Nói về con người, chúng ta có sáu căn là
mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý. Đây là sáu cánh cửa để giao tiếp
với sáu trần bên ngoài là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà
phát sinh ra sáu thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt
thức, thân thức và sau cùng là ý thức. Trong sáu căn thì mắt và
tai là hai căn sắc bén nhất vì nó tiếp xúc với ngoại trần nhiều
hơn những căn khác. Tuy nhiên giữa tai và mắt thì tai nghe âm
thanh vẫn là nhạy bén hơn.
Thí dụ như chúng ta đang ở
trong một căn phòng kín thì đâu có thấy gì bên ngoài, nhưng tai
vẫn nghe âm thanh rồi từ đó phát sinh ra vọng tưởng. Vì thế muốn
nghiêm trì sáu căn thì chúng sinh tùy theo căn cơ, sở nguyện mà
chọn căn nào thích hợp với mình để tu chớ không thể tu một lần
sáu căn được. Tuy có sáu căn, nhưng chúng sinh chỉ cần chọn một
căn để tu là đủ bởi vì nếu một căn đã viên thông tức là có sự
thanh tịnh thì năm căn còn lại cũng từ đó mà thông suốt tức là
hoàn toàn thanh tịnh. Trong tâm của chúng sinh có tám mươi bốn
ngàn phiền não chướng cho nên Đức Phật mới có tám mươi bốn ngàn
pháp môn để giải trừ.
Tuy nhiên, trong kinh Lăng
Nghiêm này, Đức Phật Thích Ca chỉ yêu cầu Ngài Văn Thù Sư Lợi
chọn một pháp môn để giúp cho ông A Nan và đặc biệt là cho tất
cả chúng sinh căn cơ còn yếu dựa theo đó mà tu hành. Chính Ngài
Văn Thù đã chọn pháp môn nhĩ căn viên thông. Tại sao? Bởi vì nhĩ
căn có tới một ngàn hai trăm công đức và thông đạt nhiều nhất so
với năm căn còn lại. Do đó, nếu nhĩ căn trở về với thanh tịnh
thì năm căn còn lại lập tức cũng trở về với thanh tịnh. Đây
chính là nhất hạnh pháp môn tức là chỉ chọn một pháp môn duy
nhất để tu. Vì thế nếu chúng sinh dựa theo nhĩ căn viên thông mà
đạt được đại định tức là có được Thủ Lăng Nghiêm tam muội nghĩa
là trở về với bản lai diện mục, với Phật tánh, với chơn tâm, với
tự tánh thanh tịnh bản nhiên của chính mình thì trong bốn oai
nghi là đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào họ cũng sống trong Pháp thân
đó. Khác với định của Tiểu thừa là phải ngồi thiền nên còn lệ
thuộc xuất, nhập và trụ, vì thế còn ngồi thiền tâm còn định
nhưng khi xả thiền thì vọng tâm trở lại. Còn định của Đại thừa
là thể hiện ngay trong cuộc sống hằng ngày, từng giây, từng
phút. Đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng định. Do đó khi đã thấy
được chơn tâm thường trú của mình thì người đó suốt cuộc đời
luôn sống với đại định, với Phật tánh, với Pháp thân hằng thanh
tịnh của chính mình.
Vậy tâm ở đâu?
Cái tâm của con người thật là quan trọng, nó là trung tâm của sự
sống, của vũ trụ và chứa nhóm tất cả muôn pháp. Nó là hào lũy ẩn
náu của mọi tật xấu, nhưng cũng là mảnh đất phì nhiêu nẩy sanh
mầm giống giác ngộ. Vì thế, chính tâm tạo nên hạnh phúc và cũng
chính tâm tạo biết bao nỗi khổ đau. Vậy cái tâm của nó nằm ở
đâu?
Để trả lời câu hỏi nầy, Đức Phật lần thứ nhất đã gạn hỏi ông A
Nan bảy lần về nơi thường trụ của tâm để có cái nhìn rõ ràng về
sự khác nhau giữa vọng tâm sinh diệt thay đổi từng giây từng
phút, từng cảnh giới, chạy theo lục dục thất tình, tham đắm sắc
tài danh lợi và sự thanh tịnh không thay đổi, lúc nào cũng an
vui tự tại và luôn ở trong ta, là chơn tâm. Trên con đường giải
thoát Bồ-đề, văn hay chữ tốt không quan trọng, kiến thức thế
gian không cần thiết mà một điều tối quan trọng là khả năng dập
tắt mọi vô minh phiền não, pháp giới của trần gian để phát triển
trí tuệ mà có được giải thoát giác ngộ. Do đó một người không
liễu ngộ được bản tâm, cho dù có tu hành suốt kiếp cũng không
ích lợi gì vì vẫn là phàm phu. Còn nếu đã ngộ được bản tâm và
dùng bản tâm này đi vào bản giác viên dung thì người này cho dù
có tu một ngày còn hơn là tu một kiếp tức là họ đã chứng đạo.
Ngày xưa, Lục Tổ Huệ Năng xuất thân là người quê mùa, dốt nát.
Nhưng chỉ qua một thời gian ngắn tu tập với Tổ Hoằng Nhẫn đã
liễu ngộ được chơn tâm của mình trong khi đó đệ tử của ngũ Tổ có
biết bao người văn hay chữ tốt mà người nổi tiếng nhất là Thiền
Sư Thần Tú mà vẫn không đạt được đạo. Càng học giỏi, càng thông
minh, càng trí thức cao, càng hiểu biết nhiều thì càng dễ rơi
vào thế trí biện thông nghĩa là có càng nhiều tự cao, ngã mạn để
chôn họ vào nấm mồ sinh tử luân hồi.
1)A NAN CHO RẰNG TÂM Ở
TRONG THÂN :
A Nan bạch Phật rằng :
- Bạch Thế Tôn! Tất cả mười loại chúng sinh trên thế gian đều
cho tâm thức ở trong thân. Nay con nhận được mắt con ở trên mặt
con và tâm thức ở trong thân, như mắt Thanh Liên Hoa (Hoa sen
xanh) của Như Lai ở trên mặt Như Lai vậy.
Phật bảo :
- A Nan! Nay ông hiện ngồi trong giảng đường cùng Như Lai, ông
xem thấy vườn cây Kỳ Đà đang ở chỗ nào?
- Bạch Thế Tôn! Giảng đường thanh tịnh rộng rãi này trong vườn
Cấp Cô Độc, còn rừng Kỳ Đà thì ở ngoài giảng đường.
Phật hỏi :
- A Nan! Bây giờ đang ngồi trong giảng đường, trước hết ông thấy
gì?
- Bạch Thế Tôn! Con ở trong giảng đường trước thấy Như Lai, sau
thấy đại chúng, rồi nhìn ra ngoài mới thấy rừng cây.
- A Nan! Khi ông thấy rừng cây là nhờ vào đâu mà thấy được?
- Bạch Thế Tôn! Vì cửa sổ giảng đường này mở rộng nên con trông
thấy suốt ra bên ngoài.
Khi ấy, Đức Thế Tôn ở trong đại chúng đưa cánh tay sắc vàng xoa
đầu A Nan, dạy ông và đại chúng rằng :
- Có pháp Tam-ma-đề tên là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, gồm đủ
muôn hạnh. Mười phương Như Lai đều do một pháp môn là con đường
diệu trang nghiêm ấy mà siêu xuất, nay ông hãy lắng nghe thật
kỹ.
A Nan đảnh lễ, kính vâng lời Phật dạy.
Phật bảo A Nan :
- Như lời ông nói, thân ở trong giảng đường, nhờ cửa mở trống
nên thấy rừng cây; vậy có chúng sinh nào ở trong giảng đường lại
không thấy Như Lai mà thấy được rừng cây bên ngoài chăng?
- Bạch Thế Tôn! Ở trong giảng đường không thấy Như Lai mà lại
thấy rừng cây bên ngoài thì chẳng đúng.
- A Nan! Ông cũng vậy. Tâm của ông tất cả sáng tỏ. Nếu tâm sáng
tỏ hiện tiền của ông thật ở trong thân thì trước hết nó phải
biết những gì trong thân ông. Vậy có chúng sinh nào trước thấy
trong thân rồi sau mới thấy vật bên ngoài chăng? Dù không thấy
được tim, gan, tỳ, vị nhưng các chỗ: móng tay mọc, tóc dài ra,
gân chuyển, mạch máu chảy cũng phải thấy chứ, sao lại chẳng
thấy? Nếu trong thân còn không thấy thì làm sao thấy vật bên
ngoài? Thế cho nên ông nói Tâm Ở Trong Thân là không đúng lý.
Ông A Nan cho rằng không chỉ riêng mình ông mà tất cả mười loài
chúng sinh trên thế gian đều chấp tâm nằm trong thân. Vậy thế
nào là mười loài chúng sinh :
1) Noãn sanh: là những động vật sinh ra bởi trứng rồi nở ra con.
Thí dụ như gà, vịt, chim, rùa, cá sấu, rắn…
2) Thai sanh: là những động vật sinh ra bằng tinh cha, huyết mẹ
như con người, con heo, con bò, con sư tử, con dê…
3) Thấp sanh: loài này sinh
ra do những vùng ẩm thấp như ao hồ, vũng nước… như con lăng
quăng, hay những vi khuẩn trong ao hồ rất nhỏ.
4) Hóa sanh: như con nhộng ăn tằm rồi biến thành bươm bướm, hay
rơm bị ẩm ướt lâu ngày biến thành con đom đóm…
5) Hữu sắc: Đây là những vị Trời ở trong cõi Dục giới, Sắc giới.
6) Vô sắc: Đây là những vị Trời không có hình dáng như con người
mà chỉ có tư tưởng và sống trong cõi trời vô sắc giới.
7) Hữu tưởng: là những vị Trời sống trong cõi Sắc giới mà không
có hình dáng mà chỉ có tư tưởng làm thân xác.
8) Vô tưởng: Đây là cõi Trời Vô tưởng thiên phần lớn do ngoại
đạo tu thành và nó ở trên cõi Trời Sắc giới. Những ngoại đạo
nhận thấy rằng tư tưởng làm cho con người đầy phiền não khổ đau
nên họ cố tu để tiêu diệt hết tư tưởng trong tâm thức. Tuy không
còn tư tưởng, nhưng nếu những vị trời này sống trong cõi thiên
này trên năm trăm năm thì tư tưởng bắt đầu khởi dậy thì bị luân
chuyển ngay vào lục đạo luân hồi.
9) Phi hữu sắc và phi vô sắc: những vị Trời ở trong những cảnh
giới rất cao trong thế giới của vô sắc.
10) Phi hữu tưởng và phi vô tưởng: là những người đã tu hành đến
chỗ không còn tư tưởng và cũng không còn cái tư tưởng để loại
ngay cả đó là vi tế hay siêu vi tế. Đây là cảnh giới của phi phi
tưởng xứ.
Tuy A Nan là đệ nhất đa văn, nhưng sau câu trả lời, Đức Phật
biết rằng A Nan chưa nhìn thấu suốt muôn pháp cũng vì ông còn
lấy những cảnh trần lao bên ngoài mà đưa vào trong tâm của ông.
Một người muốn đạt được đạo thì phải hồi quang phản chiếu, quay
vào bên trong để loại bỏ tất cả vọng thức thì tâm mới thanh
tịnh. Thí dụ nếu nhìn thấy cảnh trái ý nghịch lòng thì tâm sân
hận liền phát sinh, hoặc thấy người thống khổ làm tâm mình đau
thương. Thử nghĩ nếu muốn tu hành để có tâm thanh tịnh mà ngoại
cảnh làm khởi dậy tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì tu biết đến
bao giờ mới có tâm thanh tịnh. Vì thế mà cả đời ông A Nan tuy đi
theo Phật mà không tu chứng được gì cũng bởi vì ông sống với
tình cảm bên ngoài thay vì quay về sống với trí tuệ bên trong.
Chúng sinh vì có quá nhiều
tập khí nên cuộc sống mới đau khổ. Tập khí là những thứ mình yêu
thích và nó núp trong tâm để sai khiến con người. Thí dụ như
không nghe tiếng ca nhạc hoặc tự mình không ca hát thì không
vui. Quý bà quý cô nếu không trang điểm phấn son thì như chết cả
cuộc đời. Còn quý ông nếu không uống rượu, cà phê hay thuốc lá
thì cuộc sống chẳng còn hương vị… Tập khí là những thói quen
tăng trưởng dần theo thời gian, nhưng con người bị lệ thuộc vào
nó một cách máy móc nên nghĩ rằng nó là một thành phần của cuộc
sống cho nên có người có thể bỏ gia đình, nhịn ăn, nhưng bỏ hút
thuốc thì không được. Do đó con người nếu muốn có tâm thanh tịnh
thì phải dần dần loại bỏ hết những tập khí. Càng bỏ nhiều tập
khí thì tâm càng thanh tịnh.
Bây giờ Phật muốn giới thiệu cho A Nan và đại chúng về pháp môn
Tam-ma-đề để tu. Tam-ma-đề nghĩa là tam muội tức là chánh định.
Người có chánh định sẽ không còn xuất, nhập và trụ như thiền
Tiểu thừa mà tâm hằng thanh tịnh, không bị ngoại trần làm ô
nhiễm. Nếu nhập được vào tam muội tức là mình đã thấy và đang
sống với Pháp thân, với chơn tâm nên thân tâm hoàn toàn thanh
tịnh, trong sáng. Tại sao các vị A la hán có được thần thông?
Khi các ngài nhập vào chánh định với tâm rỗng rang thanh tịnh
thì định lực cực mạnh của tâm giúp các ngài thành tựu quán tưởng
mà có được thần thông. Còn chúng sinh không có được thần thông
vì tâm của chúng sinh bị dao động làm cho định lực bị yếu kém.
Chúng sinh muốn hướng về giải thoát giác ngộ nên xoay tâm của
mình vào trong chớ đừng hướng ra ngoài. Biết bao ma chướng như
thị phi, tham, sân, si, mạn, nghi làm tâm bất tịnh. Trên con
đường tu đạo, gầy dựng, lượm lặt công đức rất khó, nhưng một
vọng niệm của tham, sân, si, mạn, nghi dấy khởi sẽ giết chết
những công đức này rất dễ dàng vì thế quay vào trong tâm là mình
phải biết mình, luôn bồi dưỡng trí tuệ để phát triển định lực và
ý chí sắc đá để phá trừ chướng ma và vào trong thiền định để
loại bỏ những ma chướng này.
Vì thế kinh cũng có câu :
Lửa sân si tam độc, đốt hết rừng công đức
Muốn hạnh Bồ-tát đạo, giữ
thân tâm thanh tịnh.
Vì A Nan chấp tâm ở trong thân nên Đức Phật mới dùng phương tiện
mà phá cái chấp đó. Tại sao? Nếu nói rằng ông A Nan ngồi trong
giảng đường thì trước hết ông phải thấy Như Lai, đại chúng rồi
sau mới thấy những cảnh vật bên ngoài. Bây giờ Phật áp dụng lối
lý luận nầy cho tâm của A Nan. Nếu tâm hay biết của A Nan thật
sự ở trong thân thì trước hết tâm phải thấy những vật bên trong
như tim, gan, phèo, phổi rồi sau đó mới thấy được những hình sắc
ngoài thân. Nhưng tâm ông A Nan đâu có thấy được tim, gan của
ông cho nên Phật kết luận tâm ở trong thân là vô lý.
2) A NAN CHO RẰNG TÂM Ở
NGOÀI THÂN :
A Nan cúi đầu bạch Phật :
- Bạch đức Thế Tôn! Con nghe lời dạy của Như Lai nên nhận ra tâm
con đúng ở ngoài thân. Tại sao? Ví như đèn thắp trong phòng thì
trước phải chiếu sáng trong phòng, rồi sau mới từ cửa rọi ra
ngoài sân. Tất cả chúng sinh chẳng thấy trong thân, chỉ thấy
ngoài thân, cũng như ngọn đèn ở ngoài phòng chẳng thể chiếu sáng
trong phòng, nghĩa này rõ ràng, chẳng còn nghi ngờ, vậy so với
nghĩa lý rốt ráo của Phật có đúng chăng?
Đức Phật bảo A Nan :
- Vừa rồi, các tỳ kheo theo ta khất thực trong thành Thất La
Phiệt, nay đã về rừng Kỳ Đà. Như Lai đã thọ trai xong, ông hãy
xem coi trong chúng tỳ kheo, khi một người ăn thì những người
khác có no không?
- Bạch Thế Tôn! Không thể. Tại sao? Các Tỳ kheo này tuy đã chứng
quả A La Hán, nhưng thân thể khác nhau thì làm sao một người ăn
mà tất cả đều no được.
- A Nan! Nếu tâm thấy nghe hay biết của ông thật ở ngoài thân
thì thân tâm cách biệt nhau, tự nó không liên quan với nhau. Vậy
điều gì tâm biết thì thân ắt không biết và những gì thân biết
thì tâm không thể biết. Nay ta đưa cánh tay lên cho ông xem,
trong lúc mắt ông thấy, tâm ông có biết được chăng?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.
Đức Phật bảo A Nan :
- A Nan! Nếu thân và tâm cùng biết một lượt thì tại sao ông nói
tâm ở ngoài thân? Vậy nên biết rằng tâm ở ngoài thân là chẳng
đúng.
Sau khi bị Phật bác vì A Nan cho rằng nếu tâm ở trong thân thì
tâm phải thấy lục phủ ngũ tạng, nhưng đâu có tâm nào thấy được
tim, gan của mình đâu. Ông A Nan bây giờ dựa vào cái thấy của
tâm mà lý luận rằng nếu ngọn đèn ở bên ngoài thì không thể chiếu
sáng bên trong cũng như chúng sinh chỉ nhìn thấy hình sắc ngoài
thân chớ không thấy được lục phủ ngủ tạng bên trong nên ông A
Nan kết luận là tâm ở ngoài thân. Đây là lối lý luận táo bạo lạ
thường chứng tỏ sự hiểu biết của ông A Nan chưa được rốt ráo.
Trước khi Phật bác cái chấp tâm ở ngoài thân, Đức Phật muốn giải
thích cho ông A Nan rằng : Nếu tâm thật sự ở ngoài thân thì thân
và tâm là hai thực thể khác nhau cũng như Phật và chư Tăng là
hai nhóm khác nhau. Tại sao? Nếu Phật và chư Tăng là một tức là
trong ngoài như nhau thì khi Phật thọ trai, chư Tăng phải no.
Nhưng ở đây, khi Phật thọ trai mà chư Tăng không no nghĩa là
Phật và chư Tăng là hai thực thể khác nhau.
Thêm nữa, khi Phật đưa cánh tay lên, mắt A Nan vừa thấy thì tâm
liền biết, chứng tỏ thân tâm không thể cách biệt nhau nghĩa là
thân tâm là một khối, bất khả phân ly. Vì thế chấp tâm ở ngoài
thân tức là thân tâm cách biệt là vô lý.
3) A NAN CHO RẰNG TÂM
NÚP SAU CON MẮT :
A Nan bây giờ bạch Phật rằng :
- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy, vì chẳng thấy bên trong nên
tâm con chẳng ở trong thân. Vì thân tâm đều biết nhau, chẳng hề
rời nhau nên tâm con chẳng ở ngoài thân. Nay con nghĩ kỹ biết nó
ở tại một chỗ.
- Nó ở nơi nào?
A Nan thưa :
- Cái tâm hiểu biết đã không biết bên trong mà lại nhận biết rõ
sự vật bên ngoài, theo con nghĩ là nó núp sau con mắt. Ví như
người lấy chén thủy tinh úp vào hai con mắt, con mắt dù có vật
úp vào, nhưng không làm ngăn ngại sự thấy. Và vì tâm núp sau con
mắt nên khi mắt thấy thì tâm liền phân biệt. Sở dĩ tâm không
biết tạng phủ trong thân, vì nó không ở trong thân, nhưng tâm
lại nhận biết cảnh vật bên ngoài vì nó ở trên cái mặt.
Phật bảo A Nan :
- Như ông vừa nói, tâm núp sau con mắt, còn con mắt núp sau chén
thủy tinh, nếu người kia sau khi úp chén thủy tinh lên mắt mà
mắt vẫn nhìn thấy núi sông, vậy con mắt có thấy được chén thủy
tinh không?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Khi người ấy úp chén thủy tinh lên
mắt, thật có thấy chén thủy tinh.
Phật bảo A Nan :
- A Nan! Con mắt núp sau chén thủy tinh thì thấy được chén thủy
tinh. Còn tâm núp sau con mắt sao tâm chẳng thấy mắt? Dù cho là
thấy mắt, mắt tức là cảnh thì cảnh làm sao thấy cảnh? Nếu chẳng
thấy mắt thì ông nói tâm núp sau con mắt giống như con mắt núp
sau chén thủy tinh là vô lý.
Ông A Nan nói tâm ở trong thân bị Phật bác, ông bèn nói tâm ở
ngoài thân thì cũng bị Phật bác. Bây giờ ông nghĩ rằng sở dĩ tâm
không thấy được lục phủ ngũ tạng là vì tâm không ở trong thân mà
ở trên mặt. Nếu nói tâm ở trên đầu thì tâm không thấy biết những
hình sắc bên ngoài cho nên ông A Nan mới nói tâm núp sau con
mắt. Vì tâm núp sau con mắt nên mắt thấy vật gì thì tâm lập tức
biết ngay. Đây là để đối lại với lời của Phật trong phần trước
khi Ngài đưa cánh tay lên thì thân tâm cùng biết.
Đức Phật bây giờ mới từ bi mà giải thích cho A Nan. Giả sử nếu
cho rằng tâm núp sau con mắt cho nên mỗi khi mắt thấy hình sắc
nào bên ngoài thì tâm liền thấy biết. Cũng như có người úp chén
thủy tinh lên mắt mà mắt vẫn nhìn thấy cảnh vật bên ngoài thì dĩ
nhiên mắt phải thấy chén thủy tinh. Một thí dụ khác nếu chúng ta
đeo cặp mắt kiếng thì mắt dĩ nhiên phải núp dưới đôi mắt kiếng.
Do đó khi mắt thấy được cảnh vật bên ngoài thì tất nhiên mắt
phải thấy được đôi mắt kiếng đang đeo vì đôi mắt kiếng là đối
tượng để thấy tức là cảnh thấy và đang ở trước mắt chúng ta như
những cảnh vật ở bên ngoài khác.
Nếu dựa theo lý luận của ông A Nan là tâm núp dưới con mắt cho
nên khi tâm thấy được cảnh giới bên ngoài thì tâm phải thấy con
mắt trước rồi sau đó tâm mới thấy cảnh vật bên ngoài. Như thế
mắt bây giờ không còn là mắt mà là đối tượng để thấy. Nhưng trên
thực tế, tâm đâu có thấy mắt hay thấy cảnh vật bên ngoài mà chỉ
có mắt mới thấy được cảnh giới bên ngoài mà thôi. Vì thế, ông A
Nan chấp tâm núp dưới con mắt là sai.
4) A NAN CHO RẰNG NHẮM
MẮT THẤY TỐI LÀ TÂM THẤY TRONG THÂN :
A Nan bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn! Nay con lại thiết nghĩ rằng : thân thể của chúng
sinh, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt (ngũ căn) ở ngoài. Nơi tạng
phủ thì tối, nơi khiếu huyệt thì sáng. Nay con ở trước mặt Phật,
mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là
thấy bên trong. Nghĩa nầy đúng chăng?
Đức Phật bảo A Nan :
- Khi ông nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay
không đối với mắt?
Nếu đối với mắt thì tối ở trước mắt, tức là ở ngoài thân, sao
lại nói trong thân? Giả sử cho tối là trong thân thì lúc trong
phòng tối chẳng có ánh sáng, những gì trong phòng tối đều là
tạng phủ của ông sao?
Nếu chẳng đối với mắt thì làm sao được thấy? Nếu lìa sự thấy bên
ngoài, thành lập sự thấy đối vào trong, khi nhắm mắt thấy tối
gọi là thấy trong thân; vậy khi mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy
mặt?
Thêm nữa, nếu chẳng thấy mặt thì cái nghĩa “con mắt đối vào
trong” chẳng thể được. Nếu thấy mặt thì tâm hay biết và nhãn căn
đều tại hư không, làm sao nói ở trong?
Nếu ở ngoài hư không thì chẳng phải thân ông, tức hiện nay Như
Lai thấy mặt ông cũng là thân ông sao? Vậy mắt ông thấy biết thì
thân ông chẳng biết. Nếu ông cho thân và mắt cùng biết một lượt,
thì phải có hai cái biết, tức một thân người phải thành hai
Phật.
Vậy nên biết rằng : Nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân là
chẳng đúng.
Lần thứ nhất A Nan chấp tâm ở trong thân, bị Phật bác. Sau đó, A
Nan chấp tâm ở ngoài thân, cũng bị Phật bác. Liền sau đó, A Nan
chấp tâm núp sau con mắt, lý luận này cũng bị Phật bác. A Nan
bèn nghĩ rằng tạng phủ ở trong thân nên mắt không thấy được và
dĩ nhiên ngũ căn ở bên ngoài thì mắt dễ dàng thấy. Do đó ông mới
kết luận rằng vì tạng phủ ở bên trong nên khi nhắm mắt, thấy tối
thì cái tối tức là thấy bên trong tạng phủ. Còn khi mở mắt, thấy
sáng thì cái sáng này sẽ thấy hình sắc bên ngoài.
Bây giờ Phật mới giải thích cho A Nan rằng : Nếu ông A Nan nhắm
mắt lại mà thấy cảnh tối thì :
1) Nếu ông nhắm mắt mà thấy cảnh tối thì mắt phải nhìn thấy cảnh
tối bên ngoài tức là cảnh tối là đối tượng để thấy thì cảnh tối
bắt buộc phải ở ngoài thân. Nếu cảnh tối ở trong thân thì làm
sao mắt thấy được. Nếu ông A Nan lý luận cảnh tối ở trong thân
thì cũng giống như cảnh tối của một căn phòng không có ánh sáng.
Như thế thì đồ đạc vật dụng trong phòng kia là tim, gan, tỳ,
tạng của ông A Nan?
2) Bây giờ nếu không có mắt để thấy thì làm sao thấy được đối
tượng, cảnh vật. Mà nếu cho rằng con mắt ở trong thân cho nên
khi nhắm mắt thì thấy cảnh tối vậy khi mở mắt sáng thì phải thấy
cảnh vật bên ngoài. Nhưng ở đây khi mở mắt sáng mà chẳng thấy
được mặt mày của mình thì con mắt đâu phải ở trong thân. Mà muốn
thấy mặt thì mắt phải ở ngoài thân vì thế tâm và mắt phải nằm lơ
lửng trong không gian.
Nếu mắt, tâm ở ngoài thân và nằm trong hư không thì rõ ràng mắt
và tâm không thuộc thân. Cũng như Đức Phật đứng từ bên ngoài
nhìn A Nan thì làm sao bảo Đức Phật là thân của A Nan được. Do
đó nếu mắt biết thì thân không biết, còn nếu cho rằng mắt biết
và thân cũng biết hóa ra trong thân có tới hai tánh biết nghĩa
là một thân A Nan tu mà có tới hai A Nan thành Phật. Mỗi người
sinh ra chỉ có một tánh biết, nếu tánh biết hiện ra ở mắt là
thấy, hiện ra ở tai là nghe, hiện ra ở mũi là ngửi…cho nên nếu
có hai tánh biết thì rõ ràng ông A Nan một thân mà có tới hai
bản tâm hay sao?
Do đó ông A Nan chấp “nhắm mắt thấy tối là tâm thấy trong thân”
là vô lý.
5) A NAN CHO RẰNG SỰ SUY
NGHĨ LÀ TÂM :
A Nan thưa :
- Bạch Thế Tôn! Con thường nghe Phật dạy tứ chúng rằng: do tâm
sanh nên các pháp mới sanh; do các pháp sanh cho nên tâm mới
sanh. Nay con suy nghĩ, chính cái “suy nghĩ” ấy là tâm của con.
Tùy sự hòa hiệp chỗ nào tâm theo đó mà có nên nó chẳng ở trong,
ở ngoài và ở chính giữa.
Phật bảo A Nan :
- A Nan! Ông cho sự suy nghĩ là tâm, sự suy nghĩ hòa hợp chỗ nào
tâm theo đó mà có. Như thế thì cái tâm của ông không có tự thể.
Nếu tâm ông không có hình thể (tức là không có) thì lấy cái gì
mà hòa hiệp, cũng giống như giới mười chín hòa hợp với trần thứ
bảy, nghĩa ấy không đúng? Còn nó có hình thể, thì ông thử lấy
tay mặt đánh qua tay trái, ông liền biết đau. Vậy cái tâm biết
đau này, là từ trong thân chạy ra hay từ bên ngoài chạy vào?
- Nếu ông nói : ”nó từ trong thân chạy ra” thì trước hết nó phải
thấy gan ruột trong thân của ông. Còn nếu nó từ ngoài hư không
chạy vào thì trước hết nó phải thấy cái mặt của ông.
A Nan thưa :
- Thấy là ở con mắt, còn tâm thì biết chớ không thấy như con
mắt. Nói tâm thấy là không đúng nghĩa.
Phật dạy rằng :
- Nếu con mắt thấy thì những người chết, con mắt vẫn còn, sao họ
không thấy vật?
- Nếu người chết, mà vẫn còn thấy vật, thì sao gọi là người
chết?
Lại nữa, nếu cái tâm hiểu biết của ông có thật thể, thì có một
thể hay nhiều thể, ở khắp cả thân ông, hay không khắp cả thân?
- Nếu tâm ông có một thể và ở khắp cả thân thì khi ông lấy tay
đánh thử một chỗ trên thân ông, đáng lẽ, đều biết đau hết vì tâm
ở khắp cả thân và đồng một thể.
- Nếu cả thân biết đau thì cái đau đó lẽ ra không có ở nhất định
chỗ nào.
- Nếu cái đau có chỗ nhất định thì ông nói : “cái tâm một thể ở
khắp cả thân” cũng không phải. Còn nói : “tâm ông có nhiều thể”
thì thành ra nhiều người; vậy cái nào là tâm của ông?
- Nếu tâm ông không ở khắp thân thể, vậy ông đồng thời vừa đụng
trên đầu và cũng vừa đụng dưới chân; khi ấy, nếu đầu biết đau
thì chân phải không biết. Còn chân biết đau thì đầu phải không
biết.
Nhưng thực tế thì đầu và chân của ông cả hai đều biết đau.
Thế nên cho rằng “tùy hòa hiệp chỗ nào thì tâm tùy theo đó mà
có” cũng không đúng.
Cho đến bây giờ, ông A Nan vẫn chưa biết chỗ viên thông của bản
tâm nên mới đem cái thức suy nghĩ mà cho rằng đó là bản tâm. Ông
A Nan thường nghe Phật giảng giải về câu : “tâm sanh nên các
pháp sanh; do pháp sanh nên tâm sanh”, nghĩa là con người có
khởi tâm phân biệt là do các pháp trần sinh khởi nghĩa là căn
tiếp xúc với trần thì thức phát sinh mà tạo ý niệm phân biệt.
Thí dụ, quý vị ngồi trong nhà nhìn ra đường thấy chiếc xe thì
thức cho biết đó là chiếc xe, nhưng thức phân biệt sau đó mới
cho quý vị biết đó là xe gì, tốt hay xấu… Vì thế nếu pháp trần
sinh thì tâm sinh tức là nếu có hiện tượng xảy ra thì tâm phát
hiện để ghi lại. Đây chính là vọng tâm bản nguyên phan duyên
ngoại cảnh nghĩa là vọng tâm hay những thức suy nghĩ có phát
sinh cũng bởi tại phan duyên với những trần cảnh bên ngoài. Ông
A Nan không rõ ý Phật muốn chỉ dạy về pháp tướng mà tâm phân
biệt là cội nguồn sinh ra các tâm yêu, ghét, buồn, vui… nhưng
lại chấp rằng tâm hòa hợp với chỗ nào thì liền có ở nơi ấy.
Không riêng gì ông A Nan cho rằng sự suy nghĩ là tâm mà tất cả
chúng sinh trên thế gian này đều trả lời như thế nếu họ chưa
thấu hiểu sâu xa về thật tướng của vạn pháp. Thí dụ, con người
thường nói tâm nghĩ thiện, tâm nghĩ ác, tâm suy nghĩ việc này,
việc nọ… thế thì cái suy nghĩ không là tâm thì là gì? Nhưng nếu
tư duy quán chiếu thì thấy rằng trong tâm chúng ta không có một
ý niệm nào thường trụ bất biến cả. Niệm trước vừa đến thì được
thay thế bằng những niệm kế tiếp. Trong một cái chớp mắt mà có
tới chín trăm ý niệm vi tế khởi lên trong tâm vì thế mà con
người sống trong quay cuồng điên đảo với muôn vạn ý niệm trong
tâm thức của mình.
Đức Phật dạy rằng nếu thật sự cái suy nghĩ là tâm, mà sự suy
nghĩ là hư không, không hình sắc thì làm sao hòa hiệp. Bây giờ
giả sử cho rằng sự suy nghĩ có hình sắc; nếu ông A Nan lấy tay
mặt đánh qua tay trái thì tâm liền biết đau. Do đó nếu cho rằng
tâm ở trong thân chạy ra cánh tay để biết cái đau thì tâm phải
thấy tạng phủ của ông A Nan trước rồi mới chạy ra cánh tay,
nhưng thật ra tâm đâu có thấy tim, gan của ông được. Còn nói
rằng nếu tâm từ bên ngoài hư không chạy vào cánh tay để biết cái
đau thì tâm phải thấy mặt của A Nan, nhưng tâm đâu có thấy được
mặt của A Nan.
Lý do Đức Phật bác lời ông A Nan cho rằng “sự hòa hiệp chỗ nào
thì tâm theo chỗ ấy mà có” là vì bản tâm không có tự thể, là vô
hình, vô tướng nên không thể thấy và dĩ nhiên không thể nào hòa
hiệp được. Tại sao? Vì tự thể là thể chất của vật chất cho nên
nếu muốn hòa hợp nước, đường với chanh thì cần phải có nước,
đường và trái chanh thì mới làm được nước chanh đường.
Ông A Nan vì chưa ngộ được thật tướng viên thông của bản tâm nên
tâm còn chấp có, chấp không mà cãi gượng rằng nếu muốn thấy thì
phải dùng mắt tức là nhãn căn, còn tâm thì biết tức là thức.
Phật không thể nhận lầm thức là nhãn căn được. Lúc bấy giờ A Nan
chưa chứng đắc thánh quả A La Hán nên đây là câu hỏi rất thông
thường và rất hợp lý đối với phàm nhân.
Để trả lời, Phật lại dạy rằng nếu cho rằng phải có mắt mới thấy
sự vật thì tại sao người mới chết hai mắt vẫn còn nguyên vẹn mà
họ không thấy gì hết! Còn những người đã chết, mắt không còn
dùng được mà vẫn thấy sự vật? Lời Phật muốn dạy A Nan rằng không
nhất thiết có mắt mới thấy mà tâm cũng thấy được. Khi một người
đã chết, thần thức thoát ra khỏi thân xác và lưu lại ở một thế
giới trung gian từ một tới bảy tuần lễ để tùy theo nghiệp lực mà
đi tái sinh thì gọi là thân trung ấm. Thân trung ấm là thân
không có xác thịt mà chỉ là bóng dáng. Vì là bóng dáng nên thân
trung ấm không có sáu căn : mắt, tai, mủi, lưỡi, thân và ý,
nhưng họ có thể thấy, nghe, hay, biết một cách rõ ràng. Họ có
thể ngửi mùi hương mà thân quyến đốt cho họ… Họ có thể thấy gia
quyến thương tiếc khóc than cho họ. Do đó thân trung ấm vẫn thấy
mọi hiện tượng mà không cần có mắt. Vậy cái thấy của thân trung
ấm chính là do tâm mà có chớ đâu phải do mắt.
Ngày xưa tôn giả A Na Luật vì mỗi khi nghe Phật thuyết pháp
thường hay ngủ gục liền bị Phật quở nên ông thề trong tâm không
ngủ nữa. Vì giấc ngủ là thức ăn cho mắt cho nên sau bảy ngày
không ngủ liên tiếp ông bị mù. Chính Đức Phật đã dạy ông pháp
môn “Kim Cang Chiếu Minh Tam Muội” nên chẳng bao lâu A Na Luật
chứng được thiên nhãn thông có thể thấy tam thiên đại thiên thế
giới rất rõ như thấy quả quít trên tay. Như thế cái thấy của ông
A Na Luật đâu phải là do nhãn căn.
Bây giờ Phật mới phân tích cái tâm của A Nan mà hỏi rằng nếu cái
tâm hiểu biết của ông là một thể và bao trùm khắp toàn thân nên
khi đưa tay đánh một chỗ nào trên thân thì toàn thân phải cảm
thấy đau như nhau. Nhưng trên thực tế điều nầy không đúng vì nếu
lấy tay đánh trên đầu thì mình và tay chân đâu có đau. Vì thế
cho rằng tâm là một thể và bao trùm khắp toàn thân là sai. Còn
nếu cho rằng tâm ông có nhiều thể thì cũng không đúng vì mỗi
người chỉ có một thể tánh mà thôi. Còn có nhiều thể tức là có
nhiều người thành ra cái nào là tâm của A nan?
Sau cùng nếu cho rằng tâm hiểu biết của A Nan không bao trùm
khắp toàn thân nên khi lấy tay đánh lên đầu và dưới chân một
lượt thì chỉ có một chỗ biết đau, hoặc là đầu hoặc là chân bởi
vì khi biết đau có nghĩa là trong thời điểm ấy hoặc là tâm chạy
lên đầu hoặc là chạy xuống chân. Nhưng trên thực tế, cả đầu lẫn
chân cùng đau chứng tỏ tâm vừa chạy lên đầu và cũng vừa chạy
xuống chân.
Vậy cái thuyết ”hòa hiệp với chỗ nào, tâm liền có ở chỗ đó”
không đúng sự thật.
6) A NAN CHO RẰNG TÂM Ở
CHẶNG GIỮA :
A Nan bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn! Con được nghe Thế Tôn cùng với ngài Văn Thù Sư
Lợi và các vị Pháp Vương Tử bàn về nghĩa thật tướng. Con nghe
Phật nói tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài. Theo như con
nghĩ: Nếu tâm ở trong thân sao lại không biết bên trong, còn nếu
tâm ở bên ngoài sao thân tâm cùng biết. Tâm không biết bên trong
nên không thể nói ở trong thân. Thân và tâm cùng biết nên không
thể nói tâm ở ngoài thân. Nay vì thân tâm biết nhau và không
thấy được vật bên trong nên con khẳng định tâm chắc chắn ở giữa.
Phật bảo :
- Này A Nan! Ông nói chặng giữa, chỗ ấy không phải tự nhiên mà
có, hoặc không có vị trí nhất định. Theo sự suy nghĩ của ông thì
chặng giữa là ở nơi nào? Ở nơi thân hay ở nơi cảnh? Nếu ở nơi
thân mà ở một bên thì không phải ở giữa, còn nếu ở giữa thân thì
cũng như ở trong thân rồi. Nếu cái giữa ở nơi cảnh thì có thể
nêu ra được hay không thể nêu ra được? Không nêu ra được thì
cũng như không có cái giữa, còn nêu ra được thì lại không nhất
định ở giữa. Tại sao? Ví như có người cắm một cây nêu để
làm điểm giữa. Nếu nhìn từ phương Đông thì cây nêu ở phía Tây.
Còn nếu nhìn từ phương Nam thì thấy cây nêu ở phía Bắc. Cái giữa
đã lẫn lộn như thế thì cái tâm ở chặng giữa cũng thành rối loạn,
chẳng rõ ở đâu.
A Nan thưa :
- Con nói “chính giữa” chẳng phải là hai thứ này. Như Thế Tôn
dạy: mắt gặp sắc trần, duyên sanh nhãn thức. Mắt thì có phân
biệt, sắc trần vốn vô tri. Thức phát sinh trong khoảng giữa ấy
chính là tâm con.
Đức Phật bảo :
- Tâm ông nếu ở giữa căn và trần, vậy tâm thể ấy gồm cả hai bên
hay không gồm cả hai bên? Nếu gồm cả hai bên thì ngoại vật và
tâm thể lẫn lộn, trần thì không biết nhưng căn biết thành hai
thứ đối lập nhau. Như thế chỗ nào gọi là điểm giữa? Nếu lìa biết
(căn) và không biết (trần) thì chẳng có thể tánh, vậy lấy tướng
nào làm chính giữa?
Thế nên biết rằng tâm ở chặng giữa là chẳng đúng.
Khi Phật và đại trí Văn Thù bàn về thật tướng nghĩa là các Ngài
nói về tánh thường trụ của bản tâm tức là chơn tâm, là Phật
tánh, là Tri kiến Phật, là tự tánh thanh tịnh bản nhiên có sẵn
trong tất cả chúng sinh, nhưng ông A Nan lại hiểu lầm thật tướng
thường trụ bất sinh bất diệt của chơn tâm với pháp tướng sinh
diệt của vọng tâm. Vì thế mà ông mới lý luận rằng nếu tâm ở
trong thân thì tâm phải thấy lục phủ ngũ tạng, nhưng tâm đâu có
thấy được tim, gan của mình nên chắc chắn tâm không ở trong
thân. Còn nếu cho rằng tâm ở ngoài thân, khi thân đau thì tâm
không biết vì nó ở ngoài nên chắc chắn tâm cũng không ở ngoài
thân. Nhưng ở đây khi Phật đưa cánh tay lên thì thân tâm cùng
biết hoặc có người đánh vào tay ta thì thân tâm cũng cùng biết
cho nên ông A Nan mới kết luận tâm không ở trong, tâm cũng chẳng
ở ngoài mà tâm bây giờ ở ngay chặng giữa. Khi ông A Nan còn dùng
thức tâm tức là tâm phân biệt còn ngăn cách bởi sự vật, còn chạy
theo sắc trần bên ngoài, thì không cách nào ông hiểu được chơn
tâm thường trú và thể tánh tịnh minh vốn trong sạch, thanh tịnh,
thường hằng bất biến trong tâm của ông.
Bây giờ Phật từ bi mà giải thích rằng cái giữa mà ông A Nan muốn
nói là ở đâu. Giữa ở nơi thân hay giữa ở nơi cảnh.
1) Nếu tâm ở giữa nơi thân thì rõ ràng tâm ở trong thân thì cũng
giống như phần trên. Hoặc là cho tâm ở trong thân, nhưng ở một
bên thì cái giữa đâu còn ý nghĩa.
2) Còn nếu cho rằng tâm giữa ở nơi cảnh thì cũng có hai trường
hợp :
- Nếu không nói ra được chỗ nào là ở giữa thì cái giữa không có.
- Còn nếu có thể nói được thì nơi nào gọi là chỗ giữa. Phật bèn
đưa ra thí dụ : Giả sử có người cắm một cây nêu để làm điểm giữa
trong một cánh đồng trống. Nếu một người nhìn từ hướng Đông thì
thấy cây nêu nằm về hướng Tây. Hoặc một người nhìn từ hướng Nam
thì thấy cây nêu nằm về hướng Bắc. Vậy chỗ nào là chính giữa?
Cái ý nghĩa của chính giữa đã không rõ biết thì làm sao nói tâm
ở chính giữa là đúng được.
Vì A Nan còn mê nên nói sao cũng không đúng, nói cái gì cũng bị
Phật bác nên ông dựa vào duy thức luận mà nói rằng: Nhãn căn là
căn của mắt, sắc trần là những ngoại vật ở bên ngoài cho nên khi
nhãn căn tiếp xúc với sắc trần liền phát sinh nhãn thức tức là
sự phân biệt của sự thấy. Ông A Nan nói nhãn căn có sự phân
biệt, sắc trần tự nó vô tri nên không có sự phân biệt, nhưng khi
nhãn căn gặp sắc trần sanh ra nhãn thức ở giữa có sự phân biệt
hay biết nên ông cho rằng tâm ở nơi nầy. Thí dụ như khi chúng ta
nhìn thấy một chiếc xe đang đậu ngoài đường. Nhìn là mắt tức là
nhãn căn, chiếc xe là sắc trần, nhưng nếu mắt nhìn chiếc xe mà
chỉ biết đây là chiếc xe thì thức không có sự phân biệt. Bây giờ
nếu mắt vừa nhìn thấy chiếc xe mà thức liền phân biệt cho rằng
chiếc xe này là xe gì, đẹp hay xấu… thì ông A Nan nói cái thức
phân biệt này chính là bản tâm của ông ta.
Phật lại dạy rằng nếu ông A Nan nói tâm nằm ở giữa căn và trần
thì cái tâm ấy gồm hai bên (căn và trần) hay không gồm hai bên?
1) Nếu tâm gồm hai bên có nghĩa là nhãn thức vừa bao gồm cả nhãn
căn và sắc trần mà trần thì không biết còn căn thì biết như thế
biết và không biết hay tâm thức và sắc trần lẫn lộn vào nhau thì
làm sao biết chỗ nào là tâm mà nói ở chặng giữa.
2) Nếu tâm không gồm hai bên nghĩa là nó không có biết và cũng
không phải không biết nên tâm bây giờ không có thể tánh thì làm
sao nói tâm ở chặng giữa được. Tuy bản tâm là vô hình vô tướng,
nhưng nó có sự biết, sự thọ cảm nên nó có thể tánh, ngược lại
nếu không có thể tánh thì không phải là tâm. Mà nếu không là tâm
thì làm sao nói tâm ở chỗ này hay chỗ kia.
Vậy ông A Nan chấp tâm ở chặng giữa là không đúng.
7) A NAN CHO RẰNG TÂM LÀ
CÁI KHÔNG DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU CẢ:
Ông A Nan thưa :
- Bạch Thế Tôn! Con nhớ trước đây có lần Phật chuyển pháp luân
cùng bốn đại đệ tử: Mục Kiền Liên, Tu Bồ-đề, Phú Lâu Na và Xá
Lợi Phất, khi đó Phật dạy: “Cái tâm tánh hiểu biết nó không ở
trong, không ở ngoài, không có chặng giữa và không chỗ trụ, tất
cả không dính dáng”.
Bạch Thế Tôn! Nay con lấy cái không dính dáng ấy gọi là tâm có
được chăng?
Phật bảo :
- A Nan! Ông nói cái tâm hiểu biết của ông không dính dáng, vậy
tôi hỏi ông : Biển cả, đất liền, núi rừng, hoa, cỏ… nói chung
mọi sự vật hiện tượng trên thế gian mà ông cho là không dính
dáng, chúng có hay là không có? Nếu chúng là không thì không cần
phải nói dính dáng hay không dính dáng. Bởi vì có ai dính với
chuyện lông rùa, sừng thỏ bao giờ! Còn nếu có sự dính dáng thì
không thể nói sự vật hiện tượng là không. Không tướng mới không,
còn không phải không thì ắt phải có tướng. Mà đã có tướng thì có
dính dáng chứ làm sao không dính dáng được?
Vậy nên biết rằng tâm là cái không dính dáng vào đâu cả cũng
không hợp lý.
Một lần nữa kinh Lăng Nghiêm chứng minh rằng cái nghe thấy biết
của ông A Nan và sự thấy biết của những bậc tu chứng khác nhau
rất xa. Tại sao? Khi các bậc Thánh giả tu chứng đến chỗ các Ngài
có thể phá được sắc, thọ, tưởng, hành của ngũ uẩn thì các Ngài
đạt đến chỗ nhân không tức là họ đã phá được bản ngã nên tâm
hoàn toàn tự tại cho nên cái thấy của họ không phải do mắt mà
bằng trí tuệ nên không có dính dáng. Còn ông A Nan tuy theo chân
Đức Phật suốt hai mươi bảy năm, nhưng với sở thích học rộng nghe
nhiều mà không dùng thiền định để soi chiếu được cái thật tướng
của bản tâm (chơn tâm) nên cái thấy của ông A Nan không khác gì
cái thấy của phàm nhân tức là thấy bằng nhục nhãn chớ không phải
bằng tuệ nhãn như các vị A la hán. Mà thấy bằng mắt thịt thì dĩ
nhiên phải có dính dáng, có đối tượng mới thấy được.
Phật từ bi mà dạy rằng nếu ông A Nan cho rằng cái tâm hiểu biết
của ông không dính dáng với tất cả những sự vật hiện tượng trên
thế gian, ông hãy nhìn ra ngoài sẽ thấy nào là trời cao, biển
rộng, núi rừng, hoa quả, chim bay, cá lặn… thì chúng có hay
không?
1) Nếu ông nói không có thì không cần phải nói gì thêm.
2) Còn nếu ông nói chúng có hiện hữu thì làm sao ông nói là
không dính dáng được? Tại sao? Bởi vì cái không dính dáng là cái
không của hình sắc, của thế giới hữu vi tức là phải có hình
tướng chớ không phải cái không của không tướng tức là chân không
diệu tánh của thế giới vô vi. Mà thế gian, trời đất, núi cao,
biển rộng, chim bay, cá lặn vẫn sờ sờ trước mắt thì làm sao nói
không có? Do đó có thế giới hữu hình, có hình tướng thì phải có
dính dáng.
Vậy ông A Nan chấp không dính dáng là tâm hay biết lại cũng
không đúng.
Phần Tóm Lược
Con người có sống trong hệ lụy của phiền não khổ đau cũng vì để
tâm chạy theo những trần cảnh bên ngoài. Mỗi cái chớp mắt có tới
hàng trăm ý niệm thay nhau sinh khởi trong tâm. Ý niệm trước vừa
dấy khởi liền được thay thế bằng ý niệm sau. Đó là tại sao chúng
sinh có lúc vui, lúc buồn, lúc giận, lúc hờn, lúc thương, lúc
ghét… Cái vui nhỏ thay thế cái vui lớn, cái tức giận mới thay
thế cái tức giận cũ. Vài phút trước đang vui, nhưng vừa thoáng
qua thì nước mắt đã chảy dài. Tất cả những thay đổi của tâm bởi
những trần lao bên ngoài thì cái tâm này nhà Phật gọi là thức
tâm hay vọng tâm tức là cái tâm sinh diệt, biến đổi theo hoàn
cảnh và thời gian.
Trong chương này, Đức Phật
trước khi chỉ bày phương pháp tu hành để loại trừ vọng tâm sinh
diệt chính là cội nguồn của sinh tử khổ đau mà thấy được chơn
tâm thường trú của chính mình, Ngài gạn hỏi ông A Nan bảy lần về
bản tâm. Ông A Nan tuy theo chân Đức Phật suốt hai mươi bảy năm
và được Phật khen ngợi là đệ nhất đa văn, nhưng ông chỉ thích
học rộng nghe nhiều, cố thu góp kho tàng Phật pháp mà không chịu
tu chứng. Vì chưa chứng đắc Thánh quả, ông A Nan chưa phá nổi
nhân không nên ông vẫn còn chấp ngã, chấp tướng, tâm chưa được
thanh tịnh, rỗng rang như các vị A la hán. Bởi tâm còn chấp nên
Đức Phật sau bảy lần gạn hỏi bản tâm là cái gì và ở đâu, ông chỉ
dùng trí thức phàm nhân mà trả lời. Thâm ý của Đức Phật là muốn
hỏi về chơn tâm, Phật tánh trong khi ông A Nan lại dùng vọng tâm
sinh diệt mà đáp lại.
Đức Phật đưa ra bảy chỗ gạn hỏi là có ý muốn đưa A Nan thẳng đến
chỗ tự ngộ vì thế lời Phật giảng giải chẳng phải chân lý. Tại
sao? Đức Phật chỉ dùng phương tiện tức là dùng thuốc giả để trị
bịnh giả của A Nan bởi vì những kiến chấp của A Nan là không
đúng và lời phá chấp của Phật cũng không phải là chân lý. Thí dụ
như khi ông A Nan nói tâm ở trong thân, ở ngoài thân, tâm không
dính dáng thì thật ra không phải có chỗ chẳng đúng hay chẳng
sai. Do đó khi A Nan chấp tâm ở trong thân thì Phật bác không
phải ở trong. A Nan bèn chấp tâm ở ngoài thân thì Phật lại bác
không phải ở ngoài. Tuy phá chấp của A Nan, nhưng lời phá chấp
của Phật cũng không phải là chân lý. Tại sao? Vì tự tánh, chơn
tâm vốn là cùng khắp cho nên nếu Phật nói tâm không phải ở trong
thân nghĩa là tự tánh không cùng khắp, hoặc nếu Phật cho rằng
tâm không ở ngoài thân thì tự tánh cũng không cùng khắp. Nhưng
vì A Nan chấp tâm phải nhất định ở một chỗ nên Phật mới bác. Nếu
bệnh chấp chưa hết thì không những bảy chỗ mà A Nan có thể đưa
ra vô số chỗ. Còn nếu bệnh chấp đã hết thì một chỗ cũng chẳng
có, nói gì đến bảy chỗ.
Trong Nhiếp Đại Thừa luận có câu chuyện “Kẻ mù rờ voi”. Người rờ
nhằm cái chân thì nói con voi như cột nhà, người rờ nhằm lỗ tai
thì nói con voi như cái quạt, còn người khác rờ nhằm cái đuôi
thì nói con voi như cây chổi quét nhà…Do đó nếu những người mù
kia không thấy được chân tướng của con voi, cho dù có rờ trúng,
thì họ nói cách nào cũng sai cả.
Vậy nên biết nếu con người chưa ngộ được thể tánh chơn tâm thì
cho dù nói cách nào cũng sai cả.
|
|