A Nan! Ông còn chưa rõ
tất cả các tướng huyển hóa nơi tiền trần, ngay đó sinh ra, ngay
đó diệt mất, huyển vọng nên gọi là tướng, nhưng tánh chân thật
vốn là thể giác ngộ sáng suốt nhiệm mầu (Diệu giác minh thể).
Như vậy cho đến ngũ uẩn, lục nhập, từ thập nhị xứ cho đến thập
bát giới, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân
duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt. Sao ông không biết sinh
diệt đến đi vốn là Như Lai tạng thường trú sáng suốt nhiệm mầu,
là tánh chân như vi diệu tròn đầy, không lay động. Ở trong tánh
chân thường ấy mà cầu những tướng đến đi, mê ngộ, sinh tử hoàn
toàn không thể được.
Không phải ngày nay con người mới nhức đầu để cố tìm ra câu trả
lời cho vấn đề là “hiện tượng vạn hữu do gì sanh” mà thật ra hễ
có con người là có có câu hỏi này rồi. Từ đó mới phát sinh ra vô
số tôn giáo và triết lý để giải thích dựa theo quan niệm và chủ
kiến của họ. Có tôn giáo cho rằng tất cả nhân sinh vũ trụ này
đều do bàn tay nhiệm mầu của thượng đế tạo dựng. Hễ bất kỳ cái
gì không cắt nghĩa được thì họ dán cái nhãn hiệu thượng đế vào.
Chúng ta đang sống trong thế kỷ thứ 21, thời kỳ mà khoa học gần
như có thể giải thích phần lớn những hiện tượng của nhân sinh vũ
trụ thì những giáo điều này có lẻ không còn thích hợp nữa. Tin
tưởng mù quáng thật ra còn tệ hại hơn là không tin tưởng gì hết.
Còn nếu cho rằng thế gian
vũ trụ tự nhiên có thì lý luận như vậy làm sao đứng vững được
bởi vì không có cái gì trên thế gian mà tự nhiên có được. Không
làm thì làm sao có ăn, không uống nước thì làm sao khỏi khát.
Vậy phải chăng nhân sinh vũ trụ có được là dựa theo thuyết nhân
duyên sinh của đạo Phật? Đó là cái này sinh cái kia sinh và cái
này diệt thì cái kia cũng diệt. Nếu dựa theo thế giới của hiện
tượng tức là thế giới hữu vi thì tất cả mọi vật thể tác dụng lẫn
nhau, trùng trùng duyên khởi mà tác tạo. Thế mà chính Đức Phật
đã khẳng định bác bỏ đây không phải là giáo lý tối thượng liễu
nghĩa. Tại sao?
Vì tất cả sự tác dụng qua
lại này chỉ là thế giới Hiện tượng tức là thế giới sinh diệt
trong khi thế giới của Bản thể tức là thế giới vô vi thanh tịnh
mới chính là cội nguồn phát sinh ra thế giới hiện tượng này. Đó
là Bất biến Tùy duyên nghĩa là từ thế giới Bản thể một khi hội
đủ nhân duyên thì tạo thành con người, thú vật, cây cỏ, núi
sông, nhà cửa, xe cộ, mặt trăng, mặt trời… Nhưng khi duyên tan,
duyên hết thì từ thế giới Hiện tượng trở lại với tự tánh bản thể
ban đầu. Đó chính là Tùy duyên Bất biến. Bởi vậy con người này
chết con người khác sinh, hành tinh này sinh có hành tinh khác
diệt cho nên không có gì thật sinh hay thật diệt cả mà chỉ nằm
trong chu kỳ sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận mà thôi.
Đây cũng là ý nghĩa của chữ
Như Lai Tạng bởi vì Như là bất động, bất biến tức là thể tánh
chơn như, Lai là tùy duyên mà biến hóa tạo tác, còn Tạng là cái
kho chứa những chủng tử, hạt giống để duyên khởi ra bốn khoa vô
cùng vô tận. Nói chung thì tất cả hiện tượng đều là hiện tượng
của bản thể và không bản thể nào ngoài hiện tượng được tuy hai
nhưng mà một tức là Bất nhị. Vì thế Như Lai Tạng còn được gọi
Pháp giới nhất chân. Nhưng để tránh ngộ nhận về chữ nhất chân,
bởi vì nếu có nhất thì phải có hai, có ba…, nên có một danh từ
đặc biệt để gọi Pháp giới Nhất chân mà không còn phân biệt đối
đãi là Pháp giới Bất nhị. Đứng về phương diện thời gian từ vô
thỉ đến vô chung, nếu con người khái niệm tới đâu thì pháp giới
có tới đó. Còn đứng về khía cạnh không gian thì Pháp giới Bất
nhị bao trùm khắp cả mười phương thế giới vô cùng vô tận.
Như Lai Tạng (Tathagata garbha) còn gọi là Như Lai chủng tánh
tức là pháp tánh, là chơn như, là Phật tánh… Tạng là cái kho để
chứa tất cả những chủng tử (hạt giống) của vạn pháp và từ những
chủng tử này mới sinh khởi ra bốn khoa (ngũ uẩn, lục nhập, mười
hai xứ và mười tám giới) và cũng là cái bọc chứa để giấu kín,
che phủ phiền não mê lầm và cũng giấu kín, che phủ Phật tánh là
cái mầm giác ngộ vốn có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Tạng
cũng là chất chứa cho nên Như Lai Tạng là chất chứa mọi công đức
quyền năng của Như Lai, là tất cả pháp do Phật giảng giải kết
hợp lại thành Như Lai Tạng. Vì thế mà Như Lai Tạng cũng là thức
thứ tám tức là A lại da thức.
Đứng về mặt ô nhiễm, Như Lai Tạng là tượng trưng cho thế giới
luân hồi sinh diệt. Còn dựa theo phía thanh tịnh, Như Lai Tạng
là biểu hiện cho Niết bàn giải thoát. Trong Khởi Tín Luận, Như
Lai Tạng được gọi là “pháp giới đại tổng tướng” nghĩa là nhiếp
thâu các pháp của toàn bộ pháp giới gồm có nhiễm và tịnh. Tịnh
là chơn như, nhiễm là vô minh, nhưng chân như và vô minh kết
thành một khối bất khả phân ly trong tâm của chúng sinh. Do đó,
nếu chúng sinh biết tháo gỡ tất cả những sở tri chướng và phiền
não chướng thì sẽ có Niết bàn an lạc, ngược lại nếu chúng sinh
chạy theo tham đắm dục tình thì dĩ nhiên phải chịu sinh tử trầm
luân. Thêm nữa, đứng về mặt tuyệt đối, Như Lai Tạng là chơn như,
là cái tâm bất sinh bất diệt, tâm ấy là tâm nhất thể và nhiếp
thâu tất cả pháp thế gian cũng như xuất thế gian. Còn về mặt
tương đối, Như Lai Tạng gồm có: Tự thể là tương đồng với bản
thể, Tự tướng là cái tướng của tự thể và Tự dụng là công năng
sinh ra nhân quả lành thế gian và xuất thế gian.
Khi nói tâm động thì đây chúng ta muốn nói đến tướng động tức là
Như Lai Tạng động, nhưng tự thể của tâm thì không động. Thí dụ,
vì có gió (phiền não, vô minh) làm cho nước biển (tánh giác) nổi
sóng (tâm thức). Thế thì sóng và gió đều động và không rời nhau,
nhưng tánh nước không động khi gió hết sóng lặn. Do đó nếu tướng
của nước động nên mới có sóng lớn sóng nhỏ nhấp nhô, còn tướng
của tâm tức là Như Lai Tạng thì cũng thế. Nếu tướng của tâm động
thì sóng thức dấy khởi, đợt này tan đợt khác đến liên tiếp mãi
không ngừng nên có tâm sinh diệt (tàng thức). Chính cái tàng
thức (A lại da) thức này sinh ra sinh diệt tâm và cũng từ A lại
da thức này hiển lộ Chân như tâm (Như Lai Tạng).
Tất cả vạn pháp trên thế gian này đều là các tướng huyển hóa nơi
tiền trần. Thí dụ như nhà cửa, xe xộ, mặt trăng, mặt trời, con
người, thú vật, hoa lá, biển rộng, sông hồ, ngay cả khoáng vật
đều là tướng giả huyển. Tại sao? Bởi vì vạn pháp có được là do
duyên sanh đến khi duyên hết thì nó phải bị tan hoại. Con người
của chúng ta cũng thế, trước khi kết tinh thì lục đại (đất,
nước, gió, lửa) không gian và thức mỗi pháp ở mỗi nơi. Sau khi
pháp này dung thông với pháp kia để cùng nhau làm Duyên khởi mà
tạo thành con người. Nhưng mỗi pháp không có tự tánh nên con
người là vô ngã tức là Không. Mà đã là vô ngã thì con người phải
bị hoại diệt của luật vô thường. Vì thế bất cứ vật thể nào có
hình tướng thì phải chịu cảnh sinh diệt nay có mai không nên
kinh mới gọi đó là tướng huyển hóa.
Vì thế trong kinh Kim Cang
Phật đã dạy rằng: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhược
kiến chư tướng, phi tướng tức kiến Như Lai” nghĩa là bất cứ vật
thể nào có hình tướng, màu sắc thì chúng là giả huyển sinh diệt.
Chỉ khi nào chúng sinh thấy được thật tướng của vạn pháp thì mới
thấy được Phật. Tuy vạn pháp bên ngoài đều là tướng giả huyển,
nhưng thật chất bên trong chúng rất thanh tịnh, tự tại, không ô
nhiễm tức là thể tánh giác ngộ nhiệm mầu.
Thí dụ như lục căn của con
người là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thì tự thể của chúng rất
thanh tịnh, không ô nhiễm, nhưng tại sao cũng chính con người đó
lại tạo ra bao nhiêu tội nghiệp để phải chịu quả báo luân hồi?
Bởi vì con người còn chấp ngã, chấp pháp tức là còn sống trong
vọng chấp của trần lao mà chạy theo tham đắm dục tình thì tâm
thanh tịnh biến mất nên họ sống trong lo âu phiền não. Ngày xưa
sau khi Đức Phật thành đạo thì Ngài cũng còn mắt tai mũi lưỡi
thân và ý cũng như tất cả mọi chúng sinh khác, nhưng vì phá bỏ
hoàn toàn chấp ngã, chấp pháp, chấp có chấp không nên Ngài có
được vô thượng Niết bàn, vô thượng Bồ-đề.
Tuy nhiên mức độ thanh tịnh
trong tâm cũng tùy thuộc vào khả năng diệt trừ vô minh phiền não
của mỗi chúng sinh. Nếu có thể phá được chấp ngã, chấp pháp thì
chúng sinh trở thành A la hán và nếu có thể phá hoàn toàn hết
tất cả các chấp, ngay cả chấp về vi tế
thì chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là thành
Phật. Một thí dụ khác là núi cao rừng thẳm, hay hoa thơm cỏ lạ
đâu có cái nào là ô nhiễm, bất tịnh đâu. Nhưng khi con người
ngắm nhìn nó thì vọng tâm phát khởi lòng tham muốn, nên mới có
tham hoa đắm sắc. Vậy tâm tham đắm, ô nhiễm là do tâm vọng thức
chấp trước phân biệt tạo thành. Vì thế nếu cho rằng lục căn là
nguyên nhân của tội lỗi là không đúng và ngay cả trời trăng mây
nước cỏ cây hoa lá là nguyên nhân của tội lỗi thì cũng là sai vì
chính nó là thể tánh tịnh minh.
Do đó, nếu con người có làm
điều ác, gây ra lắm nghiệp căn cũng bởi do kiến chấp sai lầm về
chân lý khiến họ thấy biết sai, nói sai, làm sai và sống cuộc
đời bất thiện chớ không phải hễ là con người là có tội lỗi. Đây
là cái nhìn độc đáo, một triết lý thậm thâm mà chỉ đạo Phật mới
có cho nên trong kinh Pháp Hoa Đức Phật mới xác định rằng tất cả
chúng sinh đã thành Phật bởi vì tự thể con người đâu có tội lỗi
gì tức là trong họ luôn có Phật tánh vậy. Nói chung tánh thanh
tịnh của các loài vô tình như trời trong mây nước, cỏ cây hoa
lá… thì gọi là Pháp tánh. Còn tánh thanh tịnh, không tội lỗi vốn
có của con người thì gọi là Phật tánh.
Phật tánh, Pháp tánh tuy
nói là hai nhưng tựu trung vẫn là một tức
là Bất Nhị bởi vì cả hai cùng là tự tánh thanh tịnh bản nhiên.
Thí dụ như xăng có lượng Octane cao thì dùng chạy cho xe hơi
thường, còn dầu cặn thì dùng chạy cho xe máy dầu (diesel). Tuy
hai dạng khác nhau, nhưng công dụng đốt như nhau nên xăng thường
hay dầu cặn thì cũng từ xăng mà ra tuy hai nhưng mà một.
Trong thế giới vũ trụ này
hiện tượng vạn pháp duyên khởi và hình thành tất cả những tướng
trạng khác nhau, nhưng cho dù vạn pháp có duyên khởi thành muôn
hình vạn tướng thì tựu trung cũng không ngoài bốn khoa và bảy
đại. Vậy bốn khoa là ngũ uẩn, sáu nhập, mười hai xứ và mười tám
giới đều do nhân duyên giả dối hòa hợp mà sinh ra. Thân thể con
người gồm có hai phần là thân xác và tâm linh. Phần thân xác có
hình sắc nên gọi là sắc uẩn còn phần tâm linh vì không có hình
sắc nên gọi là danh và gồm có: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và
thức uẩn. Ngũ uẩn là năm cái ngăn che làm cho con người không
nhận biết được tâm tánh của chính mình.
Ngăn che do hình tướng tức
là thân và cảnh thì gọi là sắc uẩn; ngăn che do cảm giác thì gọi
là thọ uẩn; ngăn che do nhớ lại các việc đã xảy ra thì gọi là
tưởng uẩn; ngăn che do tâm niệm thay đổi thì gọi là hành uẩn và
ngăn che do những tập quán sai lầm chứa chấp trong tiềm thức sâu
kín thì gọi là thức uẩn. Sáu nhập là lục căn thu nạp tiền cảnh.
Đó là mắt thì thu nạp sắc trần, tai thì thu nạp thanh trần, mũi
thì thu nạp hương trần, lưỡi thì thu nạp vị trần, thân thì thu
nạp xúc trần và ý thì thu nạp pháp trần. Mười hai xứ hay là mười
hai chỗ tức là sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) duyên
với sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý).
Sau cùng mười tám giới là
mười tám cái riêng biệt nghĩa là sáu giới của căn (Nhãn giới,
Nhĩ giới, Tỷ giới, Thiệt giới, Thân giới và Ý giới) duyên với
sáu giới của trần (Sắc giới, Thanh giới, Hương giới, Vị giới,
Xúc giới và Pháp giới) mà phát sinh sáu giới của thức (Nhĩ thức
giới, Tỷ thức giới, Thiệt thức giới, Thân thức giới và Ý thức
giới). Thập bát giới nầy là bao trùm toàn thể thế giới nhân sinh
vũ trụ tức là chính mười tám cảnh giới này chi phối toàn thể
những gì mà con người thấy biết, nghe biết, ngửi biết, nếm biết,
cảm xúc biết và do tâm ý biết. Còn bảy đại chính là đất
đại, nước đại, gió đại, lửa đại, không đại, kiến đại và thức
đại.
1) Địa đại: là đất tức là chỉ cho phần vật chất vì thế nếu nói
về con người thì sắc uẩn là địa đại tức là phần cứng như thịt,
xương, gân, tóc….
2) Thủy đại là nước: Nếu nói về con người thì thủy đại là nước
miếng, máu, nước đờm, tinh dịch… Còn nói chung thủy đại là nước
biển, nước mưa, nước sông, nước hồ…
3) Hỏa đại là lửa: Lửa thì ở khắp mười phương thế giới dưới dạng
năng lượng. Ở ngoài thì lửa dưới dạng ánh sáng mặt trời, bếp
nấu, nồi ga, lò nguyên tử... Còn trong thân là hơi nóng để tạo
năng lực cho toàn thân. Vì thế khi người chết, hỏa đại tan rã
nên thân mới lạnh ngắt.
4) Phong đại là không khí vận chuyển để nuôi sự sống: Nếu con
người không hít thở để mang Oxygen vào phổi để lọc máu đen thành
máu đỏ thì làm sao sống được. Cũng như nếu không khí không di
động thì khi con người thở khí CO2 ra rồi lại hít khí này vào
thì sẽ chết ngay.
5) Không đại là không gian bao trùm khắp: Đối với Phật giáo, thì
“Không”, không có nghĩa là không có. Trong thế giới vũ trụ bao
la này tất cả những gì con người thấy biết được thì gọi là “Có”
còn những gì không thấy biết thì gọi là không. Gọi là không vì
mắt thường không thấy biết được chớ không phải là trống không
rỗng tuếch hay không có gì hết như lông rùa, sừng thỏ. Thí dụ
như trong không khí có hóa chất như Oxygen để cho con người thở,
nhưng có ai thấy được nó đâu. Nếu không có Oxygen thì làm sao
những loài động vật sống được. Vậy không sẽ thành có khi nhân
duyên kết tụ. Đây chính là chân không diệu hữu nghĩa là khi
duyên khởi thì từ cái không biến hóa một cách thần diệu thành ra
tất cả.
6) Kiến đại là phần thấy biết thuộc về bản năng sinh tồn chớ
không có lý trí: Những loài thượng cầm hạ thú chỉ có sáu đại ở
trên mà không có thức đại. Chỉ con người là có đủ 7 đại mà thôi.
7) Thức đại là phần phân biệt tốt-xấu, thiện-ác, tội-phước, đạo
đức- trụy lạc, tình cảm-lý trí, xa-gần, lớn-nhỏ…:
Nếu con người biết tu luyện, bồi dưỡng thì thức
sẽ trở thành trí tuệ. Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức
và Thân thức biến thành Thành sở tác trí nghĩa là trí có năng
lực nhận biết cùng khắp rất thần diệu. Ý thức biến thành Diệu
quan sát trí tức là trí có năng lực quan sát thâm diệu. Mạt na
thức trở thành Bình đẳng tánh trí nghĩa là trí năng phát huy
tính bình đẳng, không phân biệt của vạn pháp. Sau cùng A
lại da thức sẽ biến thành Đại viên cảnh trí tức là trí sáng như
tấm gương lớn và tròn đầy như biển cả chân như.
Nói tóm lại, Như Lai Tạng
chứa chất liệu của bốn khoa, bảy đại rồi từ chất liệu đó mới
duyên khởi hình thành ra tất cả những hiện tượng như thế gian vũ
trụ trong đó có hữu tình và vô tình chúng sinh. Nhân duyên hòa
hợp vọng gọi là sanh, nghĩa là khi nhân duyên tương ứng với nhau
thì bấy giờ từ trong bản thể Như Lai Tạng vọng được sinh ra. Nếu
không phải là vọng thì nó phải tồn tại vĩnh viễn trong mọi không
gian và thời gian, nhưng cái sinh này có tánh cách giai đoạn,
nhất thời nên mới nói là vọng.
Thí dụ như khi hội đủ nhân
duyên con người được kết tạo và sinh ra trên thế gian này, nhưng
vì thân này là vọng, là giả huyển, là không thật, không bền chắc
nên đâu có ai bảo đảm là khi nào mình sẽ chết. Có người 50 tuổi
đã chết, có người may mắn hơn thì sống đến 70, hay 80. Nhưng cho
dù con người có sống đến bao nhiêu tuổi đi chăng nữa thì cũng
bởi do nhân duyên mà được. Nhân duyên hòa hợp thì sống, còn nhân
duyên ly tán thì chết, chớ con người không làm chủ được nó. Vì
thế nếu thế gian vũ trụ là thật thì con người đâu có chết, nhà
cửa, xe cộ đâu có hư hại. Trước những hiện tượng sinh sinh diệt
diệt, có tan có hợp này thật ra chỉ là sự biến dịch rất mầu
nhiệm của Như Lai Tạng.
Nói một cách khác là không
có một pháp nào trên thế gian này mà thật sinh hay thật diệt cả.
Con người dù có chết đi thì cũng như “hiện tượng” trở về với
“bản thể” và sau đó khi hội đủ nhân duyên thì từ bản thể phát
sinh ra hiện tượng tức là có tái sinh. Thế thì có người nào thật
chết đâu mà phải sợ cho nên vấn đề sinh tử, tử sinh là chuyện
bình thường đối với người đệ tử Phật. Vì vậy sinh ra để rồi
diệt, diệt để rồi lại sinh và cứ thế mà lang thang lẩn thẩn mãi
trong sinh tử luân hồi. Do đó con người cũng như tất cả vạn vật
trên thế gian này ví cũng như vầng mây tan hợp, đến rồi đi, chia
biệt để có tương phùng vậy thôi.
Và sau cùng trong Như Lai Tạng tìm cho ra sinh tử mê ngộ đến đi
cũng không thể được. Tại sao? Đối với tuệ nhãn của chư Phật thì
trong thế gian vũ trụ này không tìm đâu ra cái sinh tử đến đi cả
bởi vì sinh để rồi diệt và diệt rồi để lại sinh thì sinh diệt
hay diệt sinh đâu có mất mát gì. Vì thế mà sinh thì cũng không
vui và diệt thì cũng chẳng có gì đau xót. Con người có mê lầm
vọng chấp cũng bởi do khách trần phiền não bên ngoài chớ không
phải cái “thường có” bên trong cho nên cái mê lầm này không phải
là thật mê.
Ngày nay người đệ tử Phật
thường tâm niệm rằng tu học là để đoạn trừ phiền não thì đây chỉ
là giáo lý phương tiện cho những người sơ cơ mới vào đạo bởi vì
phiền não làm gì thật có để mà đoạn trừ. Mà không mê thì tìm đâu
ra ngộ vì thế mà dưới tuệ nhãn cũa Như Lai không bao giờ có mê
ngộ. Thí dụ như một người bị nhặm mắt thì nhìn lên trời thấy hoa
đóm, nhưng trong hư không làm gì có hoa đóm. Một thí dụ khác là
khi chưa chứng đạo thì người tu Phật mong chờ, hy vọng được
chứng đạo vì nghĩ rằng đó là cái gì cao xa huyền diệu, nhiệm
mầu. Nhưng khi hóa giải hết phiền não vô minh để chứng đạo rồi
thì rốt cuộc chẳng có chứng đắc cái gì cả. Tại sao? Bởi vì con
người khi biết thức tỉnh thì không làm những chuyện sai trái vì
biết nó là sai trái, là nguyên nhân của đau khổ nên gọi là “ngộ”
chớ thật “có ngộ” gì đâu.
|
|