ÔNG A NAN TRẦN THUẬT
CHỖ THÂM NGỘ VÀ THỈNH VẤN PHÁP TU GIẢI PHÁP
Ông A Nan và đại chúng nghe Phật dạy, những mối nghi hoặc được
trừ, tâm ngộ thật tướng, thân ý khinh an được cái vui từng có.
Người người cảm kích sung sướng đến rơi nước mắt.
Bấy giờ ông A Nan đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật và thưa
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Đức đại bi vô thượng thanh tịnh bảo vương, khéo
dùng phương tiện: Nhơn duyên, thí dụ, lời lẽ mở mang tâm trí,
hướng dẫn chúng tôi ra khỏi biển khổ tối tăm.
- Bạch Thế Tôn! Nay tôi
dù được nghe pháp âm như vậy, tôi nhận biết Như Lai Tạng bản
thể, là chơn tâm vốn giác ngộ sáng suốt nhiệm mầu, nó trùm chứa
tất cả cõi nước thanh tịnh bảo nghiêm của mười phương chư Phật.
Dù vậy, tâm trạng tôi vẫn còn là tâm trạng của kẻ lữ hành phiêu
bạt, bỗng gặp thiên vương cho ngôi nhà tráng lệ nguy nga. Tuy
được nhà lớn, song điều cốt yếu là phải biết cửa để vào. Cúi xin
Như Lai đem lòng đại bi vô hạn, chỉ dạy cho những kẻ tối tăm
trong hội này rời bỏ Tiểu thừa, được vô dư Niết bàn Như Lai vô
thượng và cũng khiến cho hàng hữu học Biết cách uốn dẹp tâm
vướng víu lâu đời để được pháp tổng trì, chứng nhập tri kiến
Phật.
Ông A Nan thưa thỉnh rồi lễ Phật, cùng đại chúng chăn lòng chờ
nghe Phật dạy.
Đức Thế Tôn thương xót đại chúng, ôn tồn khuyên bảo:
- Nếu các ông quyết định phát tâm Bồ-đề đối với pháp Tam ma đề
(Thủ Lăng Nghiêm đại định) không sanh tâm mỏi mệt thì trước hết
hãy nhận thức rõ ràng về hai nghĩa quyết định sau đây:
Ông A Nan và đại chúng sau khi nghe lời Phật dạy thì không còn
nghi hoặc, ngộ được thật tướng vô tướng chân không diệu tánh.
Nhưng đây chỉ là lý tức là phần văn tự, còn đối với “sự” tức là
phương thức thực hành thì A Nan vẫn còn mờ mịt vì thế ông mới ví
mình như một người được cho một cái nhà lớn nhưng không biết cửa
để vào. Ông xin Phật chỉ dạy phương pháp tu hành để diệt trừ
những vọng tưởng điên đảo và chứng nhập được tri kiến của Phật.
Tuy Đức Thế Tôn đã nhiều lần chỉ dạy về đường lối viên ngộ, viên
tu, viên chứng để cho ông A Nan chẳng những có được cái nhà to,
nhà tốt mà còn biết cửa để vào. Nhưng ông A Nan chỉ có thể lãnh
hội được một phần, nên bây giờ Phật mới dùng phương tiện chỉ
thêm đường lối cho A Nan giúp ông tìm ra được cánh cửa để vào
căn nhà giác ngộ.
Đức Phật trong suốt 49 năm
ròng thuyết pháp độ sanh, Ngài đã tùy theo đối tượng mà nói vì
thế giáo pháp của Phật có lúc Ngài nói khế cơ mà có lúc Ngài
thuyết khế lý. Khế cơ là tùy theo hoàn cảnh căn cơ của chúng
sinh mà thuyết. Thí dụ, một người vừa mới quy y theo Phật, chưa
am hiểu Phật pháp thượng thừa nên đối với họ tụng kinh niệm Phật
là tốt. Đây là khế cơ. Nhưng dựa theo khế lý (chân lý) thì chúng
sinh tuy có tụng kinh niệm Phật mà tánh tham không bỏ, tật đố
không chừa, lòng còn giận còn hờn thì đây chỉ là tu hành theo
hình thức bề ngoài, không có kết quả. Chỉ khi nào chúng sinh
thật sự quay về hóa giải hết tham-sân-si thì phiền não tan biến,
Bồ-đề, Niết bàn hiển lộ. Đây mới là chân lý tối thượng. Vì vậy
khế cơ và khế lý luôn chống đối nhau cho nên nếu nói theo khế cơ
thì không đúng với khế lý và ngược lại.
NGHĨA QUYẾT ĐỊNH THỨ NHẤT :
PHẬT DẠY RÕ VỀ SỰ TÁC DỤNG CỦA SẮC TÂM VÔ THỈ
- A Nan! Nếu các ông muốn rời bỏ Tiểu thừa thẳng vào “tri
kiến Phật”, nên xét kỹ nguyên nhân phát tâm và quả sở chứng mà
các ông mong đạt đến. Nếu đem tâm sinh diệt, tham cầu phước báu…
mà mong được quả Vô thượng Bồ-đề thì không thể có.
- Ông hãy tư duy quán xét thân ông! Chất cứng là địa, tánh ướt
là thủy, hơi ấm là hỏa, khí động là phong, gọi chung đó là tứ
đại. Do tứ đại kết tụ thành thân ông. Rồi cái thể tánh giác minh
nhiệm mầu cố hữu nó tác dụng vào. Từ đó, thể tánh giác minh bị
phân hóa thành ra cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc
và cái biết. Và cũng từ đó, con người và môi trường sống của con
người trở thành năm lớp ô trược.
- A Nan! Ví như nước trong vốn là thanh khiết bản nhiên. Còn
bụi, đất, than, tro là những thứ chướng ngại cho những gì trong
sáng và thanh khiết ấy. Bỗng dưng có người lấy bụi, đất, than,
tro làm rơi vào ly nước sạch thì nước sạch hóa ra vẩn đục. Sự
vẩn đục đó gọi là ô trược. Năm lớp ô trược của ông cũng vậy.
Trong phần đầu của nghĩa quyết định thứ nhất, Đức Phật khuyên
ông A Nan và tất cả đại chúng phải xét kỹ chỗ phát tâm trong lúc
tu nhân và chỗ giác ngộ trong lúc chứng quả. Toàn bộ kinh điển
Phật giáo không ngoài tư tưởng nhân quả. Thật vậy, nhân nào thì
quả nấy, nếu chúng sinh đem cái tâm sinh diệt, tâm tham cầu thế
tục tham đắm dục tình mà mong chứng đạo Bồ-đề thì không thể
được. Trên con đường giải thoát giác ngộ, Ngộ tức là không mê đã
là khó. Mà “giải ngộ” là một bước tiến khó hơn. Nếu chúng sinh
có một quá trình tư duy quán chiếu thật sâu sắc thì đây là “thâm
ngộ”.
Cho đến khi nào khai tâm mở
tánh hoàn toàn thì mới gọi là “chứng ngộ”. Đối với A Nan là
người thâm hiểu giáo nghĩa nên ông chỉ đạt được thâm ngộ mà chưa
đạt đến trình độ chứng ngộ để nghiệm chứng chơn tâm minh diệu,
bản thể Như Lai Tạng của chính mình. Trong Phật giáo, người phát
tâm tu hành như thế nào thì quả sở chứng chỉ tương ứng như thế
ấy chớ không thể tăng thêm được. Thí dụ một người phát tâm thọ
ngũ giới thì quả sở chứng tối đa chỉ là nhân thừa. Nếu họ giữ
đúng năm giới thì chính họ có được hạnh phúc, gia đình hòa thuận
và cuộc sống sẽ an vui tự tại. Đây là Niết bàn của nhân thừa.
Còn người phát tâm tu thập thiện theo thiên thừa thì họ sẽ hưởng
được sự an lạc hạnh phúc phước báu như các vị trời.
Nếu một vị phát tâm tu theo
tiểu thừa thì chắc chắn quả sở chứng cao nhất là A la hán, nghĩa
là nếu chúng sinh hóa giải hết kiến hoặc, tư hoặc và vi tế hoặc
thì họ sẽ trở thành bậc thánh và dĩ nhiên sẽ vĩnh viễn thoát ly
sinh tử luân hồi. Do đó nếu muốn quả sở chứng là vô thượng chánh
đẳng chánh giác thì phải phát tâm đại thừa, tu theo Bồ-tát đạo
viên mãn. Vì thế thanh tịnh Bồ-đề, Niết bàn là tùy thuộc vào
nhân địa phát tâm tu hành của mỗi chúng sinh. Do đó, chúng sinh
chỉ cần dựa theo nhân tu thì biết chắc chắn sở chứng của mình sẽ
được. Nói cách khác dựa vào luật nhân quả của Phật giáo thì
không có việc nhân tu chỉ có một mà muốn hưởng quả sở chứng đến
mười.
Tuy nhiên, quả vị trong
Phật giáo là vô thực mà vô hư. Bởi vì những quả vị như A La Hán
hay ngay cả quả vị Phật mà Như Lai thành tựu thì không có hình
tướng, không có màu sắc, không có văn tự ngôn ngữ diễn tả cho
nên cái chứng đắc này là không thật có, không tìm đâu ra. Thế mà
cái chứng đắc kia lại là thật bởi vì người chứng đắc thì lúc nào
cũng có tâm thanh tịnh Niết bàn, không còn vô minh phiền não
quấy phá. Vì thế nếu chúng sinh biết sống đúng và hợp với chân
lý của vạn pháp thì họ trở về với Bảo Sở Chân Như cho nên tâm họ
đều là vô ngã, vị tha và bình đẳng. Ngược lại nếu chúng sinh đem
cái tâm nhân ngã, vì danh, vì lợi, vì quyền lợi riêng cho mình,
vì địa vị, vì thần thông mà làm nhân địa tu hành thì không bao
giờ thành đạt được cũng không khác gì người nấu cát mà muốn
thành cơm.
Con người vì bị mê lầm, đi ngược lại với tánh giác diệu minh nên
mới nhận tứ đại làm thân của mình rồi nương theo thân đó mà tiếp
xúc với ngoại trần và phát sinh ra cảm giác. Cái thể tánh giác
minh nhiệm mầu bị phân hóa thành ra cái thấy, cái nghe, cái
ngửi, cái nếm, cái biết và cái cảm xúc. Chính những điều nghe,
thấy, ngửi… tạo ra sự phân biệt đối đãi làm che lấp tâm tánh và
hình thành năm thứ ô trược, gọi là ngũ trược. Trược là vẩn đục.
Cũng ví như nước trong kia vốn thanh khiết, nhưng đem tro, cát
bụi, đất ném vào nước thì nó trở nên vẩn đục.
KHAI THỊ VỀ NĂM THỨ Ô TRƯỢC
Con người trong thế gian này không phải là nguyên do của tội lỗi
xấu xa bởi vì trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có tri
kiến Phật (kinh Pháp Hoa), Phật tánh (kinh Đại Niết bàn), Như
Lai viên giác diệu tâm (kinh Viên Giác), chơn tâm thường trú và
thể tánh tịnh minh (kinh Lăng Nghiêm). Vì thế Phật mới dạy rằng:
“Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật”
nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh,
đều có khả năng thành Phật. Cũng ví như ly nước vốn tinh khiết
trong sạch, nhưng vì bị bụi bặm làm nước vẫn đục. Ngũ trược nơi
tự tâm cũng vậy. Tánh giác diệu minh vốn thanh tịnh, thường trụ,
không thay đổi. Ngược lại, vọng tưởng bản chất là giả dối, sinh
diệt, thay đổi. Nhưng chúng sinh vì không giác ngộ được bản tâm
của chính mình mà chạy theo vọng tưởng để cho vọng tưởng chiếm
mất tâm mình nên mới sinh ra ngũ trược mà làm nhơ, vẩn đục tâm
tánh của con người.
Vậy năm thứ vẩn đục đó ảnh hưởng con người như thế nào?
1) Kiếp trược:
- A Nan! Như ông thấy đó. Hư không (không đại) khắp cùng mười
phương thế giới. Cái không và tánh thấy (kiến đại) không thể
tách rời. Cái không, không thực thể, tánh thấy, không có giác
tri. Hai thứ tác dụng vào nhau vọng thành lớp thứ nhất gọi là
“Kiếp trược”.
Tâm thể của chúng sinh tức là tánh giác diệu minh vốn trong sáng
và hòa nhập vào hư không mười phương thế giới. Nhưng trong cái
diệu minh đó lại phát sinh ra sự phân biệt để nhận biết tất cả
các tướng ở bên ngoài hư không tức là năng minh. Sự thâu nhập
các cảnh giới bên ngoài thì gọi là sở minh. Nói cách khác, khi
con người lầm lẫn chạy theo những vọng niệm bên ngoài tức là sở
minh để chuyển năng minh bên trong của mình mà có sự phân biệt
để tạo nghiệp và tự trói mình trong sinh tử khổ đau. Một khi tâm
thể khởi sự phân biệt thì nó không còn thanh tịnh, diệu minh như
lúc ban đầu vì thế vọng khởi tâm phân biệt chính là kiếp trược.
2) Kiến trược:
- Thân ông kết tụ tứ đại làm tự thể. Chính tự thể của ông làm
trở ngại, hạn chế tánh thấy, nghe, hiểu, biết khiến cho tánh
thấy, nghe, hiểu, biết tác dụng vào tứ đại của thân ông, vọng
thành lớp thứ hai gọi là “Kiến trược”.
Kiến đại thì bao la trùm khắp pháp giới, nơi nào cũng có thể
thấy được. Nếu kiến đại tác động vào mắt thì có tánh thấy, vào
tai thì có tánh nghe, vào mũi thì có tánh ngửi, vào lưỡi thì có
tánh nếm, vào thân thì có tánh cảm xúc. Xét cho cùng kiến đại là
bao la vô cùng vô tận, nhưng khi nó tác động vào thân tứ đại của
con người liền bị hạn chế, không còn thấy vô cùng vô tận được
nữa. Vì thế tánh thấy lẽ ra phải thanh tịnh bản nhiên trùm khắp
mười phương thế giới, nhưng khi nó tác động vào thân tứ đại liền
bị chia sẻ làm giới hạn tánh thấy thì đây gọi là “kiến trược”.
Do đó tánh thấy của con người rất bị hạn chế trong kiến, tri tức
là thấy, biết mà cảm thấy hiểu biết. Vì thế khi chúng sinh đạt
được tâm thanh tịnh để quay trở về sống với tự tánh thanh tịnh
bản nhiên thì tánh thấy bây giờ sẽ trở thành vô cùng vô tận,
không còn bị tướng ngũ uẩn ngăn ngại.
3) Phiền não trược:
- Tâm ông có công dụng nhớ nghĩ suy tư thuộc về phần tri kiến.
Tri kiến được biểu hiện qua lục trần, rời trần không có tướng,
rời tri giác không có tánh. Tri giác và lục trần tác dụng vào
nhau, vọng thành lớp thứ ba gọi là “Phiền não trược”.
Tri kiến của chúng sinh là tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh
nếm, tánh xúc và tánh biết được biểu hiện qua lục trần tức là
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thí dụ tự thể của con mắt đâu
có tội lỗi xấu xa gì, nhưng khi mắt thấy nhà đẹp, xe sang, tiền
nhiều thì tâm phát sinh lòng tham dục muốn chiếm lấy. Năm căn
còn lại thì cũng thế. Tai nghe lời ngọt dịu thì mê, nghe ai chửi
thì buồn, thì giận. Mũi ngửi hương thơm thì thích, say đắm còn
ngửi mùi hôi thúi thì buồn phiền, chửi rủa. Lưỡi nếm mùi vị ngon
thì tham đắm muốn ăn thêm còn nếm mùi cay đắng thì đâm ra chán
ghét. Nói chung con người khi tiếp xúc với lục trần thì hễ cái
gì bằng lòng thì an vui, tham đắm. Còn cái không bằng lòng, bất
toại ý thì đâm ra bất mãn.
Do đó tri giác (sáu căn) và
lục trần tác dụng vào nhau mà phát sinh ra “phiền não trược”.
Đây là nói trên phương diện tục đế sinh diệt của thế gian, nhưng
đối với các bậc thánh như các vị A la hán và Đức Phật thì mắt,
tai, mủi, lưỡi, thân và ý của các Ngài vẫn còn đó như tất cả
chúng sinh. Nhưng tri giác của các Ngài không còn tác động vào
sáu trần nên phiền não không còn quấy phá được vì thế các Ngài
mới có thanh tịnh Niết bàn, thần thông tự tại là vậy. Nói cách
khác khi chúng sinh đã trở về sống với chơn tâm thường trú, thể
tánh tịnh minh, tri kiến Phật hay Như Lai viên giác diệu tâm của
chính mình rồi thì sáu căn, sáu trần không còn là nguyên nhân để
gây ra phiền não khổ đau.
4) Chúng sinh trược:
- Thân tâm ông thì ngày đêm sanh diệt không ngừng. Cái tri kiến
thì muốn lưu mãi ở thế gian, nhưng sức nghiệp của ông thì vọng
động đổi dời từ quốc độ này sang thế giới khác. Hai sự kiện mâu
thuẫn nhau nhưng lại tác dụng vào nhau vọng thành lớp thứ tư gọi
là “Chúng sanh trược”.
Vì phải chịu theo sự tiến hóa của thế gian nên thân tâm con
người lúc nào cũng thay đổi. Thân thì ảnh hưởng bởi luật vô
thường: sinh, trụ, dị, diệt tức là sinh, lão, bệnh, tử. Còn tâm
thì chuyển biến theo lý vô ngã. Vì thế mà thân tâm con người
luôn sinh diệt từng giây từng phút. Nhưng con người lại không
đồng ý như vậy mà tri kiến của họ lúc nào cũng muốn sống lâu,
sống thọ. Tuy con người gắn bó với cái thân tứ đại sinh diệt,
với cái ý thức hay biết của mình và trong mong sống mãi như thế,
nhưng con người hễ có sinh tất phải có diệt nên họ phải nương
theo quả báo mà thọ sinh vào những đời sau.
Sống thì phải chết, nhưng
con người chết mà vẫn luyến tiếc mãi cái sống nên hết thân này
lại tái sinh thân khác theo nghiệp báo mà xoay vần mãi mãi trong
lục đạo luân hồi. Nói cách khác khi tâm chúng sinh đã khởi sự
phân biệt thì nó liền đắm say cảnh sắc bên ngoài nên tâm muốn
gồm thâu cả thế giới này về cho nó. Từ đó lòng tham-sân-si phát
khởi và dĩ nhiên những hạnh nghiệp cũng vì thế mà tác tạo. Lòng
tham càng to thì tội nghiệp càng lớn và càng bị ràng buột trong
sinh tử triền miên.
5) Mạng trược:
- Lại này! A Nan! Tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc và biết vốn
không sai khác. Do lục trần cản trở vô cớ lại sanh khác nhau. Vì
vậy, trong thể thì đồng mà dụng lại khác. Đồng và khác mất chuẩn
đích. Hai sự kiện tác dụng vào nhau vọng thành lớp thứ năm gọi
là “Mạng trược”.
Một khi tâm phân biệt đã xuất hiện thì nó sẽ bị những trần cấu
bên ngoài chi phối. Thấy đẹp thì yêu, thấy xấu thì ghét nên muốn
cái đẹp, ghét cái xấu, cứ như thế mà yêu ghét nổi dậy cả ngày.
Trong một thoáng, một chớp mắt đã sinh ra những mê lầm nên cái
thấy không còn đúng nữa. Vì thế mà con người thích nghe lời nói
hay, âm thanh ngọt dịu và chán ghét khi nghe tiếng chỉ trích,
chửi mắng. Mắt thích nhà cao, xe tốt, áo lụa, quần là. Mũi thích
ngửi hương vị thơm tho và buồn phiền khi ngửi mùi hôi tanh, ô
uế. Lưỡi thích nếm đồ ăn ngon, miệng thích ăn cao lương mỹ vị và
khổ đau khi ăn cơm hẩm cá thiu. Nói chung sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp đã chi phối tâm tánh của con người làm cho họ quên đi
bản tánh thanh tịnh diệu minh đã có sẳn trong họ. Một khi mắt,
tai, mủi, lưỡi, thân và ý vốn thanh tịnh nhưng bị sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp quyến rũ làm hạn chế sự thấy, nghe, hay,
biết của nó mà bỏ đi tâm tánh Bồ-đề vốn thường thanh tịnh và
trong sáng. Những vẫn đục làm lu mờ tâm tánh con người này Đức
Phật gọi là Mạng trược.
Thế giới mà con người đang sống mà kinh điển Phật giáo thường
gọi là thời kỳ ngũ trược ác thế nghĩa là đời có năm thứ ác làm
cho tâm hồn không còn trong sáng, bị vẫn đục do phiền não vô
minh làm cho kiếp sống chúng sinh không được an vui, hạnh phúc.
Bây giờ nếu chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, quay về với bản
lai diện mục, với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh của
chính mình bằng cách tư duy, thiền định thì những vẫn đục kia sẽ
được lắng xuống làm cho cuộc sống trở thành thanh tịnh, an lạc
và tự tại.
Và sau cùng Niết bàn, Bồ-đề
sẽ hiển hiện. Cũng ví như tất cả những cặn bả trong ly nước lắng
xuống thì nước bây giờ trở thành tinh khiết, thơm ngon. Ly nước
mặc dầu đã được lắng trong, nhưng những hạt bụi cực nhỏ vẫn còn
mà mắt thường không thấy biết được. Các vị A la hán và Bồ-tát
thì cũng thế. Tuy các Ngài đã loại hết kiến hoặc, tư hoặc, nhưng
những vi tế vô minh vẫn còn cho đến khi đạt đến Vô thượng Bồ-đề
như Phật thì tất cả vô minh, phiền não tan biến hết ngay cả
những vi tế cũng không còn. Vì thế Đức Phật Thích Ca cho dù có ở
đâu, ngồi đâu thì tâm Ngài vẫn an trụ Niết bàn. Cái Niết bàn này
chính là vô trụ xứ Niết bàn vậy.
|
|