Nhân duyên vốn từ chúng
sinh mà đến bởi vì nếu không có chúng sinh thì không có Phật, mà
không có Phật thì cũng không có giáo Pháp. Vì thế Phật có thuyết
pháp cũng vì chúng sinh và nhân duyên là để khiến cho chúng sinh
được liễu sinh thoát tử. Do đó trong kinh Pháp Hoa dạy rằng :
“Phật vi nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế” nghĩa là Phật
là một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Đại sự mà Phật muốn
nói ở đây là gì?
Phải chăng đó là sự sinh tử
của mỗi chúng sinh. Chính trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp
Hoa có dạy rằng : Chư Phật chỉ do một đại sự nhân duyên mà xuất
hiện ở thế gian. Đó là muốn cho chúng sinh “khai thị ngộ nhập
Phật tri kiến”. Nhưng khai thị Phật tri kiến là gì? Đó là trong
tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng có đầy đủ tri kiến Phật, là
trí tuệ bổn lai đều giống như Phật. Vậy Phật tri kiến mà Đức
Phật muốn nói ở đây chính là chơn tâm, là Phật tánh thường có
vĩnh hằng, nhưng vì bị vô minh che lấp nên con người không thấy
biết nó. Cái bổn tánh này ví như mỏ vàng đang đợi khai phá, chưa
được hiển lộ. Vì thế Đức Phật muốn chúng sinh khai mở tri kiến
Phật để có sự thanh tịnh, an lạc ngay trong thế giới, cõi đời có
tan có hợp này. Cũng ví như vàng ròng còn trộn lẩn với đất cát
sỏi đá, Phật tánh và phiền não cũng vậy. Phiền não còn, Phật
tánh biến mất cho nên nếu chúng sinh hóa giải được một phần
phiền não thì có được một phần Bồ-đề. Mà có Bồ-đề là có
giác ngộ.
Có tất cả sáu nhân duyên khiến cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
thuyết kinh Thủ Lăng Nghiêm :
1) Thị Đa Văn, Hốt Định Lực: nghĩa
là cậy vào đa văn mà xao lãng định lực : Tôn giả A Nan làm thị
giả Đức Phật trên 25 năm và được nổi danh là đệ nhất đa văn vì
sau mỗi pháp hội Ngài đều ghi nhớ những lời Như Lai một cách tự
nhiên, sâu thẳm tuyệt vời. Tuy là người học rộng, biết nhiều,
nhưng A Nan rất thờ ơ không xem trọng việc tu dưỡng định lực.
Hằng ngày Ngài không dụng công tham thiền mà chỉ chuyên học kinh
xem sách nên định lực rất kém. Học kinh xem sách chỉ là Văn tự
Bát Nhã mà không tu tập Thực tướng Bát Nhã thì không bao giờ
giác ngộ được. Vì thế khi đối diện với tà chú Saticala là Ngài
bị nàng Ma đăng già hớp hồn ngay. Ngoài ra, Ngài có lòng ỷ lại
rằng mình là anh em chú bác của Phật thì nhất định Phật sẽ giúp
Ngài thành Phật, cho nên có tu hay không cũng không thành vấn
đề. Vì ỷ nại như thế nên Ngài không ngồi thiền, mà không tham
thiền, không dụng công thì không bao giờ có định lực.
2) Cảnh Cuồng Huệ, Hộ Tà Dư: nghĩa
là cảnh cáo những kẻ thông minh thiên phú, nhưng cậy vào trí óc
khôn ngoan của mình để mưu điều bất chánh. Những người có tâm
“cuồng huệ” thường làm những việc ngược ngạo, điên đảo, không
chánh đáng, nhưng họ vẫn cố chấp cho rằng những việc làm của
mình là đúng. Vì thế kinh Lăng Nghiêm sẽ là lời cảnh cáo giúp họ
thức tỉnh, sửa đổi lỗi lầm, đi theo con đường chánh đạo, quay về
sống với tư tưởng chân chính và loại bỏ những ý đồ gian ác xấu
xa. Do đó, cổ nhân có dạy rằng :
“Thiện dục nhân kiến, bất thị chân thiện” nghĩa là nếu con người
tuy có làm việc thiện mà cứ đem rêu rao, muốn cho mọi người đều
biết tới thì đó không phải là chân chánh làm việc thiện mà chỉ
ham cái danh “thiện” mà thôi.
“Ác khủng nhân tri, tiện thị đại ác” nghĩa là đã làm việc ác mà
cố tình che đậy, sợ mọi người biết được thì đó nhất định là việc
đại ác.
Vì vậy nếu chúng sinh đừng chấp việc làm của mình, lìa xa hai
bên, không thiện không ác, tâm trở về tự tánh thanh tịnh bản
nhiên thì lúc đó sẽ được “như như bất động, liễu liễu thường
minh”.
3) Chỉ Chân Tâm, Hiển Căn Tánh: Kinh Thủ Lăng Nghiêm là
bộ kinh thuộc loại đốn giáo. Đó là trực chỉ nhân tâm, kiến tánh
thành Phật. Bộ kinh này là nói về “tánh thấy” tức là “kiến tánh”
để giúp chúng sinh quay về sống với chơn tâm thường trú và thể
tánh tịnh minh của chính mình. Nói cách khác kinh Lăng Nghiêm là
chỉ ra chơn tâm vốn có và làm hiển lộ căn tánh bổn nhiên của mỗi
chúng sinh.
4) Thị Tánh Định, Khuyến Thực Chứng:
nghĩa là thị hiện tánh định và khuyến khích sự thực chứng. Pháp
môn tu định có rất nhiều loại và dĩ nhiên không nhất thiết chỉ
có Phật giáo mới dạy pháp môn này mà ngay cả ngoại đạo cũng dạy
tu định. Nhưng sự khác biệt ở đây là đạo Phật chỉ dạy chúng sinh
tu chánh định, chớ không tu tà định bởi vì đối với việc tu định
thì hễ “sai một ly, đi một dặm”. Trên bước đường tu hành, hành
giả sẽ đối diện với biết bao ma chướng và nghiệp chướng. Trong
kinh này, Đức Phật dạy tu “năm mươi loại ấm ma” để giúp cho hành
giả tăng trưởng công phu, vun bồi định lực để khai tâm mở tánh
mà có “hoát nhiên đại ngộ”.
5) Tiêu Đảo Tưởng, Trừ Tế Hoặc : Đại định Thủ Lăng Nghiêm
là pháp môn hy hữu, hiếm có nhất ở thế gian vì nó có thể tiêu
diệt muôn ngàn ức kiếp những tư tưởng điên đảo, không chánh đáng
làm tâm bất tịnh. Thật vậy, kinh này có công năng tiêu trừ những
tư tưởng điên đảo từ vô thỉ đến nay của tất cả mọi chúng sinh mà
không cần phải trải qua ba tăng kỳ trăm ngàn ức kiếp. Kinh còn
tiêu trừ ngay cả những mối nghi vi tế mà mắt thường không thấy
được, tai không nghe được và tâm không nghĩ ra được. Hễ chúng
sinh khởi một niệm bất giác thì liền có ba loại tế hoặc nảy
sinh. Dẹp bỏ những tư tưởng điên đảo và loại trừ các mối nghi
hoặc vi tế là nhân duyên thứ năm của kinh vậy.
6) Minh Nhị Môn, Lợi Kim Hậu : Kinh Lăng Nghiêm giới
thiệu Bình đẳng môn và Phương tiện môn. Bình đẳng là Thực pháp,
là Nhất tâm vạn pháp nghĩa là vạn pháp thì bình đẳng nhất tướng,
vốn không sai khác. Còn Phương tiện môn là Quyền pháp nghĩa là
quyền biến, không phải thật, là phương tiện để dẫn vào Thực
pháp. Cho nên Quyền pháp là giáo pháp tạm thời trong khi Thực
pháp mới là giáo lý vĩnh viễn không thay đổi.
Vì có sáu nhân duyên đó nên Đức Phật mới thuyết kinh Lăng
Nghiêm, vậy thời điểm nào kinh được ra đời?
Tôi nghe như vầy : Lúc bấy giờ tại tịnh xá Kỳ Hoàn trong
thành Thất La Phiệt, Đức Phật cùng với một ngàn hai trăm năm
mươi vị đại A La Hán đến tham dự. Chúng tỳ kheo đều là những vị
đại A La Hán đạt đến vô lậu, vượt qua các cõi, theo Đức Phật
chuyển pháp luân, giữ giới luật tinh nghiêm, làm mô phạm cho tam
giới, ứng hiện vô số thân để hóa độ chúng sinh trong đời vị lai
và cứu giúp họ vượt khỏi mọi ràng buộc của trần lao. Đứng đầu là
tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền Liên, tôn giả Câu Si Na,
tôn giả Phú Lâu Na, tôn giả Di Đa La Ni Tử, tôn giả Tu Bồ Đề và
tôn giả Ưu bà Ly. Ngoài ra còn có hàng Bích Chi Phật, Vô học và
hàng sơ phát tâm đồng đến chỗ Phật.
Trong suốt bốn mươi chín năm hoằng pháp, Đức Phật chỉ dùng khẩu
thuyết chớ không viết kinh cho nên trước khi Thế Tôn nhập diệt,
ông A Nan có bạch với Phật rằng : “Khi kết tập kinh điển, đầu
kinh nên để câu gì?...” Phật dạy rằng : “Tôi nghe như vầy, trong
lúc ấy Phật ở nơi nào… có bao nhiêu thính chúng là bậc nào…” Vì
thế kinh Thủ Lăng Nghiêm này ghi chép lại những lời Phật dạy ở
tịnh xá Kỳ Hoàn, thành Thất La Phiệt… và thính chúng có 1250 vị
đại A La Hán… Do đó, bốn chữ “Tôi nghe như vầy” tức là
“Như thị Ngả văn” của Hán tự ở đầu mỗi bộ kinh là lời của ông A
Nan ghi theo di chúc của Phật để minh xác rằng kinh nầy là chính
ông nghe Phật nói, chớ không phải ông tự ý đặt ra. Nhắc lại,
trong lần kết tập kinh điển lần thứ nhất, khi tôn giả A Nan tụng
thuật lại tất cả kinh điển thì trong hàng đại chúng có 500 vị
đại A La Hán nghe qua. Nếu có câu nào không đồng ý thì đại chúng
lên tiếng ngay, còn bằng lòng thì im lặng.
A La Hán là quả vị thứ tư của hàng Thanh Văn. Một khi diệt được
mọi kiến hoặc, tư hoặc ngay cả vi tế hoặc tức là đã diệt được
phiền não chướng để tâm được hoàn toàn thanh tịnh thì tự mình
giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi và chứng được Niết Bàn.
Nhưng đây chỉ là hóa thành tức là tiểu Niết Bàn nghĩa là nơi
dừng nghĩ tạm thời chớ chưa phải là hoàn thành Phật đạo. Các vị
A La Hán phải tiếp tục chuyển sang Đại thừa, tu theo Bồ-tát vạn
hạnh thì Niết Bàn đó mới gọi là bảo sở nghĩa là đây mới là Niết
Bàn hoàn toàn, chân thật. Các vị A La Hán có đủ những đức tính
như sau :
- Ứng cúng : là đem trí tuệ và đạo lý đã chứng mà cung cấp, cúng
dường cho tất cả chúng sinh. Đây là quả Khất sĩ.
- Sát tặc : là giết hết giặc phiền não. Đây là quả Phá Ác.
- Bố ma : là thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, ra khỏi nhà tam
giới.
Bích Chi Phật là quả vị độc giác dành cho những người sinh
ra vào thời không có Phật nên tu quán theo pháp Thập Nhị Nhân
Duyên mà chứng quả Duyên Giác.
Giới luật của Phật giáo được chia làm hai loại:
1) Giới Tỳ Kheo là giới Tiểu thừa: Các vị Tỳ kheo phải thọ 250
giới căn bản và các vị Tỳ kheo ni phải thọ 348 giới.
2) Giới Bồ-tát là giới Đại thừa.
Giới Tiểu thừa của hàng Thanh văn là giữ “thân” không phạm tức
là thân giới trong khi đó giới Đại thừa của Bồ-tát thì giữ “ý”
không phạm tức là ý giới. Bây giờ hãy lấy giới tà dâm làm thí
dụ: Khi có một cô gái trẻ đẹp đi ngang qua. Nếu dựa theo giới
Tiểu thừa thì người Tỳ kheo chỉ phạm giới khi nào vị nầy đụng
hay xâm phạm đến cô ta, ngược lại dựa theo Bồ-tát giới thì không
nhất thiết vị tu hành đụng hay xâm phạm đến nữ phái mới gọi là
phạm giới mà trong tâm tưởng của vị nầy không trong sạch, khởi ý
niệm tà dâm thì vị nầy đã phạm giới rồi.
Một ngày nọ có một vị tu hành lên đò để sang sông. Ngặc nổi cô
lái đò lại rất trẻ đẹp nên vị sư nầy cứ lấm liếc nhìn cô ta. Khi
sang bến, thay vì phải trả tiền đò như những người khác, cô lái
đò đòi tiền vị tu sĩ gấp đôi. Ngạc nhiên, vị tu sĩ hỏi:
- Tại sao thí chủ lại tính tiền tôi nhiều gấp đôi vậy?
Cô lái đò đáp:
- Khách đi đò thì họ
chỉ đi đò nên tôi tính tiền có một, còn Ngài thì vừa đi đò vừa
ngắm nghía tôi nên tôi phải tình tiền gấp đôi.
Sau khi hoàn thành Phật sự vị tu sĩ phải trở lại bến đò để về
chùa, nhưng lần nầy vị tu sĩ lấy nón che mặt lại khi sang sông.
Khi đến bến thay vì chỉ trả một đồng tiền đò thì cô lái đò lại
đòi đến bốn đồng. Quá đỗi ngạc nhiên, vị tu hành hỏi :
- Tại sao thí chủ lại đòi
tiền tôi quá nhiều thế?
Cô lái đò đáp :
- Khi qua sông thì Ngài chỉ
lấy mắt nhìn tôi nên tôi đòi tiền gấp đôi, bây giờ trở về Ngài
không nhìn tôi bằng mắt mà Ngài nhìn tôi bằng tâm tưởng. Cái
nhìn của mắt thì có giới hạn nên tôi chỉ đòi hai đồng còn tâm
tưởng thì vô biên vô lượng, ai biết Ngài đang nghĩ gì hay muốn
làm gì nên tôi phải đòi tiền gấp bốn lần là như vậy.
Lúc bấy giờ nhằm ngày mãn hạ và tự tứ của chúng tăng, vì thế
Bồ-tát trong mười phương cũng đến xin Phật giải quyết mọi nghi
hoặc trên đường tu tập. Đức Phật trải pháp tòa, ngồi khoan thai
vì đại chúng trong hội khai thị pháp chưa từng có, nghĩa lý thâm
sâu, diệu âm thuyết pháp như tiếng chim ca lăng tần già vang
khắp mười phương thế giới. Đứng đầu chúng Bồ-tát là Đại Trí Văn
Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ-tát.
Mùa hè ở Ấn Độ thì rất nóng mà lại mưa nhiều nên phái nữ thường
mặc quần áo đơn sơ, không kín đáo, trong khi đó các Tỳ kheo lại
đi chân đất, dễ dẫm lên các loại côn trùng, sâu bọ nên đức Phật
chế ra luật kiết hạ cấm túc tất cả Tỳ kheo phải kiết hạ 90 ngày,
không được ra ngoài. Trong thời gian kiết hạ Phật tử đem vật
thực lại tịnh xá cúng dường.
Mãn hạ tự tứ là quy tắc được chính đức Phật chế định cho nên
trong ba tháng đó chư tăng lo tham thiền niệm Phật, tu học mà
không gặp được Phật. Vì thế nhân ngày mãn hạ chư vị cùng nhau
đến chỗ Phật. Nếu ai có lỗi lầm gì thì thỉnh cầu chư Tăng chỉ
lỗi và Phật vì họ mà tác pháp sám hối. Pháp nầy gọi là yết ma.
Đối với các chùa thì ba ngày cuối hạ tự tứ là những ngày chư
Tăng kiểm điểm bản thân mình có phạm giới không? Nếu có người
thấy biết hay nghi mình phạm giới thì phải sám cho hết những tội
nghiệp đó.
Kinh điển Phật giáo có hai loại. Khi Đức Phật thuyết pháp do lời
thỉnh cầu của đại chúng mới có vấn đáp thì gọi là kinh. Đó là
những bộ như kinh Kim Cang, kinh Duy Ma Cật, kinh Pháp Hoa, kinh
Thủ Lăng Nghiêm… Còn loại kinh thứ hai là do Phật tự ý nói ra
thì đề tựa kinh phải có chữ “Phật thuyết”. Đó là kinh Vô Lượng
Thọ, A Di Đà… Tiếng thuyết pháp của Phật là diệu âm nghĩa là
tiếng thuyết pháp vang khắp mười phương thế giới chớ không phải
nhất thiết chỉ ở trong hội Lăng Nghiêm và Đức Phật vì đại chúng
mà khai thị pháp chưa từng có, chưa từng nghe nên gọi là nghĩa
lý thâm sâu.
Khi ấy, vua Ba Tư Nặc nhân ngày kỵ giỗ của phụ vương nên làm
lễ trai tăng, sắm đủ các món ăn quý báu và đích thân đến thỉnh
Phật cùng chư Đại Bồ-tát vào cung thọ trai. Trong thành còn các
vị trưởng giả, cư sĩ khác cũng thiết lễ trai tăng, mong được
thỉnh Phật đến cúng dường. Đức Phật bảo Ngài Văn Thù phân chia
các vị Bồ-tát và A La Hán đến nhà trai chủ dự lễ cúng dường. Duy
có ông A Nan đã được mời riêng, đi xa chưa về nên không kịp dự
vào hàng tăng chúng.
Vua Ba Tư Nặc chẳng những là một vị vua rất anh minh, một đại cư
sĩ mà Ngài còn là một vị hộ pháp rất thuần thành trong thời Đức
Phật còn tại thế. Ngài cai trị nước Câu Tát La có kinh thành là
Xá Vệ. Có một điều kỳ diệu là nhà vua sanh ra cùng một ngày với
Đức Phật. Được sinh ra trong thời Đức Phật là một phước báu rất
lớn mà được sinh ra cùng một ngày với Đức Phật thì phước đức to
lớn biết bao nhiêu. Nhưng đây không phải là chuyện ngẫu nhiên mà
có, bởi vì trong những đời quá khứ cách thời Đức Phật Thích Ca
tại thế mười ngàn kiếp có Đức Phật hiệu là Long Vương Quang Như
Lai. Lúc ấy có hai Tỳ kheo cùng tu theo Bồ-tát đạo. Một vị đắc
được tứ địa Bồ-tát (tiền thân vua Ba Tư Nặc) và vị kia chứng
được bát địa Bồ-tát (tiền thân Phật Thích Ca). Do đó khi Thái tử
Tất Đạt Đa đắc thành Phật quả thì có rất nhiều Bồ-tát trong mười
phương thế giới hóa thân hộ pháp.
Trong kinh nầy vị Bồ-tát tứ
địa hóa thân làm vua Ba Tư Nặc để giúp đỡ Phật Thích Ca. Cũng
trong thời Đức Phật Thích Ca cũng có cư sĩ Duy Ma Cật là vị đại
Bồ-tát từ thế giới Diệu Hỉ hóa thân làm ông trưởng giả để hộ
pháp cho Đức Thế Tôn. Đức Phật Thích Ca là tấm gương sáng cho
tất cả mọi người đặc biệt là chúng xuất gia, còn ông Duy Ma Cật
là tấm gương sáng cho chúng tại gia. Vì thế trong thế giới ngày
nay, có rất nhiều Bồ-tát tùy duyên hóa thân làm cư sĩ, làm vua,
làm bác sĩ, làm thợ, làm người nghèo khổ, làm người bệnh tật hay
làm trăm ngàn nghề nghiệp khác nhau nhưng chỉ có một mục đích là
cứu độ và giúp chúng sinh giữ gìn chánh pháp, tu theo chánh pháp
và sống đúng với chánh pháp để có cuộc sống an vui tự tại và
giải thoát giác ngộ. Ngay cả Đức Phật Thích Ca khi còn tu Bồ-tát
trong thế giới của Ca Diếp Như Lai có danh xưng là Thiện Huệ
Bồ-tát và khi Ngài còn ở cung trời Đạo Lợi trước khi nhập thai
hóa thân thành Thái tử Tất Đạt Đa có danh xưng là Hộ Minh
Bồ-tát.
Lúc ấy, A Nan đi một mình trên đường về chẳng có thượng tọa
và A Xà Lê cùng đi và không có ai cúng dường nên trong tâm mong
gặp vị trai chủ sau cùng. Khi trước, A Nan đã từng nghe đức Phật
quở hai tôn giả Đại Ca Diếp và Tu Bồ-đề về pháp khất thực không
bình đẳng. Ngài Đại Ca Diếp chuyên chọn khất thực nhà nghèo
trong khi đó thì tôn giả Tu Bồ-đề chuyên chọn khất thực nhà
giàu. A Nan quyết tuân theo pháp bình đẳng bất nhị của Như Lai.
Đó là đối với trai chủ, không kể quý tộc hay hèn hạ, ngay cả
thức ăn dơ sạch phải phát tâm từ bi để giúp chúng sinh thành tựu
gieo trồng vô lượng công đức. A Nan nghĩ như vậy nên tay ôm bình
bát, đi từng nhà dọc theo đường phố, oai nghi nghiêm chỉnh và
đúng pháp mà khất thực.
Theo giới luật vị Tỳ kheo sau khi thọ giới mỗi năm kiết hạ thì
được một tuổi hạ. Được 9 tuổi hạ thì gọi là Hạ tọa. Từ 10 đến 19
tuổi hạ thì gọi là Trung tọa. Từ 20 đến 29 tuổi hạ được gọi là
Thượng tọa. Và sau cùng từ 30 tuổi hạ trở lên thì gọi là Trưởng
lão. Nhưng Phật giáo Việt Nam không có Hạ tọa và Trung tọa mà
cách xưng hô cũng khác hẳn. Vị Tăng thấp nhất thì gọi là Đại
đức, trên nữa là Thượng tọa (40-60 tuổi đời) và cao nhất là Hòa
thượng (trên 60 tuổi đời).
A Nan lúc đi khất thực, nhưng tâm lại khởi vọng niệm là phải
khất thực đúng theo tinh thần bình đẳng. Tôn giả Đại Ca Diếp chỉ
khất thực nhà nghèo mà không khất thực nhà giàu bởi vì Ngài quan
niệm rằng mặc dù chúng sinh giàu nghèo sống trong thế gian đều
đáng thương xót, nhưng những người nghèo thì đáng thương hơn.
Theo Ngài thì người nghèo khổ cần nhiều an ủi hơn vì cuộc đời họ
đã chuốc quá nhiều cay đắng. Biết bao người đầu tắt mặt tối mà
cơm không đủ no, áo không đủ ấm. Như thế làm sao họ có điều kiện
bố thí để thay đổi cuộc đời? Những người mà kiếp này được giàu
sang phú quý là do phước đức mà họ đã rộng tâm bố thí từ tiền
kiếp nên ngày nay họ thọ báo được sống trong nhung lụa hạnh
phúc. Vì lòng thương xót và tâm từ bi khiến ông Đại Ca Diếp chỉ
đến nhà nghèo tạo duyên lành cho họ bố thí để ngày sau có cuộc
sống hạnh phúc hơn. Nhưng quan trọng hơn là giúp họ gieo duyên
với Phật pháp, bồi dưỡng công đức để có cuộc sống an vui tự tại
và sau cùng tiến về giải thoát giác ngộ.
Ngược lại với tôn giả Đại Ca Diếp, tôn giả Tu Bồ-đề chỉ đi khất
thực nhà giàu mà không bao giờ đến nhà người nghèo. Tôn giả quan
niệm rằng người nghèo khổ thì chính họ nuôi lấy bản thân hay gia
đình rất là khó khăn, vất vả, lấy đâu có vật thực dư mà cúng
dường đến các chư Tăng. Mặc dù lòng họ có dư muốn phát tâm cúng
dường mà sức không đủ. Trong khi đó đối với người giàu có, một
bữa cơm cúng cho chư Tăng thì không có gì đáng kể. Thêm nữa,
người càng giàu thì càng bận rộn với việc kinh doanh buôn bán
nên không có thì giờ nghe kinh học pháp, tu tâm dưỡng tánh. Tôn
giả biết rằng phước đức thế gian như tên bắn trong không trung,
lên cao rồi có lúc rơi xuống đất. Vì thế những người ngày nay
giàu sang phú quý mà không gieo duyên lành, rộng tâm bố thí thì
khi phước cạn đức tan chắc chắn đời sau phải thọ sanh vào cảnh
bần cùng đói khổ. Do đó tôn giả thương xót cho người giàu và
giúp họ có cơ hội phát tâm từ bi bố thí, bồi dưỡng phước đức cho
ngày sau và sau cùng gieo duyên với Phật pháp mà có được giải
thoát tự tại.
Như thế tuy hai tôn giả có hai quan niệm khác nhau, nhưng tựu
trung vẫn nhắm vào một mục đích giúp chúng sinh tăng trưởng
phước đức và sau cùng có cơ hội bồi dưỡng công đức để cùng hướng
về cứu cánh tối thượng là giải thoát giác ngộ.
Tuy A Nan là thị giả của Phật và nổi tiếng là đệ nhất đa văn,
nhưng ông chưa chứng được thánh quả nên vọng tưởng lúc nào cũng
dấy khởi. Đối với bậc thánh, khi đi khất thực thì tâm thức của
họ rất thanh tịnh, không bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp làm
phát khởi vọng niệm. Ngược lại, một người không có tâm thanh
tịnh thì chắc chắn dễ bị ngoại trần quyến rũ.
Một bất trắc xảy đến không ngờ, lúc A Nan đang đi khất thực
ngang nhà nàng Ma-Đăng-Già, một cô gái làng chơi, bị nàng dùng
tà chú Phạm Thiên của đạo Satìcala bắt ông vào phòng riêng, diễn
trò má tựa vai kề, nâng niu âu yếm, làm cho ông gần mất giới
thể.
A Nan là anh em chú bác với Đức Phật. Ông là con của Bạch Phạn
Vương (Amitodama) là em của vua Tịnh Phạn. Khi Đức Phật trở về
cung thành Ca-tỳ-la-vệ thăm lại gia đình sau khi Ngài thành Phật
thì vương tử A Nan vừa mới ngoài hai mươi. A Nan thấy Đức Phật
phạm hạnh quá trang nghiêm và có hào quang tỏa sáng toàn thân
nên cảm mến mà xuất gia. Như vậy rõ ràng ông A Nan xuất gia với
tâm niệm không chân chánh bởi vì cứu cánh duy nhất của một người
xuất gia chân chính là giải thoát giác ngộ, tự độ rồi độ tha chớ
không phải xuất gia để có thân đẹp và có hào quang sáng chói.
Trước khi xuất gia, vương tử A Nan rất đẹp trai nên đã làm siêu
lòng biết bao công nương trong hoàng tộc. Biết bao công nương mơ
ước có cơ hội được nâng khăn sửa áo cho Ngài. Sau khi xuất gia
theo Phật, mặc dù bây giờ là một Tỳ kheo, A Nan vẫn còn dáng vẻ
thanh tú và đẹp trai nên trong tăng đoàn có rất nhiều Ni cô đem
lòng thầm yêu trộm nhớ. Ngay cả Đại Trí Văn Thù Bồ-tát cũng khen
A Nan bằng bài kệ như sau :
Tướng như trăng thu đầy
Mắt biếc tợ sen xanh
Phật pháp rộng như bể
Đều rót vào tâm A Nan
Một hôm A Nan đang đi khất thực trong thành Xá Vệ đang độ mùa hè
quá nóng nực, oi bức làm ông cảm thấy rất khát nước. Khi ông đi
ngang qua một giếng nước, nơi đây có một cô gái đang dùng một
sợi dây thừng để kéo nước từ dưới đáy giếng lên. Thấy cô gái ông
nói :
- Thưa thí chủ! Xin thí chủ từ bi vui lòng cho tôi xin gáo
nước.
Cô gái quay lại nhìn A Nan mà lòng sững sờ vui sướng vì nàng
nhận ra Tỳ kheo A Nan chính là vương tử đẹp trai nhất thời bấy
giờ. Nàng mắc cở, e thẹn, cúi đầu mà thưa với A Nan rằng :
- Kính bạch Đại Đức! Không phải
con tiếc một gáo nước với Ngài, nhưng con thuộc dòng hạ tiện Thủ
Đà La nên không có tư cách cúng dường gáo nước cho Ngài.
Tỳ kheo A Nan nhìn cô gái với lòng thương xót mà nói rằng :
- Này thí
chủ! Tôi không phải là vương tử mà chỉ là một người tu hành nên
trong tôi không có ý niệm phân biệt sang hèn cao thấp. Vậy xin
thí chủ vui lòng cúng dường cho tôi một bát nước.
Lời nói từ bi của A Nan đã làm cho cô gái tăng thêm sức mạnh mà
quên đi thân phận thấp hèn của mình nên mạnh dạn đem bát nước
đến cúng dường cho Đại Đức A Nan. A Nan uống xong, ban lời chúc
lành và lặng lẻ bước đi.
Cô gái nhìn theo dáng anh tuấn và vẻ đẹp trai của A Nan mà lòng
cô thiếu nữ dâng lên một ngọn sóng tình cao vút.
A Nan chẳng những có dáng dấp thanh tú mà lời nói lại hiền hòa
trang nhã thì làm sao cô gái kia không đem lòng yêu mến. Cô gái
mắc phải bệnh tương tư, dần dần bỏ ăn mất ngủ, hình dáng tiều
tụy xanh xao, ngày đêm chỉ tưởng nhớ đến hình bóng của A
Nan.
Mẹ của thiếu nữ tra hỏi mới biết con gái mình thầm yêu trộm nhớ
A Nan nên bà biến sắc thất kinh. Bởi vì trong xã hội Ấn Độ lúc
bấy giờ một người thuộc dòng Sát Đế Lợi (vua chúa) như A Nan
không bao giờ chấp nhận cưới một nàng dâu thuộc dòng hạ tiện Thủ
Đà La. Nhưng tấm lòng thương con vô bờ bến của người mẹ không
thể nào đứng nhìn con mình chết dần chết mòn vì chứng bệnh tương
tư. Bà bất chấp mọi nguy hiểm và đem tất cả tài sản của mình mua
cho được tà chú Phạm Thiên của đạo Satìcala để giao lại cho con
mà hoàn thành ước nguyện. Thời Ấn Độ lúc Đức Phật còn tại thế,
có tới 96 đạo phái khác nhau mà trong số đó có rất nhiều đạo
chuyên về tà thuật. Ngày nay tại Thái lan, Ấn Độ, Campuchia vẫn
có rất nhiều vị thầy pháp chuyên bán những bùa mê, ngãi yêu, bùa
kêu người thân trở về… Nhiều vị còn luyện cả thiên linh cái (đầu
lâu của con nít chết trong bụng mẹ) để coi bói vì vị thầy pháp
nầy có thể điều khiển vong linh vào nhà thân chủ xem xét và mách
lại cho họ nên họ nói cái gì cũng trúng.
Khi có được tà chú trong tay, bà mẹ bèn giao lại cho con và dặn
rằng :
- Này con! Khi nào thấy Đại Đức A Nan đi khất thực ngang
qua nhà mình thì con dùng thần chú nầy để thu nhiếp thân tâm A
Nan, rồi dẫn vào phòng để cho con được thỏa mãn lòng mơ ước.
Vì duyên cớ nầy mà khi A Nan đến khất thực trước nhà liền bị
nàng Ma-Đăng-Già dùng chú thuật bắt ông vào phòng, diễn trò má
tựa vai kề, nâng niu âu yếm, làm cho ông gần mất giới thể.
A Nan lúc bấy giờ chưa chứng Thánh quả A La Hán nên không thể
tiêu diệt hoàn toàn tất cả những ý niệm về sắc dục vì thế ông
mới bị tà chú lôi cuốn vào con đường tội lỗi. Chỉ có các vị A La
Hán tâm mới hoàn toàn thoát ly ra khỏi mọi ý niệm sắc dục, ngay
cả ý niệm rất vi tế cũng không còn.
Ông A Nan gần mất giới thể cho thấy một khi vô minh ái dục chợt
đến bất ngờ làm con người mất tự chủ cũng bởi vì tâm ông không
định. Đến khi được Bồ-tát Văn Thù đem thần chú hóa giải thì vô
minh biến mất, ái dục tiêu tan. Do đó thức tỉnh là giác còn vô
minh là mê tức là giác sanh thì mê diệt nghĩa là ánh sáng trí
tuệ đến thì màn đêm hắc ám vô minh sẽ tan biến.
Đức Phật biết ông A Nan đang mắc nạn Ma-Đăng-Già đến lúc nguy
cấp nên khi vừa thọ trai xong, Ngài liền trở về tịnh xá Kỳ Hoàn.
Sự kiện bất thường nầy làm cho vua, quan, trưởng giả và rất đông
cư sĩ cùng theo Phật về tịnh xá với hy vọng sẽ được Phật
dạy cho những pháp yếu mới lạ nào chăng.
Bấy giờ, đảnh đầu của Thế Tôn phóng ra hào quang bách bửu vô úy.
Trong hào quang ấy hiện ra hoa sen báu nghìn cánh, trên đó có
hóa thân Phật đang ngồi kiết già, tuyên thuyết thần chú Thủ Lăng
Nghiêm :
“Án A Na Lệ Tỳ Xá Đề, Bệ Ra Bạt Xà Ra Đà Rị. Bàn Đà Bàn Đà Nễ.
Bạt Xà Ra, Bàn Ni Phấn, Hổ Hồng Độ Rô Ung Phấn, Tóa Bà Ha”.
Đức Phật dạy Ngài Văn Thù Sư Lợi đem thần chú đến cứu A Nan,
khiến cho tà chú kia liền tiêu diệt, rồi dẫn A Nan và
Ma-Đăng-Già về chỗ Phật.
Đối với người Phật tử thì ý nghĩa đoạn kinh nầy rất sâu sắc. Ông
A Nan là đệ nhất đa văn, học rộng nhớ nhiều, biển pháp đều rót
vào tai của Ngài thì tại sao không thoát ra khỏi nạn dâm nữ
Ma-Đăng-Già mà phải đợi đến thần chú Lăng Nghiêm thì dâm hỏa mới
tan, sông ái mới cạn mà giúp ông thoát nạn? Điều này chứng minh
rằng, tuy một người có nắm trong tay tất cả bí mật vi diệu của
Như Lai cũng không bằng một ngày tu vô lậu nghiệp. Thật vậy, cái
kiến thức mà con người có thể nghe học được từ sách vở từ chương
so với cái trí tuệ siêu tuyệt của người tu chứng vốn khác nhau
rất xa. Cái trí thức của kẻ phàm phu và cái trí tuệ thực chứng
của bậc thượng trí có thể ví như đom đóm mà so với trăng rằm
vậy. Cho nên trong thế gian người hữu học (ngay cả Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm và A Na Hàm là những vị đã vào vòng thánh quả nhưng
vẫn còn chịu cảnh sinh tử luân hồi) có rất nhiều, nhưng người vô
học (A La Hán, những vị đã thoát ra khỏi sinh tử luân hồi) thì
rất khó kiếm, rất quý. Vì thế tuy tà pháp có gây sóng gió
và tai ương trong nhất thời, nhưng rồi cũng sẽ bị diệt vong.
Chánh luôn thắng tà cũng như ánh sáng đến thì màn đêm đen tối sẽ
biến mất.
Nàng Ma-Đăng-Già là tượng trưng cho dục vọng, nặng luyến ái đam
mê. Ngược lại Đại Trí Văn Thù biểu tượng cho ánh sáng trí tuệ
cho nên Bồ-tát Văn Thù đem thần chú đến có nghĩa là chỉ có ánh
sáng của lý trí mới có thể rọi vào mà hóa giải dục vọng đen tối
của đam mê. Do đó ái dục là gốc của sinh tử và đại định là nhân
để thành Phật. Cho nên chân vọng tuy hai đường mà Thể vốn chẳng
hai tức là Bất nhị.
Con người có rơi vào sinh tử luân hồi, có ràng buộc trong ngục
tù tam giới cũng bởi tại tâm dâm. Tâm dâm đưa con người vào hố
sâu vực thẳm, không có lối thoát. Người có tâm dâm cho dù có
thiền định cũng sẽ rơi vào đường ma. Vì thế Đức Phật đã khẳng
định rằng : “Nếu không đoạn tâm dâm mà tu thiền định thì chẳng
khác nào nấu cát mà muốn thành cơm, không bao giờ đạt được”. Một
người có tâm dâm tức là vọng tâm điên đảo luôn phát khởi nên tâm
không an, không có định. Vì sao? Bởi vì khi hành giả bắt đầu
tham thiền, tâm từ từ đi vào cõi định thì những hình ảnh về dâm
từ từ xuất hiện từ vi tế đến thô khiến định biến mất. Do đó
trong bốn món thanh tịnh (dâm, sát, đạo, vọng), Đức Phật
dạy về dâm trước nhất. Tóm lại, chúng sinh còn tâm dâm thì khó
mà tu thiền, cho dù nếu có tu thiền thì vẫn rơi vào tà đạo, làm
quyến thuộc của ma và không bao giờ phát sinh trí tuệ để khai mở
con mắt tâm mà giác ngộ chân lý.
|
|