìn
đúng giới luật, nhưng thỉnh thoảng lại nhớ đến người vợ đẹp, tâm
thường tán loạn nên tu các pháp quán không có kết quả. Đức Phật
dạy ông nhiếp niệm quán điểm trắng ở chót mũi. Ông tinh tấn tu
pháp quán ấy rồi trải qua thời gian hai mươi mốt ngày, ông vào
được định rồi đưa tâm theo hơi thở ra vào. Tâm theo hơi thở ra
thì hiện thành thế giới và khi tâm theo hơi thở vào thì tất cả
đều không. Cứ như thế cho đến lúc thấy hơi thở thành như khói,
rồi thành sắc trắng và sau cùng hóa thành hào quang sáng chói
soi khắp mười phương thế giới.
Trong ngũ uẩn thì hành uẩn
là nơi tư tưởng phát sinh như dòng suối liên tục không ngừng. Ý
niệm trước vừa dấy khởi thì liền bị thay thế bởi ý niệm sau cho
nên tâm con người chất đầy vọng tưởng. Ở đây Đức Phật dạy ông
Tôn Đà La Nan Đà quán vào hơi thở nghĩa là định tâm của mình vào
hơi thở mà quên đi tất cả những hiện tượng, ý niệm sinh diệt
khác. Khi tâm đã bắt đầu cô động, ý nghĩ không còn phát hiện thì
ngay vào thời điểm đó tất cả những tư tưởng tham-sân-si biến mất
khiến tâm ông rỗng rang thanh tịnh tột cùng. Một khi tâm được
thanh tịnh không còn bị ngoại trần “sắc, thanh, hương, vị, xúc”
hay nội trần “pháp” quấy phá thì ông phá được ngã chấp, chứng
được ngã không mà trở thành A la hán, chứng đắc tánh viên thông
tự tại.
15) VIÊN THÔNG VỀ THIỆT THỨC
Ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử đứng dậy cung kính chấp tay
bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn! Tôi từ nhiều kiếp đến nay biện tài vô ngại,
tuyên thuyết các pháp : khổ, không, hiểu sâu thật tướng cho đến
những pháp môn bí mật như hằng sa của Như Lai, tôi có thể diễn
giảng trước đại chúng không hề có sự sai lầm và sợ sệt. Thế Tôn
biết tôi có đại biện tài, dạy tôi tuyên dương chánh pháp, giúp
Phật chuyển pháp luân. Tôi nhờ giảng nói chánh pháp mà được quả
A la hán. Thế Tôn ấn chứng cho tôi là “thuyết pháp đệ nhất”. Nay
Phật hỏi nguyên nhân được viên thông, xin thưa: Tôi dùng pháp âm
hàng phục tà ma ngoại đạo, tiêu trừ hoặc lậu là ưu việt nhất.
Phú Lâu Na sinh ra trong một gia đình thuộc hạng giàu có ở Ấn
Độ, nhưng khi lớn lên, ông nhận biết rằng ái ân, tài bảo của thế
gian là giả tạm, có lúc biệt ly tan rã. Chỉ có một điều quan
trọng nhất của cuộc đời là cầu cho mình thấu biết một chân lý
tối thượng nên mới quy y theo Phật. Vì trong nhiều kiếp quá khứ,
ông có biện tài vô ngại, tuyên duyên chánh pháp mà trở thành
“thuyết pháp đệ nhất”. Khi đã đi sâu vào Phật pháp, con người sẽ
phát sinh tứ vô ngại nghĩa là có pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ
vô ngại và lạc thuyết vô ngại.
1) Pháp vô ngại: Khi đã thành tựu trí tuệ thì nhìn vạn pháp thấy
cái gì cũng đúng với chân lý nên khi thuyết pháp biến tất cả các
pháp trở thành Phật pháp. Thí dụ như khi thấy lá rụng, tuyết rơi
thì nghĩ ngay đến sự tạm bợ, vô thường.
2) Nghĩa vô ngại: là biết đúng nên nói đúng, nói chánh ngữ, đúng
nghĩa, không sai chân lý.
3) Từ vô ngại: là lời nói trôi chảy, không ngăn ngại.
4) Lạc thuyết vô ngại: là càng nói càng
thêm phấn khởi, dồi dào phong phú chớ không bao giờ bị bế tắc.
Đứng về phương diện ý thức, tư tưởng thì tứ vô ngại được gọi là
tứ vô ngại trí tức là do trí tuệ mà phát sinh ra bốn thứ vô
ngại. Còn dựa trên ngôn từ diễn đạt mà nói thì gọi là tứ vô ngại
biện tức là tứ vô ngại biện tài. Sau cùng khi chúng sinh nhìn
kinh điển mà có thể nhận thức, thấy biết ngay thì gọi là tứ vô
ngại giải, nghĩa là đọc kinh thì biết ngay ý nghĩa mà khỏi cần
nghiên cứu.
Vì có được tứ vô ngại nên tôn giả tuy thuyết pháp nhưng tâm
không rời pháp giới tánh. Đức Phật biết ông có tài biện thuyết
lớn lao nên dạy ông tu hạnh thuyết pháp. Do thuyết pháp đứng
đắn, đúng với chân lý, dùng ngọn lưỡi thay ánh thép quét sạch tà
ma ngoại đạo nên ông chứng được tánh viên thông, đắc quả A la
hán.
16) VIÊN THÔNG VỀ THÂN THỨC
Ông Ưu Bà Ly đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật :
- Rằng chính tôi theo Phật vượt thành xuất gia. Tôi thấy Như Lai
sáu năm cần khổ, cuối cùng hàng phục tà ma, chế ngự ngoại đạo,
giải thoát các lậu thế gian. Phật dạy tôi trì giới, giữ gìn tánh
nghiệp, giới nghiệp của thân, miệng, ý
giữ vẹn ba nghìn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Nhờ vậy, thân tâm
tịch tịnh thành quả A la hán. Nay kỷ cương trong đại chúng, Như
Lai ấn chứng tôi là “trì luật đệ nhất”. Hôm nay Phật hỏi phương
tiện được viên thông, xin thưa: Đối với tôi do giữ gìn thân được
thanh tịnh. Thân đã thanh tịnh thì tâm sẽ thanh tịnh sau. Đó là
phương pháp uốn dẹp tu sửa thân tâm hữu hiệu nhất.
Ông Ưu Bà Ly xuất thân từ dòng hạ tiện Thủ Đà La cho nên suốt
cuộc đời chỉ được làm nô bộc cho kẻ khác mà thôi. Lớn lên ông
trở thành người thợ hớt tóc. Nhờ tánh thuần lương trung hậu,
chẳng bao lâu ông được vào Hoàng cung hớt tóc cạo râu cho các
vương tôn công tử. Do vậy mà khi Đức Thế Tôn về thăm lại gia
đình, ông được chọn để cạo tóc cho Phật. Về sau bảy vị vương tử
xuất gia, ông cũng quyết chí quy y theo Phật và chẳng bao lâu
sau trở thành “đệ nhất trì giới” của Phật đà.
Phật biết ông là người thẳng thắn, cương trực mà lại thuần lương
trung hậu nên dạy ông tu pháp trì giới. Ông kiên trì giữ gìn
tánh hạnh cho đến ba ngàn uy nghi, tám vạn tế hạnh ông đều giữ
được thanh tịnh từ trong đến ngoài. Trong Phật giáo, Giới là
cánh cửa để vào căn nhà giác ngộ bởi vì có giới thì tâm mới định
mà tâm định thì trí tuệ sẽ sinh. Tuy kinh Lăng Nghiêm thuộc về
lối tu “Tự tánh bổn định”, nhưng phần sau Đức Phật dạy muốn có
cái định này chúng sinh vẫn phải tránh xa tánh nghiệp là “dâm,
sát, đạo, vọng” tức là phải tu “giới” trước vậy. Tánh nghiệp là
những điều thể tánh tuy không ác, nhưng nó mở đường cho tội lỗi
có cơ hội phát tác như rượu chè, cờ bạc… Các vị xuất gia phải
thọ 250 giới rồi đem nhân với 4 cử động đi, đứng, nằm, ngồi
thành ra 1000 và nhân nó với 3 tụ giới thành ra 3000 oai nghi.
Lấy 3000 oai nghi này nhân với 7 chi là sát, đạo, dâm, lưỡng
thiệt, vọng ngôn, ác khẩu, ỷ ngữ thành ra 21000.
Sau cùng nhân 21000 cho 4
phần phiền não là đa tham, đa sân, đa si, tham-si đồng phần
thành ra 84000 tế hạnh mà một vị tỳ kheo phải giữ gìn, không
được khuyết phạm giới nào. Nếu thân thường ở trong giới và một
khi giới đã thanh tịnh thì thân ấy là thân tịch diệt và tâm ấy
chính là tâm chơn thường diệu giác, cho dù có ở trong chốn bụi
trần mà không bao giờ ô nhiễm như diệu liên hoa vậy. Giới là
khuôn vàng thước ngọc, là kim chỉ Nam để tránh đi lầm đường lạc
lối, vào chỗ đọa lạc. Vì tầm quan trọng đó mà trước khi nhập
diệt, Đức Phật dạy rằng: “Vào thời không có Phật hãy lấy giới
luật làm thầy”. Giữ giới là có giải thoát nên ông Ưu Bà Ly thân
được tự tại và tâm được thông suốt. Cũng vì có thân tâm đều vắng
lặng trong suốt nên ông Ưu Bà Ly chứng được tánh viên thông, đắc
thành A la hán.
17) VIÊN THÔNG VỀ Ý THỨC
Ông đại Mục Kiền Liên đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật
rằng :
- Lúc nọ tôi đi khất thực giữa đường được ba anh em ông Ca Diếp
: Ưu Lâu Tần Loa, ông Dà Gia và Na Đề giảng nói lý nhân duyên
thậm thâm của Phật, tâm tôi bừng ngộ thông suốt rỗng rang. Như
Lai ban cho cà sa mặc vào thân, râu tóc tự cạo. Đại chúng suy
tôn tôi là “thần thông đệ nhất” trong hàng vô học A la hán. Nay
Phật hỏi viên thông, xin thưa: Tôi xoay ý thức trở về tánh sáng
suốt trạm nhiên. Giống như lóng nước đục, lóng nước lâu trở về
với tự thể trong sạch. Đó là phương tiện tu sửa đối với tôi hữu
hiệu nhất.
Tôn giả Mục Kiền Liên cũng như Xá lợi Phất sau nghe đạo lý nhân
duyên thì tâm chợt bừng ngộ, tâm trí rỗng rang, thần thông diệu
dụng nên được Phật tặng cho danh hiệu “đệ nhất thần thông” trong
số mười vị đại đệ tử của Phật đà. Trong đạo Phật, thần thông
không phải là điều tối quan trọng vì bất cứ vị A la hán nào cũng
có. Cái khác nhau giữa Phật giáo và ngoại đạo là tuy ngoại đạo
cũng luyện được năm phép thần thông, nhưng tâm họ chưa trong
sạch, không thanh tịnh cho nên khi không còn luyện thì thần
thông biến mất.
Ngược lại thần thông của
Phật giáo là do tâm thanh tịnh mà có nên thường hằng, không bao
giờ mất. Ngày xưa ngoại đạo có khi dùng cả bốn, năm chục năm để
luyện cho mình có thể đi trên mặt nước hay bay qua ngọn núi…
nhưng đi trên mặt nước hay bay qua ngọn núi thì có chi là tuyệt
vời mà phải mất cả đời người để tu luyện! Ngày nay con người chỉ
cần bỏ ra vài trăm đô la là có thể bay trên không 4, 5 chục ngàn
bộ dễ dàng. Hoặc cả phái đoàn bốn, năm trăm người từ Mỹ cùng bay
qua Ấn Độ để hành hương chớ đâu như Tề Thiên Đại Thánh chỉ có
một Đường Tăng mà không đằng vân đem theo được.
Ngay cả những người tự cho
mình có thần thông này, diệu dụng nọ, nhưng các ông các bà này
cũng phải đứng sắp hàng ở phi trường hàng giờ chờ đi máy bay.
Những chiếc tàu ngầm nguyên tử có thể chở mấy trăm thủy thủ đoàn
lặn sâu tận lòng đại dương cả năm trời mới nổi lên. Hiện tại có
một chiếc du thuyền lớn nhất thế giới cao trên mười mấy tầng,
thiết kế đầy đủ như là một khu phố trến mặt nước tên là Oasis mà
người Mỹ gọi là The Biggest ship: "Oasis" or is it a floating
town? hay những chiếc hàng không mẫu hạm có thể xuyên khắp năm
châu bốn bể.
Con người đâu cần thần
thông mà vẫn bay đến mặt trăng thăm chị Hằng, chú cụi! Hoa Kỳ và
Nga đã thiết lập những trạm ngoài không gian mà con người có thể
ở trên đó cả năm, đánh cờ uống rượu khác gì những vị tiên. Hoặc
trong những thập niên tới con người có thể đến thăm những hành
tinh như Hỏa tinh như đi chợ, có khó gì. Do đó đối với đạo Phật,
cái thần thông diệu dụng nhất phải là biến một người ngu si
thành ra người trí tuệ vẹn tròn. Cái đạo lý ở đây là tuy khoa
học có phát triển để phục vụ, đem con người gần với nhau hơn và
có cuộc sống khả dĩ khá hơn, nhưng tánh tham-sân-si của họ chẳng
những không giảm mà còn tăng nên họ vẫn còn nô lệ cho phiền não
khổ đau.
Vậy những nhà bác học, học giả… thì chúng ta gọi họ là những
người trí thức. Như thế thì trí thức và trí tuệ khác nhau ở chỗ
nào?
Theo nghĩa thông thường thì nhà bác học là người nghiên cứu,
nghiền ngẫm, phân tích và phát minh thêm những sáng tạo mới cho
nhân loại, còn học giả là người lượm lặt những hiểu biết của
người khác. Họ thu góp những cái hay, cái đẹp, cái lạ của người
rồi cho đó là kiến thức của mình. Sau cùng trí thức là do ý thức
nhanh nhẹn khéo léo, so sánh phân biệt, nhận định tường tận làm
cho người nghe dễ nhận dễ hiểu. Như vậy những nhà bác học, học
giả hay trí thức đều nhắm vào những điều kiện vật chất để kiến
tạo, vun bồi cho đời sống thêm sung túc, tốt đẹp và giàu có hơn.
Nhưng tất cả việc làm của họ đều thuộc về pháp sanh diệt của thế
gian mà thôi, có nghĩa là được rồi sẽ mất.
Còn chúng ta là người học Phật thì lấy trí tuệ làm gốc. Mà trí
tuệ có hai loại là trí tuệ hữu lậu và trí tuệ vô lậu.
1) Trí tuệ hữu lậu chính là Văn, Tư, Tu. Văn là học những lời
dạy của Phật để thấy được chân lý về sự liên quan của con người
và vũ trụ. Tư là tư duy, suy nghĩ và nghiền ngẫm để thấy rõ
những chân lý của Phật một cách chính xác. Còn Tu là ứng dụng,
thực hành những chân lý của Phật dạy để tâm không còn ô nhiễm và
dính mắc các pháp sinh diệt ở bên ngoài. Tuy nhiên trí tuệ hữu
lậu vẫn còn rơi rớt trong vòng sanh tử luân hồi.
2) Trí tuệ vô lậu chính là Giới, Định, Tuệ. Giới là khuôn vàng
thước ngọc giúp cho chúng ta đi đúng con đường chánh đạo. Có
giới mới sanh định, có nghĩa là những ý thức lăng xăng được lắng
xuống và từ định mới sanh trí tuệ. Cái trí tuệ nầy không phải do
học mà có, nhưng nó chính là sự tạo thành bởi sức công phu tu
tập bền vững. Trí tuệ nầy chính là trí tuệ chân thật và cũng
chính là tánh giác của chúng ta. Nếu chúng ta biết sống với cái
tánh giác chân thật nầy thì sẽ không còn tạo nghiệp và dĩ nhiên
là sanh tử luân hồi cũng vì thế mà dừng.
Tóm lại, người thông minh trí thức ở ngoài đời là do khả năng
lượm lặt của người làm của mình, nhưng không có gì thật là của
mình cả. Còn người tu Phật là phải gạt bỏ tất cả những thứ bên
ngoài để cho tâm được trong sáng và khi đó tánh giác sẽ hiện
bày. Như vậy, nền giáo dục của thế gian là thu vào, thu vào càng
nhiều thì càng thông minh trí thức, còn người tu Phật thì phải
bỏ ra, càng bỏ ra thì tâm càng thanh tịnh và tánh giác mới hiện
bày. Đây mới chính là trí tuệ chân thật có sẵn trong tất cả mọi
người.
Thật ra trong thế giới khoa học tiến bộ ngày nay, thần thông hữu
hiệu nhất cho người đệ tử Phật có lẽ là du hí thần thông. Đó là
khi tâm được trong sáng rỗng rang, không chấp trước thì cho dù ở
đâu, đi đâu hay thăm viếng chỗ nào thì con người cũng rất an
nhiên tự tại. Khi biết thế gian là huyễn thì còn gì để chấp,
mình cũng không mà người cũng không thì lấy gì để bận bịu, lưu
luyến, ưu phiền cho nên ở nhà cũng vui, đến chùa cũng vui, đi
thăm bạn bè cũng vui, thăm thân bằng quyến thuộc cũng vui ngay
cả thăm viếng ngoại đạo cũng vui, không chấp. Con người khi
không còn tranh chấp, đố kỵ thì cái tâm bây giờ sẽ không còn
giới hạn chật hẹp nhỏ bé trong phạm vi tham-sân-si mà lan tỏa ra
cùng khắp thì ở đâu, làm gì cũng an nhiên tự tại. Tóm lại, con
người tuy có ở trong trạm không gian mấy năm, nhưng tâm vẫn còn
vô minh phiền não khổ đau thì có ích gì, ngược lại người có du
hí thần thông tự tại thì tâm hằng thanh tịnh, vô minh tan biến
phiền não tiêu trừ, tự tại Niết bàn.
Ông Mục Kiền Liên nhờ ý thức mà nhận biết nhân duyên như huyễn,
sinh không thật là sinh và diệt không phải là thật diệt. Do vậy
mà tâm Ngài không còn phân biệt, chứng được diệu chân như tánh,
có thần thông tự tại, biến hóa vô biên và chứng tánh viên thông
vô ngại, thành quả A la hán.
Tóm lại, sáu căn, sáu trần và sáu thức không có cái nào là
nguyên nhân của tội lỗi vì nếu nó là nguyên nhân của tội lỗi xấu
xa thì không bao giờ có thể dựa vào đó mà tu chứng được. Tội lỗi
là do con người mê, bất giác mà dựa vào sáu căn, sáu trần hay
sáu thức mà gây ra tội lỗi. Ngược lại, đối với người không mê,
không vô minh bất giác thì chẳng những sáu căn, sáu trần, sáu
thức không phải là nguyên nhân của phiền não, khổ đau mà chính
nó còn là những dữ kiện, những yếu tố cần thiết dùng để tu hành.
Cũng xin nhắc lại, sáu thức được phân tích ở đây là dựa theo tư
tưởng Tiểu thừa mà theo đó họ tin rằng sáu căn, sáu trần và sáu
thức là nguyên nhân gây ra tội lỗi đau thương. Nhưng khi bước
sang tư tưởng Đại thừa thì ngoài sáu thức còn có Mạt-na-thức và
A-lại-da thức trong bát thức tâm vương và tư tưởng Đại thừa chủ
trương không có căn, trần hoặc thức nào là nguyên nhân của tội
lỗi, xấu xa cả mà phiền não khổ đau chỉ có đối với những người
còn vô minh bất giác, không làm chủ sáu căn của mình mà thôi.
18) VIÊN THÔNG VỀ HỎA ĐẠI
Ông Ô Sô Sắc Ma đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật :
- Tôi nhớ những kiếp xa xưa, tánh tôi nhiều tham dục. Bấy giờ
nhằm thời Đức Phật Không Vương trụ thế. Đức Phật Không Vương Như
Lai bảo rằng: “Người đa dâm như đống lửa hồng”. Rồi Phật dạy tôi
quán hơi nóng trong cơ thể cả khắp tứ chi. Nhờ quán như vậy tinh
thần sáng suốt, nội tâm đứng lặng, tâm háo dâm trở thành lửa trí
tuệ. Từ đó, chư Phật gọi tôi với cái tên Hỏa Đầu. Tôi dùng sức
hỏa quang tam muội mà chứng quả A la hán. Tôi phát đại nguyện,
nếu có chư Phật thì tôi làm lực sĩ hầu cận Phật để đánh dẹp bọn
tà ma quấy phá. Nay Phật hỏi nhân duyên được viên thông, xin
thưa rằng: Do tôi quán hơi ấm trong thân, lưu thông không
ngằn ngại, từ đó các lậu tiêu trừ, sinh lửa trí tuệ. Đối với
tôi, đó là pháp tu hữu hiệu nhất.
Đại có nghĩa là bao trùm khắp cả không gian và thời gian cho nên
trong Phật giáo có tất cả bảy đại là địa đại, thủy đại, hỏa đại,
phong đại, không đại, kiến đại và thức đại phổ biến không chỗ
nào không có. Do thất đại mà khái niệm về không gian và thời
gian được hình thành nghĩa là thất đại là nguyên nhân trực tiếp
của hiện tượng vạn hữu duyên khởi sinh ra thế gian vũ trụ này.
Trong thế gian này, không có sự vật nào có một thực thể cố định
bất di bất dịch mà phải tương quan kết hợp với những yếu tố
khác. Thí dụ chiếc xe đạp là sự tổng hợp của rất nhiều nhân
duyên như bánh xe, yên ngồi, thắng… chớ bánh xe không phải là
yếu tố đầu tiên của chiếc xe đạp. Vì vậy địa, đại, thủy, hỏa,
phong, không, kiến, thức là những hình thái của chủng tử được
biểu hiện trong Như Lai Tạng bản thể mà thôi.
Địa, thủy, hỏa, phong và
không là năm yếu tố căn bản duyên khởi hình thành ra núi sông,
cây cỏ, hoa lá… và chúng là loài vô tình chúng sinh. Nếu hòa hợp
đất, nước, gió, lửa, không và kiến thì có các loài súc vật,
chúng có trực giác (kiến đại) mà không có tri giác (thức đại).
Còn nếu có đủ bảy đại thì có loài người tức là loài hữu tình có
giác tri. Do vậy nhân sinh vũ trụ dựa theo pháp giới duyên khởi
cũng nằm gọn trong “bất biến tùy duyên và tùy duyên bất
biến” nghĩa là từ Như Lai Tạng bản thể huyền diệu nhiệm mầu mà
duyên khởi ra cây cỏ, hoa lá, núi cao, rừng thẳm, chim bay, cá
lặn, con người… và cũng từ cái thế gian này mà duyên khởi trở về
với tự tánh thanh tịnh bản nhiên ban đầu của nó.
Con người chỉ vì còn vọng tưởng nên còn tánh tham dâm và do tánh
tham dâm này mới kết thành lửa nghiệp bừng bừng đốt cháy thân
tâm, lu mờ ánh sáng trí tuệ. Nhưng xét cho cùng thì vọng tưởng
là do tâm, tham dâm cũng do tâm và trí tuệ cũng phát xuất từ tâm
cho nên nếu diệt được tâm tham dâm vọng tưởng thì lửa trí tuệ
tức là hỏa tánh tức thì phát hiện. Ở đây nói về hỏa đại không
phải là lửa bên ngoài mà chính là lửa tâm tham dục của mình. Nên
nhớ trong Như Lai Tạng có đủ hỏa tánh chơn không, một khi tâm
dâm vừa dấy khởi thì nó sẽ giúp dâm căn tăng trưởng.
Ông Ô Sô Sắc Ma vốn nhiều
dâm dục nên Đức Phật dạy cho biết người đa dâm biến thành đống
lửa dữ nên ông chuyên tâm tu tập quan sát từ trong sắc thân tứ
đại đến ngoài cảnh giới thì thấy đâu đâu cũng là hỏa đại. Khi đã
hiểu Hỏa đại theo tâm chúng sinh mà duyên khởi như huyễn, nhưng
vẫn bản nhiên thanh tịnh thì ông có được định lực hỏa quang tam
muội đốt cháy hết thảy vọng tưởng tham dâm và ánh sáng trí tuệ
chợt hiển bày. Ông nhờ quán hỏa đại mà chứng tánh viên thông,
đắc thành A la hán.
19) VIÊN THÔNG VỀ ĐỊA ĐẠI
Ngài Trì Địa Bồ-tát đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật
rằng :
- Tôi nhớ lại trong những kiếp xa xưa, tôi từng được gặp Phật và
cúng dường chư Phật như hằng sa, và cũng từng phục vụ vô lượng
chúng sinh đem đến chúng sinh nhiều lợi lạc. Trong một kiếp nọ,
ở vào thời Phật Phổ Quang trụ thế, tôi là một tỳ kheo phát tâm
sửa chữa những đoạn đường gồ ghề sụp lở, những bến xe, bến đò
bất tiện cho sự đi lại của nhiều người. Ngoài những công trình
gánh đất, bưng sỏi, đắp bồi sửa chữa như vậy, tôi còn mang gánh
giúp đỡ những người gánh gồng nặng nhọc ở chợ búa mà không lấy
tiền công.
Vào thời Phật Tỳ Xá Phù trụ thế, nhân gian nhiều đói kém, tôi
phải cõng giúp nhiều người không kể gần xa mà chỉ lấy một đồng
tiền. Có lúc tôi ra sức kéo phụ xe trâu qua những nơi khá lầy
lội. Có lúc vì Phật tôi sửa đường bằng phẳng đợi Phật đi hóa
trai.
Một hôm Đức Tỳ Xá Phù Như Lai đi qua đoạn đường tôi vừa sửa
chữa, Phật xoa đầu tôi mà dạy rằng: “Nên bình cái tâm địa thì
đất đai trên thế giới đều bình”. Tôi nghe xong tâm liền sáng
bừng tỏ ngộ. Tôi quán thấy vi trần trong cơ thể cùng tất cả vi
trần tạo thành thế giới bên ngoài không sai khác gì nhau. Tự
tánh vi trần không chạm sát với nhau cho đến đao binh các thứ tự
nó cũng không va chạm gì. Nhờ nhận thức như vậy, tôi tỏ ngộ vô
sanh nhẫn, thành A la hán hồi tâm. Nay ở trong hàng Bồ-tát nghe
Phật dạy: “Tri kiến Phật như diệu liên hoa”, tôi lãnh hội trước
tiên, đại chúng suy tôn là thượng thủ. Nay Phật hỏi nguyên do
đạt đến viên thông, xin thưa: Do tôi quán trần ở nội thân và
trần cấu của thế giới bên ngoài bình đẳng không sai khác. Tất cả
đều từ Như Lai Tạng tùy duyên biến hiện. Vọng tâm chấp mắc trần
tướng tiêu vong thì trí tuệ viên mãn thành đạo Bồ-đề. Đó là đối
tượng sở quán, đối với tôi đem lại thành công nhất.
Bồ-tát là viết tắt của chữ Bồ-đề Tát Đỏa mà Phạn ngữ là
Bodhisatwa có nghĩa là Giác Hữu Tình tức là loài hữu tình đã
giác ngộ và phát nguyện làm cho chúng sinh cũng được giác ngộ
như mình tức là Hữu Tình Giác. Bồ-tát phải trải qua 55 giai đoạn
từ khi phát tâm Bồ-đề thì mới đạt được quả vị đẳng giác là thành
Phật. Đừng nên hiểu lầm là Bồ-tát thì lúc nào trí tuệ hay tâm
thanh tịnh cũng cao hơn các vị A La Hán trong Thanh Văn.
Khi chúng sinh mới phát tâm tu theo Đại thừa, làm việc vì người
quên mình tức là lấy lợi tha làm phương châm hành động thì được
gọi chung là Bồ-tát. Tất cả Phật tử không phân biệt tại gia hay
xuất gia, nam hay nữ muốn phát tâm tu theo Bồ-tát đạo, giữ
Bồ-tát giới tức là 10 giới trọng và 48 giới khinh để phá trừ tập
khí ngã mạn, chấp ngã chấp pháp và nguyện hy sinh mình mà lo cứu
giúp chúng sinh đều là Bồ-tát cả. Càng quên mình, càng hy sinh
vì chúng sinh thì càng tiến sâu trong Bồ-tát đạo. Nếu hy sinh
những vật ngoài thân như tiền của, nhà cửa, xe cộ, cúng dường để
in kinh viết sách, vật dụng… thì tương đối dễ làm nhưng Bồ-tát
còn dám hy sinh những gì về nội thân như hiến tặng tim, gan,
thận, máu huyết… đôi khi ngay cả thân xác của mình mà họ vẫn
hoan hỷ thực hành.
Giai đoạn đầu kể từ khi mới phát tâm Đại thừa là Thập Tín, Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng và Tứ Gia Hạnh thì gọi là Đệ Nhất
A Tăng Kỳ Kiếp tức là Bồ-tát Địa Tiền có nghĩa là chưa bước vào
Thập Địa. Trí tuệ và tâm thanh tịnh của Bồ-tát Địa Tiền không
bằng các vị A La Hán vì họ đã vượt ra khỏi tam giới, chứng đắc
Niết bàn nên tâm rất thanh tịnh.
Giai đoạn thứ hai là Bồ-tát tu từ Sơ Địa đến Thất Địa tức là họ
đã đạt được Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diệm Huệ
Địa, Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa và Viễn hành Địa thì gọi là Đệ
Nhị A Tăng Kỳ Kiếp.
Giai đoạn thứ ba là họ tu từ Bát Địa đến Thập Địa tức là Bất
Động Địa, Thiện Huệ Địa và Pháp Vân Địa thì gọi là Đệ Tam A Tăng
Kỳ Kiếp.
Khi mãn Thập Địa đến địa vị Đẳng giác, qua Đẳng giác đến Diệu
giác tức là thành Phật. Bồ-tát Đẳng giác và Diệu giác đã dứt trừ
Trần sa hoặc và Vô minh hoặc để đến chỗ giác ngộ hoàn toàn là
Phật. Thông thường các vị Bồ-tát đã chứng quả vị cao trong Thập
Địa tức là chứng được Đệ Tam A Tăng Kỳ Kiếp thì họ thường thị
hiện trong thế gian nầy để giáo hóa và cứu độ chúng sinh dưới
nhiều hình tướng khác nhau, nhưng không bao giờ để lộ tông tích
thì chúng ta gọi họ là Siêu phàm Bồ-tát.
Phàm những vị phát tâm hướng cầu Bồ-đề mà tu Bồ-tát hạnh, thường
lấy việc lợi tha làm trọng, lợi kỷ làm khinh, ngay cả xả kỷ để
lợi nhân cũng không tiếc. Tuy phương tiện thực hành Bồ-tát đạo
có sai khác, có vị dùng lời nói dịu dàng thuyết pháp để lợi ích
chúng sinh, có vị đem tiền tài vật dụng ra bố thí để cứu giúp
chúng sinh, có vị sống rất thanh cao thánh thiện để người khác
bắt chước mà noi theo, ngược lại cũng có vị làm những chuyện
trái đạo, phi luân lý, làm gương xấu để thức tỉnh chúng sinh…
nhưng ở đây Ngài Trì Địa Bồ-tát thường đem thân khỏe mạnh mà
giúp ích nhiếp hóa chúng sinh. Từ thời Phật Phổ Quang xuất thế
và mãi về sau vô lượng kiếp Ngài vẫn thường qua các nẻo đường,
bến đò và những nơi hiểm trở lầy lội mà ra công tự gánh đất cát
sửa sang bằng phẳng, xây dựng cầu cống hay gánh vác dùm việc
nặng nhọc ở chợ búa cho chúng sinh.
Đến khi gặp Đức Phật Tỳ Xá
Phù ra đời dạy cho một câu rằng: “Hãy bình tâm địa thì tự tâm
được khai” nghĩa là một khi tâm của mình được bằng phẳng tức là
an bình, thanh tịnh thì tất cả đất đai trên thế giới sẽ được
bằng phẳng, thanh tịnh cho nên thấy vi trần nơi thân mình chẳng
khác gì vi trần bên ngoài thế giới. Trong kinh Duy Ma Cật có dạy
rằng: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh và Dục tịnh Phật độ
tiên tịnh kỳ tâm” nghĩa là nếu tâm mình thật thanh tịnh, không
còn phiền não vô minh quấy phá thì thế giới này chính là cõi
Phật thanh tịnh rồi; mà muốn có cõi Phật thanh tịnh thì phải
huân tập cho tâm mình thật thanh tịnh trước đã.
Tất cả đất đai vi trần từ
trong thân đến ngoài thế giới đều giả dối, không có tự tánh, chỉ
do tâm biến hiện. Nhưng con người vì mê, bất giác nên không nhận
biết cảnh giới là do tâm biến hiện vốn không có trong ngoài,
năng sở cao thấp. Vì thế nếu gạt bỏ hết các vọng tưởng điên đảo
mà bình được tâm địa nơi mình thì đất đai ở thế giới bên ngoài
tự nhiên đều bằng phẳng cho nên các vi trần hợp thành nơi thân,
vi trần hợp thành ở thế giới bên ngoài đồng một tâm, đồng một
tánh, bình đẳng như như, không ngăn ngại nhau tức là một là tất
cả và tất cả là một. Đất bên trong và đất ở ngoài không sai khác
vì chúng đều là hiện tượng duyên sanh của vạn pháp.
Tri kiến Phật như diệu liên
hoa nghĩa là tri kiến Phật như hoa sen tức là trong nhân đã có
quả và trong quả đã ngầm chứa cái chân rồi. Nói cách khác hoa
sen là nhân quả đồng thời nghĩa là chúng sinh tuy mang sắc thân
tứ đại, ngũ uẩn phàm phu, nhưng thật chất đã có Phật tánh rồi.
Nếu không có Phật tánh sẵn có thì cho dù chúng sinh có tu ngàn
kiếp cũng không bao giờ thành Phật được cũng ví như vàng trộn
lẫn với sỏi đá trong mỏ. Nếu trong mỏ kia không có vàng thì cho
dù có rửa sạch tất cả đất sỏi trong mỏ cũng không bao giờ tìm
thấy vàng ròng được. Chúng sinh phàm phu thì cũng như hoa sen
búp còn lẫn lộn trong bùn, đến khi tu thành A la hán thì hoa sen
kia vượt thoát khỏi mặt nước và bắt đầu nở nhụy. Sau cùng thành
Phật thì hoa sen nở hoàn toàn, hương hoa thơm ngát. Tâm địa là
tâm duyên ra đất và đất duyên ra tâm, tâm tức là đất và đất tức
là tâm nên Ngài Trì Địa liền chứng ngộ, xóa bỏ những sự sai khác
giữa thân tâm và cảnh giới, chứng được tánh viên thông, tự tại
Niết bàn.
20) VIÊN THÔNG VỀ THỦY ĐẠI
Ngài Nguyệt Quang đồng tử đứng dậy cung kính chấp tay bạch
Phật rằng :
- Tôi nhớ hằng hà sa kiếp trước có Đức Phật ra đời hiệu là Thủy
Thiên. Thủy Thiên Như Lai dạy các Bồ-tát nên quán về nước để
nhập Tam-ma-đề. Phật dạy quán tánh nước không gì lấn cướp là cho
mất hẳn được. Từ nước mắt, nước mũi, nước miếng, nước tiểu, nước
tân dịch trong châu thân… đều quán một tánh nước đồng nhau. Tánh
nước trong tự thân cùng tánh nước các bể hương thủy phù trần
vương sát của thế giới bên ngoài đồng nhau không sai khác. Lúc
tôi thành tựu pháp thủy quán này, tôi chỉ thấy được tánh đồng
của nước mà chưa thấy được “thân không”. Hồi bấy giờ, tôi là một
tỳ kheo tọa thiền trong một tịnh thất, có người đệ tử trông cửa
sổ nhìn vào, thấy toàn là nước. Vì nhỏ dại, nó liền lấy một
miếng ngói ném vào, rồi tự bỏ đi. Khi xuất định tôi thấy tim đau
một cách lạ thường. Truy nguyên ra duyên cớ, tôi bảo người đệ tử
: Khi tôi nhập định, trông thấy nước trong thất thì hãy vào mà
nhặt miếng ngói mà người đã ném ấy ra. Quả thật, khi xuất định,
tôi không còn đau đớn nữa.
Qua vô lượng kiếp sau tôi gặp vô lượng Phật, nhưng chưa chứng
ngộ. Mãi đến thời Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai thì tôi
mới chứng được “không thân”. Bây giờ tôi thấy rõ nước trong tự
thân cùng với nước bể Hương Thủy trong mười phương thế giới đồng
một tánh chân không, không sai khác. Ở nước Phật Sơn Hải Huệ Tự
Tại, tôi được hiệu là Đồng Chân, dự vào hàng Bồ-tát. Nay Phật
hỏi nguyên nhân được viên thông, xin thưa: Do tôi quán tánh
“nước” dung thông mà được vô sanh nhẫn. Đối với tôi, pháp Thủy
quán là ưu việt nhất.
Thủy đại nói ở đây là những gì ở trong thể lỏng chớ không nhất
thiết chỉ là nước thông thường. Nói chung trong tất cả thất đại
thì đại nào cũng bao gồm thể, tướng và dụng. Lấy thủy đại làm
thí dụ thì tánh thủy chân không, tánh không chân thủy nghĩa là
tánh của nước là thanh tịnh bản nhiên, khi cần thì sinh khởi còn
không cần thì nó không sinh khởi, nó nằm trong khắp không gian
vũ trụ mà không làm ngập lụt, bảo tố hay gây tang thương, chết
chóc, tai họa cho ai cả.
Nhưng khi chúng sinh cần
nước và đủ nhân duyên thì từ tánh không nước sẽ xuất hiện để
thỏa mãn sự đòi hỏi của con người. Do đó tánh thanh tịnh bản
nhiên của nước là thể thì cùng khắp pháp giới; còn nước biển,
nước sông ao hồ làm ngập lụt là tướng của nước và dụng của nước
là nước nuôi dưỡng cây cối, nuôi sống con người hay các loài
động vật thực vật khác. Con người không thể tồn tại nếu không có
nước cho nên hiện nay các khoa học gia mỗi khi muốn tìm hiểu về
sự sống của những hành tinh gần trái đất thì việc trước hết là
phân tích để xác định là ở đó có những nguyên tố nước hay không
cho dù nước ở dưới dạng đặc, lỏng hay thể hơi.
Ngài Nguyệt Quang đồng tử trong những kiếp xa xôi về trước được
gặp Thủy Tiên Như Lai dạy Ngài phép quán về nước (thủy đại).
Quán từ trong thân, Ngài thấy đâu đâu cũng là nước lưu hành và
tánh nước trong thân và tánh nước ở ngoài biển cả đều bình đẳng,
chẳng khác gì nhau. Tướng nước thì có rất nhiều như nước miếng,
nước mũi, nước mắt, nước biển, nước ngọt ao hồ… nhưng thể nước
tức là tánh nước là bản thể thanh tịnh thì giống nhau, cùng
chung một bản thể.
Vì thế khi không còn nhìn
nước bằng hình tướng bên ngoài mà nhìn thẳng vào tự tánh thanh
tịnh bản nhiên của nó thì tất cả nước đều cùng chung một thể
tánh nên chúng bình đẳng, giống nhau. Một thí dụ khác là khi
nhìn con người từ bề ngoài thì thấy có người cao, người thấp,
người giàu, người nghèo, người tốt, người xấu, người mập, người
ốm… Đây là cái nhìn nhục nhãn, nhìn cái tướng sinh diệt của phàm
nhân nên có sự phân biệt đối đãi. Ngược lại nếu bây giờ dùng tuệ
nhãn mà nhìn thẳng vào tự tâm tức là nhìn cái bản thể của những
người đó thì chỉ thấy ai ai cũng đều có Phật tánh như nhau,
không sai khác.
Ngài Nguyệt Quang đồng tử nhìn nước thế gian mà không thấy sai
khác tức là Ngài đã phá được “pháp chấp” nhưng vẫn còn chưa thấy
“thân không” nghĩa là thấy thân mình là thật tức là chưa phá nổi
“ngã chấp”. Ngài tinh tấn tu hành trong vô lượng kiếp nữa đến
khi Đức Phật Sơn Hải Huệ Tự Tại xuất thế thì Ngài mới chứng được
“ngã không” tức là phá được bản ngã. Bây giờ thì mình cũng không
mà người cũng không nên Ngài rất tự tại, chứng được tánh viên
thông, đắc thành thánh quả.
Thế nào là ngộ vô sanh?
Vô sanh nhẫn tức là vô sanh pháp nhẫn. Khi tư duy quán chiếu để
nhìn vạn pháp vô sanh thì cũng có nghĩa là nhìn vạn pháp vô
diệt. Thí dụ khi nhìn một nụ hoa thì làm sao biết được tánh vô
sanh của nó? Khi nhìn đóa hoa mới nở thì chắc chắn là nụ hoa
sanh và vài tuần sau, hoa tàn thì nói rằng nụ hoa diệt. Nhưng
đây chỉ là cái nhìn thiển cận của phàm nhân, còn cái nhìn của
Bồ-tát tu hành chứng đắc, ngộ được vô sanh thì ngay trong lúc nụ
hoa mới nở, cái sinh đã có diệt trong đó rồi. Ngược lại trong
lúc nó tàn úa thì các vị Bồ-tát lại nhìn cái diệt là bắt nguồn
cho cái sinh khác.
Đó là hiện tượng quy về bản
thể và bản thể duyên khởi thành ra hiện tượng thành ra có cái gì
là thật sinh hay cái gì là thật diệt đâu. Nói cách khác sinh để
rồi diệt, diệt rồi lại sinh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận
nên sinh diệt, sống chết là chuyện thường, chả có gì quan trọng
nên không còn lo sợ, đau khổ. Vì vậy chúng sinh khi thấy mình
già yếu, bệnh tật thì đau khổ buồn phiền. Ngược lại, đối với
Bồ-tát thì sống chết là chuyện bình thường nằm trong chu kỳ bất
biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến thế thôi. Vì vậy với tuệ
nhãn của Bồ-tát hay Phật nhãn của chư Phật thì nhìn vạn pháp
sanh mà không thật sanh và diệt nhưng không phải là mất hẳn
nghĩa là sinh để rồi diệt và diệt rồi để lại sanh, sinh sinh
diệt diệt vô cùng vô tận. Đây là chứng ngộ chân lý vô sanh pháp
nhẫn vậy.
Đối với người tu Phật, chết thì không có gì đáng sợ mà sợ chết
mới là điều đáng sợ. Nếu con người biết tu tập, cởi mở cho tâm
thức được nhẹ nhàng thì cuộc sống hiện tiền chẳng những được nhẹ
nhàng, êm ái và đến khi gần chết cũng được nhẹ nhàng ra đi.
Ngược lại chúng sinh còn nhiều ràng buộc, khó buông xuống thì
cuộc sống ngay bây giờ đã thấy khổ, đó là chưa kể đến lúc gần
chết những nghiệp bất thiện quay về làm cho thân, tâm khó bề yên
ổn. Vậy nếu con người biết hóa giải thân, khẩu, ý nghiệp nhưng
đặc biệt là ý nghiệp của mình cho được nhẹ nhàng thanh thoát thì
cuộc sống sẽ có “sinh thuận tử an” nghĩa là sống thì bình yên
còn chết thì nhẹ nhàng an ổn, không ốm đau dai dẳng, khổ mình và
khổ cả cho con cháu.
Ngày xưa khi thành Phật dưới cội Bồ-đề thì Ngài trở thành người
khất sĩ nên Ngài mới có Vô thượng Niết bàn bởi vì đối với thế
gian vũ trụ thì Ngài không có gì hết, nhưng có tất cả. Không có
gì hết vì Ngài chả có cái gì, mình trần thân trụi, gia tài vỏn
vẹn chỉ có tam y nhất bát và hằng ngày phải xin cơm từ tín
chúng. Nhưng có tất cả vì trong thế gian này cái gì cũng là của
Ngài vì Ngài không chấp là “cái của ta”. Một thí dụ khác là khi
nhìn bàn tay của Đức Phật hay chư Bồ-tát thì lúc nào cũng thấy
họ buông xuống, không nắm lại. Bàn tay buông xuống là biểu tượng
của không có gì hết, nhưng có tất cả bởi vì thế gian vũ trụ đối
với các Ngài là không cho nên tay không nắm thì mới nắm được tất
cả.
Ngược lại chúng sinh phàm
nhân thì tay lúc nào cũng nắm, nào là nắm cái nhà của mình, nắm
cái xe của mình, nắm vợ chồng con cái của mình… Tay không nắm
thì mới nắm được tất cả, còn một khi tay đã nắm những thứ đó rồi
thì làm sao có thể nắm toàn thể thế giới vũ trụ được nghĩa là
nắm cái có thì phải bỏ mất cái “toàn không”. Nói cách khác khi
tay đã nắm có nghĩa là những thứ như vợ chồng, nhà cửa, xe cộ,
con cháu, tiền bạc, công ty, đất ruộng… trở thành “cái của tôi”.
Mà đã là cái của tôi thì tôi phải lo, phải giữ, phải sống chết
để gìn giữ nó. Nếu đây không phải là khổ thì là gì!
21) VIÊN THÔNG VỀ PHONG ĐẠI
Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử đứng dậy cung kính chấp tay
bạch Phật :
- Tôi nhớ lại hằng sa kiếp trước có Phật ra đời hiệu là Vô Lượng
Thanh. Phật khai thị cho các Bồ-tát về: “Bản giác diệu minh”.
Dạy các Bồ-tát quán “Thế giới và chúng
sinh đều do sự vận động của sức gió vọng duyên chuyển biến mà
hình thành”. Riêng tôi, lúc bấy giờ, tôi quán không gian an lập,
quán thời gian trôi đi mãi, quán thân, khi động khi dừng, quán
tâm, niệm trước diệt niệm sau sanh… Tất cả những chuyển động
biến diệt, tôi thấy không hai không khác. Tôi nhận thức rõ rằng
tánh của các thứ động: Đến không chỗ từ, đi không chỗ tới. Tất
cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới có trong pháp
giới mười phương so sức gió “vọng duyên” mà hình thành, mà sinh
hoạt với nhau trong tánh “bản giác diệu minh, chơn tâm minh
diệu”. Giống như hàng vạn muỗi mòng trong một cái đồ đựng, kêu
vo vo rầm rĩ, ào ào rối rít với nhau.
Tôi quán sát tư duy như vậy, không bao lâu, tôi được vô sanh
pháp nhẫn làm vị Pháp vương tử. Nay Phật hỏi viên thông, xin
thưa: Do tôi quán tánh “phong đại” đi không chỗ từ, đến không
chỗ tới” mà tỏ ngộ tâm Bồ-đề. Đối với tôi thì quán phong đại là
đệ nhất.
Trong phần thất đại này, tất cả các vị Bồ-tát đều phải trải qua
hằng sa kiếp tu hành mới đến chỗ giác ngộ, thành Bồ-tát. Do đó
tiến trình tu học, giải ngộ đòi hỏi nhiều đời nhiều kiếp cho nên
người tu Phật không cần quan tâm, lo lắng để được hoát nhiên đại
ngộ. Khi nhân duyên chín mùi, việc đến sẽ đến, thân tâm rỗng
rang, tâm trí hoàn toàn sáng suốt thì Bồ-đề Niết bàn hiển lộ.
Bản giác diệu minh là cái giác tánh sẵn có lúc nào cũng sáng
suốt nhiệm màu của mình thường không lay động cho nên nói tu
chứng đắc tức là trở về với cái bản giác trong sáng vốn đã có
sẵn nghĩa là hồi đầu thị ngạn thế thôi chớ chẳng có chứng đắc
gì. Nói cách khác quả vị chứng đắc là khoảng cách xa gần để về
lại nhà củ vườn xưa. Thí dụ A la hán là đã đi được nữa đường,
đến khi đạt đến Bồ-tát quả thì có thể từ nữa đường tới hai phần
ba đường, rồi sắp tới nhà và sau cùng thành Phật là tới nhà.
Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử quán con người và thế giới là
đều do gió vọng duyên chuyển biến hình thành nghĩa là gió này là
không thật chỉ xuất hiện tạo sự biến hoại cho thế gian rồi biến
mất. Khi động thì gió này tạo thành những cơn gió lốc, những
ngọn sóng thần gây tai họa đau thương cho con người. Cũng chính
gió vọng duyên thúc đẩy hội tụ vọng nghiệp kết tứ đại với nhau
hình thành ra con người. Ngài quán con người và thế giới đều do
phong lực giả dối chuyển biến mà phát hiện. Không gian có thành,
trụ, hoại, không; thời gian có quá khứ, hiện tại, vị lai, sự lưu
động nơi thân, sự động niệm nơi tâm, tuy hình thức có sai khác,
nhưng tất cả đều không có tự tánh, đều do sức gió hư vọng phát
sinh cho nên không thật có đến có đi, có sinh có diệt.
Ngài quán như vậy nên thấu
biết rõ ràng tất cả các lay động đều do vọng tưởng biến hiện,
đều như huyễn hóa, không có tự tánh. Đứng về bản thể chân như mà
nói, cái “bản giác diệu minh, chơn tâm minh diệu” thì trùm khắp
mười phương thế giới, nhưng khi nó duyên khởi ra gió vọng duyên
để hình thành ra thân ngũ uẩn tứ đại thì gió vọng duyên chính là
hiện tượng sinh hoạt trong cái tánh giác diệu minh của mình. Nhờ
vậy Ngài chứng lý “động”
vốn “bất động” cho
nên được làm pháp vương tử ở cõi nước Phật Bất Động bên phương
Đông. Thân không động thì tâm cũng không còn sinh diệt cho nên
Ngài phát quang, rỗng rang vô ngại.
22) VIÊN THÔNG VỀ KHÔNG ĐẠI
Ngài Hư Không Tạng Bồ-tát đứng dậy cung kính chắp tay bạch
Phật :
- Tôi nhớ lại tôi cùng Như Lai đồng chứng được “vô biên thân”
hồi thời Phật Định Quang. Lúc đó tay tôi cầm bốn đại bảo châu
chiếu sáng cõi Phật mười phương như số vi trần đều hóa thành hư
không. Bấy giờ tâm tôi sáng suốt thành trí Đại Viên Cảnh. Tôi
quán sát khắp phù trần hương sát cùng tột hư không, nhập vào
thân tôi. Thân tôi và hư không không ngăn ngại gì nhau. Do vậy,
tôi khéo vận dụng hài hòa vào cõi nước như vi trần làm Phật sự
được thuận lợi lớn lao. Sức thần to lớn đó tôi quán sát tứ đại
không có chỗ sở y. Do vọng tưởng mà thấy có diệt có sinh. Hư
không không hai, cõi Phật vốn đồng. Do tôi phát minh được tánh
đồng mà chứng được vô sanh pháp nhẫn. Nay Phật hỏi nhân duyên
nào được viên thông, xin thưa: Do tôi quán chiếu “hư không vô
biên” mà thể nhập Tam-ma-đề là phương tiện ưu việt nhất.
Ngài Hư Không Tạng Bồ-tát cùng Đức Phật Thích Ca đều chứng được
pháp thân vô biên. Khi ấy Ngài cầm bốn hạt châu lớn là không, vô
sinh, vô nhị, vô tự tánh soi chiếu khắp mười phương chư Phật và
tất cả đều hóa thành hư không nghĩa là nhờ quán tứ đại viên minh
thể hợp với chơn không nên được gọi là chứng được “vô biên
thân”. Khi chứng đạo thì thức thứ tám là A lại da thức sẽ biến
thành Đại viên cảnh trí nghĩa là nơi tự tâm hiện ra một cái
gương tròn sáng lớn chiếu khắp mười phương tận hư không pháp
giới.
Vì thế tâm này đồng nhất
với chơn tâm. Cái gương mà con người thường thấy thì có khi hình
vuông có khi hình tròn, nhưng chỉ chiếu sáng một bên. Còn cái
gương tròn, lớn này thì hình tròn như trái banh nên phía nào
hình ảnh cũng có thể chiếu vào được. Phật dạy: “Tánh sắc chơn
không” nghĩa là Hư không là thể của sắc. Trong đoạn kinh này,
ngọc châu là tiêu biểu cho sắc pháp và gương sáng là biểu tượng
cho tâm pháp. Chính Đại viên cảnh trí bình đẳng hiển hiện nên
các cõi Phật được thâu vào trong gương, rồi nhập vào thân nên
bây giờ thân đồng với hư không mà không có gì ngăn ngại. Vì vọng
chấp mê lầm nên con người thấy có cõi này tốt hơn cõi kia, nhưng
nhìn bằng tuệ nhãn của Bồ-tát và Phật nhãn của chư Phật thì cõi
Phật không có “Hai” tức là Pháp giới bất nhị hay Pháp giới nhất
chân.
Vì thế trong kinh Duy Ma
Cật dạy rằng: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là hễ ở
đâu mà có tâm thanh tịnh thì nơi ấy chính là cõi Phật thanh tịnh
rồi. Con người vì còn tâm mong cầu nên muốn sang cõi này, thích
sống cõi kia mà không chịu lo tu sửa để có tâm thanh tịnh thì sự
mong cầu kia chỉ là ảo huyền, giả tưởng. Vì thế nếu chúng sinh
có tâm được hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt rỗng rang thì tâm ấy
chính là Phật Di Đà và cảnh giới đang sống là cõi tịnh độ rồi
chớ còn tìm Phật đâu nữa trong càn khôn vũ trụ này. Vì không còn
ngăn ngại, Ngài Hư Không Tạng Bồ-tát hiện được vô lượng huyển
thân, vào vô lượng huyển thế giới và tùy thuận vô lượng huyễn
chúng sinh mà làm vô lượng huyễn Phật sự. Ngài áp dụng triệt để
“Như huyễn Tam-ma-đề” nên Bồ-tát rất tự tại, không còn dính mắc
và chứng được tánh viên thông, đắc thành thánh quả.
23) VIÊN THÔNG VỀ THỨC ĐẠI
Ngài Di Lặc Bồ-tát đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật :
- Tôi nhớ lại vi trần kiếp trước có Đức Phật hiệu Nhật Nguyệt
Đăng Minh. Tôi được theo Phật xuất gia, nhưng tâm còn trọng hư
danh thế gian, ưa giao du với các hàng vọng tộc. Phật Nhật
Nguyệt Đăng Minh dạy tôi tu tập định: “Duy tâm thức” và tôi được
nhập Tam-ma-đề. Trải hằng sa số kiếp đến nay, tôi sử dụng tam
muội ấy, phụng sự hằng sa chư Phật, tâm cầu danh được diệt hết.
Đến thời Phật Nhiên Đăng ra đời tôi mới chứng được tam muội
“thức tâm diệu viên” vô thượng. Bấy giờ tôi quán thấy cõi nước
của chư Như Lai, tột bờ mé hư không, tịnh, uế, có, không đều do
thức tâm biến hiện.
-Bạch Thế Tôn! Do tôi ngộ “Duy tâm thức” thức tánh của tôi xuất
hiện vô lượng Như Lai và hiện nay được Phật thọ ký, tôi sẽ được
bổ xứ thành Phật ở cõi Ta bà sau này. Nay Phật hỏi nguyên nhân
viên thông, xin thưa: Tôi quán mười phương đều Duy thức. Thức
tâm tròn sáng thì xa lìa tánh biến kế, nhận thức đúng thực thể
của tánh y tha khởi thì chứng nhập tánh viên thành thật, được vô
sanh nhẫn. Đối với tôi đó là pháp quán ưu việt nhất.
Đại là phổ biến cùng khắp cho nên thất đại phổ biến cùng khắp cả
không gian và thời gian, nơi nào và lúc nào cũng có. Thức đại là
phần nhận thức tác động vào con người để có sự hiểu biết và sau
cùng phát sinh ra trí tuệ. Thức đại thì bao la trùm khắp trong
thế gian vũ trụ cũng như hư không chớ không nhất thiết chỉ có
trong con người. Nói cách khác khi nào một hữu tình chúng sinh
có đầy đủ ngũ quan, tứ chi, lục căn thì thức đại tác động vào
hữu tình chúng sinh đó để có đầy đủ tri giác của một con người.
Vì vậy nếu trên thế gian có bao nhiêu con người, thì thức đại
tác động vào chừng ấy chúng sinh, không thêm không bớt rất mầu
nhiệm để họ có đầy đủ tri giác, trí tuệ của con người.
Bồ-tát Di Lặc tên là A Dật Đa (Ajita) và họ là Từ Thị. Trong vô
lượng kiếp quá khứ, có Đức Phật hiệu là Đại Thông Trí Như Lai ra
đời thì cả Đức Thích Ca (tiền kiếp) và Bồ-tát Di Lặc (tiền kiếp)
cùng phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhưng mãi đến
khi Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra đời thì Ngài Di Lặc mới
phát tâm xuất gia. Tuy xuất gia nhưng ngài Di Lặc không chú tâm
tu hành mà muốn kết thân, cầu danh với những hàng danh gia vọng
tộc, quan quyền, giàu có nên Ngài sẽ thành Phật sau Đức Phật
Thích Ca gần mười tiểu kiếp.
Đây là bài học điển hình
cho các tu sĩ còn ham chuộng danh lợi, chạy theo uy quyền, tham
gia chính trị, phế bỏ cả đời tu của mình. Người tu sĩ mà thích
kết thân, giao du và dựa hơi với hạng quan quyền, người giàu có
mà cho đó là phước đức, danh vọng, địa vị của mình là hỏng bét,
là thiếu đức hạnh. Đối với người tu sĩ chân chính là phải tách
mình ra khỏi xã hội, không chạy theo danh văn lợi dưỡng, không
nhiễm ô tham đắm thế tình mà phải luôn bồi dưỡng trí tuệ thì mới
là sống đúng theo chánh pháp để có thể diệt được cái bản ngã tối
tăm. Phải biết rằng :
Niệm mà không chấp có niệm, đó là chánh niệm.
Hành mà không chấp có hành, đó là chánh tinh tấn.
Độ mà không chấp có độ, đó là chánh tư duy.
Tu mà không chấp có tu, đó là chánh kiến.
Còn người tu sĩ mà có uy quyền ghê gớm, danh vọng ghê gớm, đạo
đức ghê gớm, tiền của ghê gớm thì người này là đệ tử của đạo “sự
nghiệp uy quyền” chớ đâu phải đệ tử của Phật Thích Ca là đạo
giải thoát giác ngộ. Nhưng nếu muốn có sự nghiệp uy quyền thì cứ
hoàn tục trở về với gia đình mà tha hồ thỏa chí bình sinh, sống
đời vinh thân phì da chớ đừng núp dưới cội Bồ-đề mà làm ô uế cửa
thiền.
Chính Đức Phật đã từng khuyên Đề Bà Đạt Đa nên hoàn tục vì tuy
là người xuất gia, nhưng “tâm không vào đạo” nên ông luôn nuôi
dưỡng những tư tưởng bất thiện, cố tranh giành thế lực, chia rẽ
Tăng đoàn để mưu lợi riêng cho mình. Đối với Tăng đoàn, Đề Bà
Đạt Đa muốn chiếm ngôi vị của Phật, còn đối với thế sự ông xuối
vua A Xà Thế giết cha, hại mẹ, làm chuyện vô luân. Màn vô minh
hắc ám che lấp tâm tánh thuần lương khiến ông làm việc phản sư,
phạm giáo mà phải bị đọa vào địa ngục A tỳ. Ngày xưa Đức Phật và
biết bao đệ tử của Ngài từ bỏ giàu sang phú quý, quyền cao chức
trọng để xuất gia cầu đạo và sống đời thanh bần an lạc mà hoằng
pháp lợi sanh. Ngày nay người đệ tử Phật thì ngược lại muốn xuất
gia để có được quyền uy, danh vọng, ăn trên ngồi trước, giàu
sang phú quý. Như thế đủ biết tinh thần: “Xã phú cầu bần xã thân
cầu đạo” chỉ còn là kỷ niệm, là cái bóng của quá khứ.
Về sau nhờ Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dạy cho pháp tu Duy
Tâm Thức nên Ngài mới chứng được “Tam giới duy tâm, Vạn pháp duy
thức”, nhưng mãi đến thời Phật Nhiên Đăng xuất thế thì Ngài mới
chứng được tam muội “thức tâm diệu viên” và được Phật Thích Ca
thọ ký đời sau sẽ thành Phật ở hội Long Hoa tại thế giới Ta bà
nầy. Hiện nay Bồ-tát Di Lặc đang tu ở cung trời Đầu Xuất, chuyên
giảng môn Duy Thức Học.
Tuy tất cả các pháp có rất nhiều, nhưng tóm lại có 100 pháp và
được chia làm 5 loại :
1) Tâm pháp hay còn gọi là Tâm Vương gồm có 8 món: Nhãn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na-thức và
A lại da thức. Tiếng gọi thông thường là bát thức tâm vương.
2) Tâm sở hữu pháp gồm có 51 món và được chia làm 6 loại: Biến
hành (5 món), biệt cảnh (5 món), thiện (11 món), căn bản phiền
não (11 món), tùy phiền não (20 món), bất định (4 món). Trong 51
món thì chỉ có 11 món là thiện.
3) Sắc pháp có 11 món gồm có năm căn và sáu trần.
4) Tâm bất tương ưng hành pháp có 24 món.
5) Vô vi pháp có 6 món.
Duy tâm là A lại da thức hay Tàng thức tức là đệ bát thức tâm
vương. Còn thức là sự phân biệt. Do đó tâm là bản thể và thức là
diệu dụng. Dựa theo duy thức thì tất cả sự vật trên thế gian như
trời trăng, mây nước, chim bay, cá lặn, cỏ cây, hoa lá thì gọi
là sở tàng nghĩa là những vật mà do thức tâm con người biến
hiện. Và năng tàng là khả năng chứa đựng những sở tàng bên ngoài
ở trong tâm của con người. Vì thế con người có khái niệm tới đâu
nghĩa là sở tàng biến đổi thế nào thì năng tàng cũng bao trùm
tới đó. Nói cách khác cảnh thay đổi thế nào thì tâm cũng biến
hiện tùy thuộc theo. Bồ-tát Di Lặc tu tập theo pháp Duy Tâm Thức
nên quan sát tất cả cảnh giới là giả, tưởng là giả, chỉ do thức
tâm biến hiện mới thành có tánh cách phân biệt sai khác.
Bây giờ nếu tu được định
duy thức thì ngoài tâm không có cảnh, ngoài cảnh không có tâm
cho đến khi chứng được “Vô thượng diệu viên thức tâm tam muội”
thì nhận thấy tất cả nhân sinh vũ trụ cho dù là loài vô tình,
hữu tình, là tâm, là cảnh, là phàm, là thánh đều do “tánh duy
thức” biến hiện nên không có sai khác. Nói cách khác khi Ngài Di
Lặc chứng được “chơn duy thực tánh” thì không còn thấy thật có
tướng duy thức vì tất cả mười phương Như Lai, quốc độ, sắc không
đều không có món nào ra ngoài “thức tánh” ấy mà tự có. Tại sao?
Bởi vì thức tánh chính là Như Lai Tạng bản thể mà duyên khởi
phát sinh ra nhân sinh vũ trụ tức là bất biến tùy duyên. Các
pháp đã là thức tánh thì tất cả đều là tự tánh viên mãn, thành
tựu chân thật, không còn có thật ngã và ngã sở, xa lìa biến kế
sai lầm, chứng pháp vô sanh nhẫn.
Bồ-tát Di Lặc chuyên tu theo Duy thức nên còn tâm phân biệt có
pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng và có đạo quả Bồ-đề để
thành. Vì thức là cái biết do sự phân biệt nên cần phải chuyển
thức thành trí thì mới có đầy đủ trí tuệ sáng suốt.
Dựa theo Duy Thức Luận thì khi chúng sinh có được giải thoát
giác ngộ thì họ chuyển tám thức thành bốn trí. Đó là :
1) Ý thức hay thức thứ sáu có tác dụng phân biệt sẽ biến thành
“Diệu Quan Sát Trí” tức là trí có năng lực quan sát thâm diệu có
thể thấy được hằng sa thế giới và thấy được tất cả tâm niệm sở
cầu trong mỗi chúng sinh. Nhờ sự quan sát huyền diệu rốt ráo như
thế mà tùy theo nguyện vọng, tâm lý, sở cầu mà Bồ-tát làm lợi
lạc cho chúng sinh.
2) Còn nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức sẽ
biến thành “Thành Sở Tác Trí” tức là cái trí nầy có những công
năng vô cùng rộng lớn như thị hiện thần thông, biến hóa, hiện ra
ba món hóa thân để tùy theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ.
3) Mạt na thức tức là thức chấp ngã sẽ biến thành “Bình đẳng
tánh trí” là trí có năng lực nhận thức tính bình đẳng và vô ngã
của vạn pháp.
4) A lại da thức là thức thứ tám sẽ biến thành “Đại viên cảnh
trí” tức là trí sáng như tấm gương lớn và tròn đầy cũng như biển
cả chơn như.
Khi Bồ-tát Di Lặc tin vào lời nói Thọ ký, tin vào văn tự “Một
đời sẽ thành Phật” và tin vào chứng quả Bồ-đề thì Ngài tượng
trưng cho Sai Biệt Trí, nhưng dựa vào Bản Thể, Pháp Tánh thì
không còn có sự phân biệt mà phải lìa tất cả văn tự, ngôn ngữ để
thấy tất cả không Hai tức là Bất Nhị. Đây chính là Căn Bản Trí
tức là giác tính minh diệu mà mỗi chúng sinh vốn đã có sẳn nhưng
bị vô minh phiền não che lấp nên chưa được phát chiếu cũng như
chất vàng còn nằm trong quặng lẫn lộn với đất, cát, sỏi, đá.
Khi đã thấu hiểu rằng Đức Phật không những chỉ thọ ký cho Bồ-tát
Di Lặc mà Ngài còn thọ ký cho tất cả chúng sinh vì ai ai cũng
sẳn có cái Phật Tánh thanh tịnh bản nhiên. Và một đời sẽ thành
Phật là nói theo giáo lý phương tiện chớ thật ra không có cái
móc thời gian nào có thể đo được khi nào là một đời cả vì ngay
trong đời hiện tại thì chúng ta cũng đã có quá khứ và vị lại
hiện diện rồi. Nói cách khác, về phương diện thời gian không có
bất cứ một thời điểm đặc biệt nào làm thời điểm zero để sau đó
phân chia cái âm thì thuộc quá khứ hay cái dương thì thuộc về
hiện tại như trong toán học. Sau cùng cũng không có cái gì là
Bồ-đề hay chứng đắc cả vì nếu con người biết lìa xa vọng thức mê
lầm quay về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình thì
Bồ-đề hiển hiện.
Như thế thì không riêng gì Bồ-tát Di Lặc được Phật thọ ký mà
chính Đức Phật cũng đã thọ ký cho tất cả chúng sinh từ lâu rồi.
Thế là :
Chẳng cần chờ đến “Long Hoa hội”
Tự tánh đã từng “thọ ký” xong.
Trí tuệ của mọi người là thật tánh để có khả năng trực nhận chân
lý mà Tự tánh thanh tịnh hay Phật Tánh là có sẳn trong tất cả
mọi người. Tự tánh luôn vắng lặng thanh tịnh thì cần gì phải
chứng đắc Niết bàn. Bồ-đề, Phật Tánh là có sẵn chớ đâu phải tu
hành đắc đạo mới có. Khi mê vọng điên đảo thì không biết mình có
Phật Tánh thanh tịnh. Lúc thức tỉnh thì nó hiện ra cũng như
trong túi luôn có viên ngọc quý Ma ni mà không biết, chỉ cần thò
tay vô lấy thì cuộc đời sẽ hết nghèo đói, điên đảo khổ đau ngay.
Trong tánh Không tức là Tự
Tánh thanh tịnh bản nhiên thì không có trí tuệ hay chứng đắc gì
cả. Vì thế Tâm Kinh mới có câu: “Vô trí diệc vô đắc” và “Dĩ vô
sở đắc cố” là vậy. Trong Chân Không Diệu Tánh, Phật Tánh thì
luôn sẵn có cho nên chứng đắc chỉ là cách nói, là giả danh để
tìm thấy được con người thật tức là Bản Lai Diện Mục của mình mà
thôi. Vì thế mà Kinh Hoa Nghiêm, Phật đã dạy rằng: “Tất cả chúng
sinh sẽ thành Phật vì trong tất cả chúng sinh đều có đủ phước
đức trí tuệ Phật”. Và Đức Phật đã dạy trong Kinh Pháp Hoa trước
khi Ngài nhập Niết bàn là “Tất cả chúng
sinh đã thành Phật”.
Trong Kinh Kim Cang, Đức
Phật Thích Ca dạy rằng “Như Lai không chứng đắc quả Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác gì cả”. Sở dĩ Ngài không chứng mà thế gian
đều tôn trọng Ngài là vì Như Lai không có tướng ngã, không có
tướng nhơn, không có tướng chúng sinh và cũng không có tướng thọ
giả. Như Lai nhìn vạn pháp đều bình đẳng không thương, không
ghét, không giận không hờn, không thiên không vị. Và Như Lai
luôn sống trong thiện pháp chớ không lọt vào trong quỷ đạo của
ác pháp cho nên người đời gọi Như Lai chứng quả Vô thượng Bồ-đề
chớ thật ra Như Lai đâu có chứng đắc gì đâu. Nhưng Như Lai nói
không chứng đắc mà thật ra Như Lai có chứng đắc. Cái chứng đắc
nầy là vô thực và vô hư tức là không phải thật và cũng không
phải là không.
Tại sao không là thật? Bởi
vì cái mà Như Lai chứng đắc thì không có hình tướng, không có
màu sắc, không có kích thước, nặng nhẹ, không có văn tự ngôn ngữ
để diễn tả. Thế thì cái mà Như lai chứng đắc là không thật có.
Nhưng nếu không thật thì phải là hư. Vậy mà cái quả chứng đắc
của Như Lai lại là vô hư. Tại sao? Là vì Như Lai có đầy đủ trí
tuệ để nhận thức chân lý hoàn toàn đúng, đúng theo tự tánh Bồ-đề
và tự tánh thanh tịnh Niết bàn của sự vật hiện tượng, đúng theo
Thật Tánh của con người, đúng theo Pháp Tánh của vạn pháp cho
nên Như Lai không bao giờ có vô minh phiền não khổ đau, tâm luôn
thường trụ Niết bàn. Thế thì quả chứng đắc chính là vô hư tức là
không phải là không có. Cho nên Tâm Kinh mới có câu :
“Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” có nghĩa là Có tức là
Không và Không mới chính là Có vậy.
Con người đã có sẵn cái khả năng nhận thức khách quan mà đạo
Phật gọi là tự tánh thanh tịnh bản nhiên. Chính cái tự tánh
thanh tịnh khách quan sẽ giúp chúng ta có khả năng nhận thức mọi
hiện tượng trong thế gian nầy một cách khách quan, đứng đắn đúng
với sự thật. Nhưng chúng ta lúc nào cũng chạy theo chủ quan tức
là chạy theo tham-sân-si, mạn, nghi, phiền não, vô minh nên đánh
mất đi cái nhìn khách quan, cái tự tánh thanh tịnh tức là cái
trí tuệ trong sáng của mình nên chúng ta không có Bồ-đề là vậy.
Vì Bồ-đề không phải là cái mà từ bên ngoài đưa đến hay cố gắng
nỗ lực để đạt được mà Bồ-đề đã có sẵn trong tất cả mọi chúng
sinh. Vì thế nếu con người phá được màn vô minh hắc ám, thấy
được thật tướng của nhân sinh vũ trụ thì Bồ-đề hiển hiện. Niết
bàn thì cũng thế, nếu chúng sinh biết loại bỏ tánh tham, tật đố,
không giận không hờn, không vui không buồn thì Niết bàn hiển
hiện ngay. Nhà Phật không quan trọng về vui hay hạnh phúc bởi vì
có vui thì sẽ có lúc buồn và hạnh phúc thì sẽ biến thành đau
khổ. Cái mà đạo Phật chú trọng nhất là sự an lạc thanh tịnh từ
trong nội tâm vì đó là sống với trí tuệ sáng suốt triệt để, là
chơn tâm, là tự tánh thanh tịnh của mình.
Ngày xưa, lúc Lục Tổ trụ trì ở chùa Nam Hoa, Vĩnh Gia Đại sư
nghe lối truyền “tâm ấn” của Thiền tông. Đó là “Nhĩ đề diện
mệnh, khẩu thọ tâm hội” nghĩa là “đối diện rỉ tai, lời trao tâm
lãnh” nên Sư không ngại ngàn dặm đường xa tìm đến Lục Tổ để cầu
ấn chứng.
Lúc Sư đến thì cùng lúc Lục Tổ đang thuyết pháp. Sư đắp y, tay
cầm tích trượng tiến lên pháp tòa, đi nhiễu bên phải ba vòng,
rồi đứng trước Lục Tổ, không cúi đầu đảnh lễ mà quát lớn một
tiếng.
Tổ hỏi :
- Người xuất gia gọi là Sa-môn phải có phép tắc, phải đủ ba trăm
oai nghi, ba ngàn tế hạnh. Tại sao ông tới đây mà lại có thái độ
thô lỗ như vậy, một chút lễ phép cũng không có?
Vĩnh Gia đáp :
- Sanh tử là việc lớn, vô thường quá mau.
Ý Sư muốn nói rằng việc dụng công tu tập quá cấp bách nên không
còn thời gian để làm lễ. Chuyện sống chết quá to lớn, con quỷ vô
thường nó đến bất cứ lúc nào nên không có thì giờ hành lễ hay
nghiên cứu cái gì là ba trăm oai nghi hay ba ngàn tế hạnh cả.
Tổ bèn nói :
- Sao chẳng thể giải cái không sanh và liễu ngộ cái không mau
chóng?
Ý Tổ muốn nói rằng tại sao Sư không nghiên cứu pháp vô sanh là
để đối lại với sanh tử? Tạo sao không thấu hiểu đạo lý của cái
không mau là để đối lại với cái vô thường quá mau.
Sư thưa lại :
- Thể giải tự tánh tức là không sanh, liễu ngộ tự tánh rồi thì
vốn không có mau chóng.
Ý Sư nói rằng khi đã quay về với thể tánh thanh tịnh tức là sống
với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh của mình thì làm
gì còn sống chết tức là vô sanh. Và một khi sống với cái tự tánh
thanh tịnh đó thì không còn quá khứ, hiện tại hay vị lai tức là
tâm không còn bị thời gian (ngoại trần) giả dối chi phối.
Tổ bảo :
- Nếu ông đã nói rằng thể giải tức vô sanh, ngộ rồi thì vốn
không có mau chậm, vậy ai là kẻ phân biệt?
Ý của Tổ là: tuy biết rằng hễ liễu ngộ chơn tâm Phật tánh thì
bất sanh bất tử, không còn già trẻ sống chết đổi thay, nhưng ai
là người nói? Vì hễ có nói là hư vọng, đâu còn là chân thật cho
nên chơn tâm biến mất.
Sư đáp :
- Phân biệt cũng chẳng phải ý. Nghĩa là không có tâm niệm ở chỗ
phân biệt.
Ý của Sư là biết chớ chẳng nói ra. Nói là nói vậy thôi chớ không
có ý niệm nói. Vì thế mà ngày xưa chính Đức Phật tuy thuyết pháp
độ sinh suốt 49 năm, nhưng Ngài nói “Ta chưa hề nói một chữ” bởi
vì cái mà nói được thì không thật.
Liền đó, Lục Tổ bèn ấn chứng cho Vĩnh Gia Đại sư.
- Đúng thế! Đúng thế!
Sư thấy Tổ đã ấn chứng cho mình, bèn dùng đầy đủ oai nghi lễ tạ
Tổ. Sau đó Sư xin cáo từ.
Tổ thấy Sư tới nơi chỉ nói mấy câu rồi ra đi, mới hỏi rằng:
- Sao lại ra đi quá mau như vậy?
Sư thưa :
- Vốn tự không động, há có mau ư?
Ý Sư muốn nói bổn lai không đến không đi thì làm gì có mau
có chậm?
- Ông thật đã chứng được vô sanh!
- Vô sanh có ý sao?
- Không ý, cái gì phân biệt được?
- Phân biệt cũng không phải ý.
- Ông có thể liễu, nhưng không nên đi.
Lúc đó Sư biết Lục Tổ quả đã ấn chứng cho mình nên Sư ở lại chùa
Nam Hoa một đêm. Vì thế mà người đương thời gọi Sư là “Nhất túc
giác” nghĩa là ngộ một đêm. Vĩnh Gia Đại sư là người đã nghiêm
trì kinh Duy Ma Cật đến chỗ liễu ngộ và về sau viết ra “Chứng
Đạo Ca”.
|
|