TỨC LÀ VIÊN THÔNG VỀ
KIẾN ĐẠI
Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52 vị Bồ-tát đồng tu
một pháp môn cùng đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật:
- Tôi nhớ hằng sa kiếp trước có Đức Phật ra đời hiệu Vô Lượng
Quang. Thời đó có 12 Đức Phật ra đời trong một kiếp. Đức Phật
sau hết hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy cho tôi phép niệm
Phật tam muội: Rằng thập phương Như Lai thương nhớ chúng sinh
như mẹ nhớ con. Nếu con cũng đồng nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì đời
đời mẹ con không xa cách. Tâm chúng sinh nhớ tưởng Phật thì tâm
ấy là Phật. Nhất định thấy Phật, không cần phương tiện nào khác.
Ví như người ướp hương thì toàn thân thể sẽ thành thơm, ấy gọi
là hương quang trang nghiêm. Chính tôi nhờ niệm Phật mà được vô
sanh nhẫn. Nay ở cõi Ta bà, tôi nguyện hướng dẫn người niệm Phật
để có được tịnh độ. Phật hỏi nhân duyên nào được viên thông, xin
thưa: Tôi thu nhiếp tất cả sáu căn không vọng niệm. Do chánh
niệm tương tục mà được Tam-ma-đề. Đối với tôi đấy là pháp môn
thù thắng nhất.
Đại là vô ngại tức là
chẳng có gì lớn hơn, bao trùm tận hư không và gồm hết pháp giới.
Do đó kiến đại tác động vào con mắt tạo thành tánh thấy bao trùm
khắp cả. Nếu nói theo thứ tự thì kiến đại phải đứng trước thức
đại, nhưng ở đây lối trình bày của kinh là muốn giới thiệu kiến
đại của Ngài Đại Thế Chí và Nhĩ căn viên thông của Đức Quán Thế
Âm liên tục với nhau để hành giả có cơ hội dễ dàng đối chiếu, tu
học. Khi Ngài Đại Thế Chí làm một động tác như đưa tay lên hay
bước đi một bước thì thập phương thế giới đều rúng động vì thế
danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát là do oai thế của Ngài mà kiến lập.
So với tất cả các vị
Bồ Tát thì Ngài là người có oai thần, trí lực cao nhất nên mới
gọi là “Chí”. Trong Tây phương Tam Thánh nghĩa là những bậc
thánh nhân xuất thế gian còn Khổng Tử hay Lão Tử là thánh nhân
của thế gian thì Ngài Đại Thế Chí tượng trưng cho trí tuệ viên
mãn rốt ráo, còn Quán Thế Âm Đại Sĩ tượng trưng cho đức đại từ
đại bi. Các họa sĩ người Trung Hoa vì giàu óc tưởng tượng đã vẽ
hình tướng hai Ngài Bồ Tát là hai mỹ nữ người Tàu, vóc dáng và
xiêm y chẳng khác Tây Thi, Trịnh Đán ngày xưa.
Đại Thế Chí và Quán
Thế Âm là hai vị Đẳng giác Bồ Tát tức là sự giác ngộ gần đồng
như Phật. Xiêm y của hai Ngài là y phục của người Tàu vào thời
phong kiến giống như cải lương hát bội. Không lẽ mấy ngàn năm Bồ
Tát hiện thân thành một người nữ chỉ có một lần và cả cái địa
cầu rộng lớn bao la này tại sao Bồ Tát không ứng hiện tại
Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Ấn Độ hay ngay cả Việt Nam mà duy
nhất ở Trung Hoa? Không lẽ những quốc gia này không có chúng
sinh cần độ hay sao? Ngày nay y phục này đã lỗi thời đâu còn ai
mặc như thế nữa. Tại sao không phải là chiếc áo bà ba đơn giản
hay chiếc áo dài thanh thoát của người Việt Nam? Không riêng gì
Phật giáo có sự lầm lẫn, cuồng tín tạo sự tin tưởng sai lầm cho
người Phật tử, đạo Thiên Chúa giáo cũng thế.
Vào thời đế quốc La Mã
thiết lập tòa thánh Vatican thì hình tướng của Chúa Giê-Su đã
thay đổi không biết bao nhiêu lần. Có họa sĩ vẽ Ngài có tóc rất
dài, mặt không có râu. Họa sĩ khác lại vẽ Ngài có tóc ngắn, mặt
có râu. Có người vẽ nét mặt thon dài, lại có người khác vẽ mặt
Ngài hơi đầy đặn. Vậy hình nào là hình thật? Chẳng có hình nào
là thật vì chẳng có ông bà họa sĩ nào thấy được mặt thật của
Chúa cả. Ở đây các vị Bồ Tát là những người khuất mặt siêu hình
thì làm sao phàm nhân thấy được mà vẽ hình này, tướng nọ. Trong
thế gian vũ trụ, hễ có sinh tất có diệt cho dù đó là thế giới
cực lạc của Phật A Di Đà. Do đó sau khi Phật A Di Đà nhập diệt,
Quán Thế Âm ngay lập tức thành Phật để tiếp nối và khi Quán Thế
Âm nhập diệt, Đại Thế Chí liền tiếp nối thành Phật.
Đức Phật Thích Ca trong cõi Ta bà, Phật A Di Đà trong thế giới
Tây phương cực lạc, Phật Dược sư trong cõi Đông phương hay các
Chư Phật trong mười phương pháp giới đều có ba thân là:
1) Pháp thân (Dharmakaya) là pháp giới thanh tịnh của các Đức
Như Lai lan tỏa trong khắp không gian làm sở y bình đẳng cho Báo
thân và Ứng thân. Pháp thân thì luôn thường trụ, bất sinh bất
diệt cũng được gọi là Pháp giới tánh, Như Lai Tạng…
Phật lấy Pháp
Tánh Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. Pháp thân là chỗ sở
y chứa tất cả công đức trong Pháp giới. Vì Pháp thân là thường
trụ nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù Phật nhập thế cứu độ
chúng sinh thì Pháp thân cũng không tăng hay Phật có xuất thế
thì nó cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà thôi. Cái Pháp thân
nầy Phật và chúng sinh đều có như nhau, nhưng ở Phật thì nó sáng
suốt chiếu soi rực rỡ còn ở chúng sinh thì nó bị vô minh che mờ
nên không hiển lộ. Pháp thân chính là cái mà con người sẽ trở về
sau khi diệt hết vô minh phiền não để phát huy trí tuệ sẳn có
của mình. Vậy Pháp thân chính là cội nguồn, là Bản Thể của tất
cả muôn sinh vạn vật. Đây chính là Bản Lai Diện Mục, là Phật
tánh có sẳn trong tất cả mọi người.
2) Báo thân (Sambhogakaya) là thân tốt đẹp do công phu tu hành
trải qua bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp mà có. Vì thế mà Đức Phật
Thích Ca có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp rực rỡ là vậy. Báo thân
còn được gọi là “tự thọ dụng thân”.
Nếu chúng sinh đoạn trừ mọi vô minh phiền não thì tâm được hoàn
toàn thanh tịnh. Cái thanh tịnh an lạc tự tại nầy chỉ có người
đó biết và hưởng được còn người khác không hề cảm nhận hay san
sẻ được thì cái quả thanh tịnh an nhàn nầy là tự thọ dụng thân.
Cũng như uống một tách trà thơm ngon thì chỉ người uống trà mới
biết được hương vị thơm ngon như thế nào mà thôi. Do đó nếu
chúng ta bớt được một phần vô minh phiền não thì có được một
phần thanh tịnh tức là có được một phần tự thọ dụng thân.
Còn Báo thân của chúng sinh thì gọi là Karmakaya tức là thân nầy
là do quả nghiệp của tiền kiếp tạo thành. Muốn có thân thể khỏe
mạnh sống lâu thì đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói thanh
tao trong trẻo thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan
trang, đẹp đẻ thì đừng nghĩ tới tà dâm. Muốn gia đình được ấm no
hạnh phúc thì đừng trộm cướp gian tham.
3) Ứng thân hay biến hóa thân (Nirmanakaya) Chư Phật do trí
thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ
của chúng sinh mà hóa độ. Phật A Di Đà là ứng thân của Phật
trong cõi cực lạc và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng thân của
Phật trong cõi Ta bà nầy. Vì Ứng thân là thân thị hiện nên phải
ảnh hưởng bởi luật vô thường là sinh, lão, bệnh, tử. Ứng thân
cũng được gọi là “tha thọ dụng thân”.
Đối với Phật giáo thì báo thân hay tự thọ dụng thân có giá trị
tuyệt đối vì chỉ có người được thức tỉnh giác ngộ mới hưởng được
cái hương vị thanh tịnh an vui tự tại của giải thoát giác ngộ mà
không một người nào khác có thể biết được. Khi chư Phật hay
Bồ-tát thị hiện để hoằng dương đạo pháp thì chúng sinh có cơ hội
học hỏi, tu sửa và sống theo Chân lý để tự mình có được giải
thoát giác ngộ thì ứng thân để cứu độ chúng sinh ra khỏi bể khổ
sông mê gọi là tha thọ dụng thân.
Tóm lại ba thân của Đức Phật là: Pháp thân là Thể, Báo thân là
Tướng và Ứng thân là Dụng. Tuy nói ba mà là một, tuy một mà ba
tức là một là tất cả và tất cả là một.
Ngài Xuyên Lão Thiền Sư có viết rằng :
“Ứng Phật, Hóa Phật đều không thật
Bóng hình muôn thuở thảy là quyền
Cái gì có tướng đều hư vọng
Chân Phật không hình vốn tự nhiên”.
Chữ “52” vị Bồ Tát đồng tu là ám chỉ cho 52 đẳng cấp từ Thập
Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác và
sau cùng là Diệu Giác. Đây là tiến trình từ sơ phát tâm thẳng
đến khi thành Phật. Pháp Vương Tử là con của đấng Pháp Vương và
là những vị Bồ Tát ở địa vị Đẳng giác tức là gần ngang bằng với
Phật. Ngoài Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi cũng là Pháp Vương Tử.
1) Thập Tín : Có khi nào chúng ta tự hỏi tại sao mình lại phải
học Phật? Tại sao phải tu thành Phật? Phật là chơn tâm, là bổn
tánh của con người cho nên thành Phật là thành tựu trí tuệ viên
mãn của tánh đức. Nhưng Phật chính là tự tâm, là bản lai diện
mục, vốn sẵn có đủ vạn đức, vạn năng nên tu Phật là hồi đầu thị
ngạn tức là quay thuyền trở lại bến xưa mà thấy và sống được với
Phật tâm, Phật tánh của chính mình. Muốn thành tựu những điều
này, chúng sinh phải có lòng tin để đánh tan tà kiến mà tiến
thẳng vào Bồ Tát đạo. Con người sau khi tu viên mãn địa vị Thập
Tín sẽ nhập vào Sơ Trụ tức là bước đầu của Đại Thừa.
2) Thập Trụ: là luôn trụ trong tam muội nghĩa là trụ trong thanh
tịnh, sống trong chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh,
chẳng còn bị thoái chuyển.
3) Thập Hạnh: là thực hành pháp môn niệm Phật. Niệm Phật cũng ví
như nấu nước sôi, cho dù là lửa lớn tức là công phu nhiều nhưng
không liên tục thì nước không sôi. Ngược lại người niệm Phật
phải kiên trì cũng như lửa tuy yếu, nhưng tiếp tục nấu hoài thì
nước sẽ sôi.
4) Thập Hồi Hướng: Xoay niệm hướng về tâm Phật và hồi hướng tất
cả công đức mình đã tích lũy về Phật tâm và cho tất cả chúng
sinh tức là phá Ngã chấp.
5) Thập Địa: Hồi hướng viên mãn liền nhập Phật địa. Quả vị này
rất gần với Phật.
Sau đó đi qua Đẳng giác rồi sau cùng tiến qua Diệu giác tức là
thành Phật.
Trong vô lượng kiếp trước, có một vị Phật xuất thế tên là Vô
Lượng Quang và sau đó có 12 vị Phật nối tiếp nhau xuất hiện
trong một kiếp, dạy cho Ngài Đại Thế Chí phép Niệm Phật tam
muội.
1) Vô Lượng Quang Phật:
còn có tên Vô Lượng Thọ Phật tức là Phật A Di Đà. Vô Lượng Quang
là chỉ cho ánh sáng chiếu sáng rộng rãi khắp không gian vô cùng
vô tận. Nói cách khác ánh sáng chiếu tới đâu là không gian tới
đó hay không gian tới đâu thì ánh sáng tới đó. Do đó Vô Lượng
Quang là chỉ cho về mặt không gian. Còn Vô Lượng Thọ là biểu
tượng cho thời gian. Vô Lượng Thọ là sống lâu vô lượng nghĩa là
suốt trong chiều dài của quá khứ và mãi mãi cho vị lai mà Phật A
Di Đà vẫn còn sống. Nói cách khác có thời gian là có Phật A Di
Đà. Vậy Phật A Di Đà là Phật biểu tượng cho cả không gian và
thời gian.
Nhưng trong thế gian
cái gì là biểu tượng cho không gian và thời gian? Đó chính là vũ
trụ. Thế thì Phật A Di Đà là biểu tượng của vũ trụ. Nói cách
khác Phật A Di Đà là ám chỉ cho không gian thanh tịnh trùm khắp
mười phương và thời gian thanh tịnh suốt ba đời. Do đó Phật A Di
Đà là tự tánh thanh tịnh bản nhiên trùm khắp không gian và cái
tánh thanh tịnh bản nhiên này cũng suốt cả chiều dài của quá
khứ, hiện tại và vị lai. Vậy chúng sinh hiện giờ là đang ở trong
pháp thân thanh tịnh của Phật A Di Đà bởi vì con người đang ở
trong không gian và thời gian.
2) Vô Biên Quang Phật:
là Phật tiêu biểu cho giải thoát bình đẳng nhất như.
3) Vô Ngại Quang Phật:
là tiêu biểu cho “Thể tịch, dụng diệu”. Thể tịch là thể tánh
thanh tịch, tịch tĩnh. Còn dụng diệu là khởi tác dụng nhiệm mầu
tự tại. Nói cách khác thể tịch là chơn không còn dụng diệu là
diệu hữu tức là bất biến tùy duyên.
4) Vô Đẳng Quang Phật:
là do tâm đại bi kiến lập để cứu giúp chúng sinh diệt hết nỗi
khổ không ai có thể sánh bằng.
5) Trí Huệ Quang Phật:
là trừ bụi nhơ vô minh để có lợi ích chân thật vì chỉ có trí tuệ
chân chánh mới phá được vô minh tăm tối.
6) Thường Chiếu Quang Phật: Chư Phật phóng quang, chiếu khắp thế
giới. Tịch là tâm thanh tịnh, chiếu là tâm bình đẳng.
7) Thanh Tịnh Quang Phật: là giữ tam nghiệp thân, khẩu, ý thật
thanh tịnh.
8) Hoan Hỷ Quang Phật: là làm cho tất cả chúng sinh an lạc.
9) Giải thoát Quang Phật: là muôn vàn gút mắc trong tâm đều tháo
gở cả. Muốn có giải thoát giác ngộ thì người tu Tiểu thừa phải
phá tan Kiến hoặc, Tư Hoặc, Vi tế hoặc và sau đó phá thêm Trần
Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc thì viên thành Đại Thừa Phật đạo.
10) An Ổn Quang Phật: Có sinh diệt là không được an ổn cho nên
chúng sinh nên quay về với chơn tâm, với bổn tánh bất sinh bất
diệt của mình thì cuộc sống sẽ có an vui tự tại.
11) Bất Tư Nghì Quang Phật: Công đức và trí tuệ Phật là bất khả
tư nghì, không thể nghĩ bàn.
12) Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật: là quang minh của Phật vượt xa
mặt trời, mặt trăng.
Đây là những vị cổ Phật và Đức Phật A Di Đà thành Phật mới vừa
mười kiếp. Chính Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai đã dạy Ngài Đại
Thế Chí phép niệm Phật tam muội. Vậy có bao nhiêu phương pháp
niệm Phật và thế nào là niệm Phật tam muội?
Niệm Phật tức là niệm tâm và có bốn phương pháp:
1) Trì Danh Niệm Phật: là thường xuyên chuyên niệm sáu tiếng
“Nam Mô A Di Đà Phật”. Người niệm Phật nên nhất tâm chấp trì
danh hiệu, chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp và không gián đoạn.
Mỗi ngày từ khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngủ, hành giả phải
nhớ niệm Phật luôn, không cho xen hở, gián đoạn. Khi đi, đứng,
nằm, ngồi ngay cả khi ăn và trước khi đi ngủ hành giả đừng bao
giờ quên niệm Phật. Ngoài ra, muốn cho có hiệu quả hơn, hành giả
cần phải theo phương pháp “kinh hành niệm Phật” hay “tọa thiền
niệm Phật”. Mỗi khi niệm xong, hành giả đều hồi hướng cầu sinh
về tịnh độ. Pháp môn niệm Phật là một pháp môn giúp chúng sinh
phá trừ vọng tưởng, mê lầm, chấp trước. Pháp môn này không đòi
hỏi hành giả hiểu biết nhiều về Phật pháp nên người già, người
trẻ, thượng căn, trung căn, hạ căn đều có thể niệm Phật, người
khỏe mạnh cũng như kẻ đau yếu đều có thể niệm Phật.
2) Quán Tượng Niệm Phật: là thỉnh một bức tượng A Di Đà, rồi vừa
niệm Phật vừa quán tưởng tướng hảo trang nghiêm của Phật A Di Đà
đặc biệt là ánh hào quang, tướng bạch hào giữa hai mắt. Hành giả
quán tưởng cho đến khi dù không có tượng, lúc mở mắt nhắm mắt
đều thấy hình tượng Phật hiện rõ nơi trước mặt. Phương pháp này
tương đối hơi khó vì cần phải có tinh lực mạnh, ký ức sâu và
phương tiện khéo. Nếu hành giả không khéo dùng phương tiện thay
đổi, bị hư hỏa xông lên mang chứng bệnh nhức đầu khó trị. Tuy
hơi khó, nhưng phương pháp này giúp người niệm Phật dễ đắc Niệm
Phật tam muội và sau cùng đạt tới Nhất tâm bất loạn.
3) Quán Tưởng Niệm Phật: Phương pháp này chỉ đơn thuần quán
tưởng, không cần phải có tượng Phật trước mặt. Trong mười sáu
phép quán, mười hai phép quán đầu đều là quán tưởng, phép quán
thứ mười ba là quán tượng và phép quán thứ mười sáu là trì danh
niệm Phật. Vậy chúng sinh quán tưởng cái gì?
Hành giả dựa theo kinh Quán Vô Lượng Thọ để quán tưởng y báo,
chánh báo nơi cõi Cực lạc. Kinh dạy có mười sáu phép quán, nếu
hành giả quán thuần thục thì lúc mở mắt hay nhắm mắt đều thấy
cảnh Cực lạc hiện tiền, tâm thần dạo chơi nơi cõi tịnh và khi
chết chắc chắn sẽ được vãng sinh. Công đức của pháp này lớn lao
không thể nghĩ bàn, nhưng vì cảnh quán quá vi tế nhiệm mầu sâu
thẳm nên ít người hành trì được thành tựu. Trong Khế Kinh có
dạy: ”Nếu người quán tưởng Pháp thân Chân như của Đức Phật A Di
Đà, thường tinh tấn tu hành, cuối cùng được vãng sinh, đạt được
chánh định (tam muội).
Quán rằng :
A Di Đà thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di
Cám mục trừng thanh tứ đại hải
Quang trung hóa Phật vô số ức
Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên
Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Chúng sinh quán tưởng bài kệ tán thán Phật này cũng có thể đắc
Niệm Phật tam muội.
4) Thực Tướng Niệm Phật:
là niệm Đức Phật nơi tự tánh, là niệm tánh Phật bản lai của
chính mình. Đây là quán pháp thân thật tướng của Phật, kết quả
sẽ chứng được Chân Như tam muội. Phương pháp này là thuộc về
Thiền, nhưng cảnh giới do tâm Thiền hiển lộ lại là Tịnh độ nên
cũng nhiếp về Tịnh độ. Pháp môn này không gồm thâu bậc trung, hạ
căn và nếu không phải là bậc thượng thượng căn tất không thể ngộ
nhập. Vì thế pháp môn này ít được đề xướng trong Tịnh độ tông.
Nói cách khác thực tướng niệm Phật tức niệm mà không niệm, không
niệm mà niệm thì thời điểm đó hành giả đi vào tham thiền. Cho
nên người hiểu rõ niệm Phật chân chính không phản đối tham thiền
và ngược lại người hiểu rõ thiền thì không chống đối người niệm
Phật.
Vì Thật Tướng, Quán Tưởng và Quán Tượng niệm Phật tương đối hơi
khó cho người niệm Phật, nên Ấn Quang Đại Sư dạy rằng :
“Chỉ duy trì danh mà chứng thật tướng,
Không cần quán tưởng cũng thấy Tây phương”.
Pháp môn Trì Danh Niệm Phật là phương pháp niệm Phật phổ thông
nhất hiện nay, nhưng cũng được áp dụng với nhiều cách thức khác
nhau tùy theo căn tánh của mỗi người.
1) Phản Văn Trì Danh: Đây là phương pháp mà miệng vừa niệm Phật,
tai vừa nghe tiếng niệm vào trong và kiểm soát từng chữ từng câu
thật rành rẽ rõ ràng. Nghe có hai cách, hoặc dùng lỗ tai nghe,
hoặc dùng tâm để nghe. Tuy nói là nghe vào trong, nhưng không
trụ nơi đâu rồi lần lần quên hết trong ngoài, cho đến quên cả
thân tâm cảnh giới, thời gian không gian, sau cùng chỉ còn một
câu Phật hiệu. Đây là phương cách dễ gạn trừ vọng tưởng, mau đạt
được nhất tâm.
2) Sổ Châu Trì Danh: Phương pháp này thì miệng vừa niệm Phật mà
tay vừa lần chuỗi. Lúc đầu ý niệm còn ràng buộc nơi tràng hạt,
nhưng sau lần buông bỏ đi đến cảnh nhất tâm. Tu theo lối này
khiến cho niệm lực thêm mạnh mẽ, phát triển định tâm. Niệm như
thế lâu ngày được thuần thục, không niệm vẫn tự niệm.
3) Tùy Tức Trì Danh: Là niệm Phật thầm, nương theo hơi thở. Mỗi
hơi thở ra vào đều một câu Phật hiệu. Mạng sống con người nương
theo từng hơi thở nên biết nương theo đây mà niệm, lúc nào cũng
có Phật trong tâm.
4) Truy Đảnh Trì Danh: là cách niệm Phật nhỏ nhỏ tiếng, mỗi chữ
mỗi câu đều kế tiếp nhau liên tỏa chặt chẽ thành hình thế chữ
sau đuổi theo chữ trước, câu nọ gối đầu câu kia. Nhờ sự kín đáo
bền chặt, trung gian không xen hở nên tạp niệm không có chỗ len
vào làm cho tâm miệng dũng tiến, oai lực của chánh niệm bao trùm
tất cả khiến cho nghiệp tưởng vô minh tạm thời chìm lắng và ánh
mầu Tam Muội bộc phát chiếu xa. Đây là phương cách tốt nhất cho
những ngời tu tịnh nghiệp trong lúc tình tưởng mênh mang rối
loạn.
5) Giác Chiếu Trì Danh: là một mặt niệm Phật, một mặt hồi quang
soi trở lại chân tánh của mình. Do niệm như thế, hành giả sẽ đi
vào cảnh giới hư linh siêu tuyệt, chỉ còn cảm giác thân tâm của
mình hòa đồng vào chơn tâm của Phật, sáng tròn rực rỡ, đầy rộng
mênh mang. Niệm theo đây thì tuy báo thân chưa mãn đã chứng tịch
quang, Phật hiệu vừa tuyên liền vào Tam Muội. Đây là lối tu dành
cho bậc thượng thượng căn mà thôi.
6) Lễ Bái Trì Danh: Phương thức này là vừa lạy vừa niệm Phật.
Hành giả niệm một câu, lạy một lạy cho thật nhẹ nhàng chậm rãi,
lễ niệm song hành, thân miệng hợp nhất. Nếu thêm vào đó ý thành
khẩn tha thiết thì thành ra ba nghiệp đều tập trung. Đây là
phương pháp phá trừ hôn trầm, công đức và hiệu lực rất to lớn vì
hành giả phải vận dụng cả ba nghiệp để trì niệm.
7) Ký thập Trì Danh: là cách niệm ký số nghĩa là cứ lấy mỗi mười
câu làm một đơn vị. Sau khi niệm đủ mười câu thì lần quan một
hạt chuỗi. Niệm theo lối này thì tâm đã niệm Phật lại còn phải
ghi nhớ số cho nên không chuyên bắt buộc phải chuyên bởi vì nếu
không chuyên thì số mục liền sai lạc. Cách thức này rất công
dụng cho người nhiều nhiều tạp niệm.
8) Liên Hoa Trì Danh: Lấy bốn sắc hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng
vừa niệm vừa tưởng, luân lưu chuyển tiếp. Khi hành giả niệm câu
Phật hiệu thứ nhất thì tưởng trước mặt mình hiện ra một dóa sen
xanh to lớn phóng ánh sáng xanh. Câu thứ hai, tưởng hoa sen vàng
phóng ánh sáng vàng. Cho đến câu thứ ba, thứ tư là hoa sen đỏ,
trắng, màu nào phóng ánh sáng ấy. Kế tiếp tục tưởng lại hoa sen
màu xanh, cứ như thế luân lưu mãi.
9) Quang Trung Trì Danh: Đây là phương pháp vừa niệm Phật, vừa
tưởng mình đang ngồi giữa vừng ánh sáng trong suốt to rộng. Khi
tâm đã an định trong vùng quang minh ấy, hành giả cảm thấy thần
trí sáng suốt mát mẻ, không còn những tạp tưởng và các tướng uế
ác cũng tiêu tan.
10) Quán Phật Trì Danh: Đây là phương thức lấy trì danh làm
chánh, quán Phật làm phụ. Hành giả mỗi ngày sau khi niệm Phật
nên để riêng một thời tịnh tâm quán tưởng sắc tướng quang minh
của Phật A Di Đà. Tưởng Đức A Di Đà thân cao một trượng sáu, sắc
vàng ròng, đứng bên bờ thất bảo, lông trắng giữa đôi mày. Tướng
bạch hào rỗng không trong suốt như bạch ngọc.
Phương pháp niệm Phật thì nhiều không kể hết được, nhưng mười
lối trì danh ở trên là để đối trị với tâm bệnh của người niệm
Phật. Quý Phật tử có thể thử qua để thí nghiệm sự tác dụng của
mỗi phương pháp và sau cùng đem ra áp dụng một lối niệm nào mà
thích hợp với mình nhất.
Vì sở thích và túc căn của chúng sinh có sự sai khác nên con
người mới phân chia ra thành Thiền, Giáo, Mật, Tịnh. Nhưng Phật
pháp không hề có sai khác, cứu cánh giải thoát giác ngộ cũng
không sai khác. Phương tiện tuy khác nhau, nhưng sau cùng cũng
quy về một cứu cánh duy nhất là giải thoát giác ngộ cũng như
trăm sông cùng đổ về biển lớn.
Trong phần này, tuy là nói về niệm Phật, nhưng hành giả cũng có
thể cộng thêm thiền, giáo, mật vào để tăng thêm công lực mà mau
có nhất tâm.
1) Thiền Tịnh song tu: có những hành giả lấy niệm Phật làm
chánh, tham thiền làm phụ, nhưng lại lấy sự vãng sinh Tịnh độ
làm yếu điểm chung cuộc còn việc thấy tánh ngộ đạo chỉ thuộc
phần tùy duyên.
2) Giáo Tịnh song tu: Hành giả lấy niệm Phật làm chánh, tụng
kinh làm phụ. Về phần tụng kinh, có người thích tụng Kinh Kim
Cương hay Di Đà, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa hay phẩm Phổ Môn và Phổ
Hiền Hạnh. Trong Pháp Bảo Đàn kinh có câu chuyện nói về một vị
tăng tên Pháp Đạt đến tham vấn Lục Tổ với tâm niệm tự phụ vì đã
tụng 3.000 lần bộ kinh Pháp Hoa. Khi Lục Tổ hỏi về nghĩa kinh
thì Pháp Đạt thú nhận là không hiểu ý cùng căn bổn của kinh. Lục
Tổ sau khi giảng về “tông” của kinh thì có nói thêm rằng:
- Người thế gian, ngoài mê thì dính tướng, trong mê thì dính
Không. Nếu đối với tướng mà lìa tướng, đối với Không mà lìa
Không thì trong ngoài chẳng mê. Nếu hiểu rõ pháp này, một niệm
tâm mở sáng, ấy là mở “Tri kiến Phật”.
Sau khi tỏ ngộ, Pháp Đạt có hỏi :
- Nếu vậy, hiểu được nghĩa, thì chẳng cần tụng kinh?
Lục Tổ đáp :
- Kinh có lỗi gì, há có ngăn trở sự tụng niệm của ngươi đâu.
Miệng tụng mà tâm làm theo nghĩa kinh, tức là mình chuyển kinh.
Ngược lại, miệng tụng mà tâm chẳng làm theo kinh, tức là mình bị
kinh chuyển.
3) Mật Tịnh song tu: Hành giả lấy niệm Phật làm chánh, trì chú
làm phụ. Trong việc trì chú, mỗi người có thể chọn những chú
như: Đại Bi, Chuẩn Đề, Vãng sanh, Công Đức Bảo Sơn, Văn Thù Ngũ
Thanh thần chú, Lục Tự Đại Minh chân ngôn hay Thủ Lăng Nghiêm
thần chú.
4) Thuần Tịnh: Hành giả chỉ chuyên niệm Phật, không xen tạp môn
nào khác.
Tuy sở thích và túc căn của mỗi người có sai khác và mặc dù có
tu theo những pháp môn khác, hành giả Tịnh độ cũng cần lưu ý đến
hai phần chánh và trợ cho được phân minh. Dĩ nhiên phần chánh
luôn luôn nhiều hơn phần trợ. Có như thế thì đường tu mới không
mất mục tiêu và sự vãng sinh cũng không bị chướng ngại.
Tại sao dễ niệm Phật mà kết quả khó thành?
Người niệm Phật tuy miệng niệm nhưng tâm lại lạc vào trạng thái
mê mờ, nặng nề muốn ngủ, nhà Phật gọi là vọng chướng hôn trầm.
Hoặc miệng thì niệm Phật, nhưng tâm lại vẩn vơ nghĩ chuyện đâu
đâu tức là vọng duyên tán loạn khiến cho hành giả không thể vào
chánh định. Đôi khi có những trường hợp hành giả lúc đang hành
trì, vọng tưởng chìm lặng, câu niệm Phật vẫn nghe đều đều, tâm
tư êm dịu quên cả hiện tượng ngoại giới như nóng bức hay lạnh
giá…
Trạng thái này kéo dài
từ nửa tiếng đến một giờ đồng hồ, có khi ra mồ hôi ướt cả áo mà
không hay đến khi chợt tỉnh mới cảm biết trong người nóng bức
hay lạnh buốc khó chịu. Đây là trạng thái hôn trầm nhưng thuộc
về phần vi tế nhẹ nhàng chớ không phải tâm mình được an định.
Vọng tưởng cũng có hai phần là thô và tế. Vọng tưởng thô thì dễ
biết vì hành tướng nó rất rõ ràng. Khi niệm Phật dụng công chặt
chẻ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng
rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế. Chỉ
có những người niệm Phật lâu, đến trình độ nước trong tâm lặng
thì mới thấy biết được vọng tưởng vi tế. Ngài Bạch Thánh pháp
sư, một buổi sáng từ nơi giường bước lại ghế ngồi, trong khoảng
chừng ba giây đồng hồ đã phát giác trong tâm mình nổi lên đến
vài mươi vọng niệm khác nhau. Đủ biết vọng tưởng vi tế nguy
hiểm, tác hại biết bao.
Ngài Quang Huệ và Giới Diễn là hai vị thiền sư đều ngộ đạo. Một
hôm trong khi cùng ngồi thiền, nơi tiềm thức của Ngài Giới Diễn
chợt nổi lên một niệm sắc ái. Ngài liền diệt trừ, nhưng bên kia
thiền sư Quang Huệ đã hay biết. Sau khi xuất định, Ngài Quang
Huệ làm bài kệ có ý trêu cợt Ngài Giới Diễn. Thiền sư Giới Diễn
buồn thẹn, liền thâu thần nhập diệt. Ngài Quang Huệ hối hận, cho
gọi đệ tử đến phó chúc rằng: “Bạn ta trong khi thiền định có một
niệm sắc ái, sau tất lụy về sắc, vì phiền ta mà thị tịch, sau sẽ
phá hoại Tam Bảo. Lỗi ấy một phần do ở nơi ta, nếu ta không theo
hóa độ, tất sẽ mang lấy hậu quả”. Dặn dò xong, Ngài cũng viên
tịch theo luôn.
Sau Quang Huệ chuyển
thân làm thiền sư Phật Ấn còn Giới Diễn chuyển kiếp làm Tô Đông
Pha. Vì Đông Pha kiếp trước có tu nên thi đổ Tiến Sĩ vào đời vua
Tống Nhân Tông (1056 Tây lịch) làm quan đến chức Hàn Lâm Học sĩ
kiêm Binh Bộ Thượng Thơ tương đương với chức Bộ Trưởng Giáo Dục
và Bộ Trưởng Quốc Phòng thời nay. Ông thông minh trí tuệ mà cũng
đa tài đa tình, có đến bảy người vợ và thường đem sự thông minh
bác lãm của mình mà vấn nạn các vị thiền sư. Về sau Ngài Phật Ấn
chiết phục, ông mới quay về đường lối tu Phật. Bất cứ đi đâu,
ông cũng mang theo bên mình một bức tượng tranh của Phật A Di Đà
và bảo cùng với mọi người rằng: “Đây là quyển sổ Niệm Phật của
tôi”. Đến khi tuổi già, nằm trên giường bệnh, trong giờ phút tối
hậu, có Thiện Tri Thức nhắc nhở niệm Phật, ông phều phào trả lời
rằng :
- Tôi vẫn biết niệm Phật có công đức không thể nghĩ bàn. Nhưng
khổ nỗi, hiện giờ thân thể tôi đau nhức quá, không sao niệm Phật
được.
Nói xong đoạn qua đời. Tiếc thay cho Ngài Giới Diễn, một cao
tăng ngộ đạo khi xưa mà kiếp này như thế! Chẳng biết kiếp sau sẽ
lạc về đâu trong sáu nẻo luân hồi!
Vì thế vọng tưởng vi tế rất nguy hiểm ngay cả những bậc chân tu
còn phải e dè co nên cổ nhân cũng có câu :
“Công phu không thiếu cũng không dư
Muôn kiếp tham si chữa dễ trừ”.
Khi loạn tưởng nhiều, hành giả nên ngồi yên nhiếp tâm niệm Phật.
Lúc hôn trầm đến thì nên đứng lên vừa niệm vừa kinh hành. Cứ
dùng hai oai nghi này thay đổi mãi, lâu ngày chướng duyên ấy sẽ
tiêu trừ. Thêm nữa, hành giả lắng tai nghe rành rõ từ tiếng từ
câu niệm Phật thì tâm không tán loạn.
Thế nào là Niệm Phật tam muội?
Tam muội có nghĩa là chánh định hay chánh thọ. Vì thế niệm Phật
khi có được chánh định thì gọi là niệm Phật tam muội. Chánh thọ
nghĩa là khi tâm đã thanh tịnh thì chánh thọ sẽ thành bất thọ
tức là không còn thọ cái gì cả. Hằng ngày, con người thọ biết
bao thứ trên cõi đời, nào là thọ vui, thọ buồn, thọ khổ, thọ
mừng, thọ ghét, thọ yêu, thọ giận… Càng thọ thì chúng sinh càng
khổ, tâm càng bất tịnh. Vậy thọ chính là biểu tượng của vô minh,
là nhân của đau khổ cho nên nếu không thọ tức thì vô minh mất,
khổ đau tan biến. Không thọ thì không đặt niềm hy vọng mà không
hy vọng thì không sợ bị thất vọng nên không còn khổ. Khi những
ma chướng như tham-sân-si dấy khởi làm cho con người sống trong
chập chồng đau khổ, bây giờ biết quay về niệm Phật. Niệm cho đến
khi vọng tưởng tan biến, tâm không còn giận, còn hờn, còn tham
đắm si mê thì con người đã dùng lửa tam muội đốt sạch vô phiền
não rồi. Vậy lửa tam muội không gì khác hơn là năng lực niệm
Phật hay tham thiền để xoay tâm trở về với tự tánh bản nhiên
thanh tịnh mà có an lạc Niết bàn.
Người niệm Phật khi đến chỗ tuyệt đỉnh tận cùng khiến tâm rất
định thì cái định thể này là Niệm Phật tam muội. Hành giả sẽ cảm
nhận cảnh hư linh sáng lặng, vọng giác tiêu tan và tâm chỉ còn
trụ nơi tướng hảo hoặc hồng danh của Phật. Tuy nói là trụ, nhưng
thật ra là vô trụ vì âm thanh sắc tướng đưởng thể như huyễn tức
là không. Khi chúng sinh chuyên nhất niệm Phật, luôn giữ chánh
niệm, quên hết thân tâm ngoại cảnh, tuyệt cả không gian thời
gian đến khi sức cực công thuần thì nơi đương niệm trần vọng
bỗng thoạt tiêu tan, tâm thể bừng sáng, chứng vào cảnh giới vô
niệm vô bất niệm tức là niệm mà không niệm, không niệm mà niệm
nghĩa là không thấy biết mới là sự thấy biết chân thật còn có
thấy biết tức lạc theo ngoại trần. Đến đây thì tâm thể hoàn toàn
sáng suốt rỗng rang, tịch mà chiếu, chiếu mà tịch, đều còn đều
mất, tuyệt đãi viên dung.
Kinh dạy Phật nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con và nếu con cũng nhớ
mẹ thì đời đời không ngăn cách nghĩa là tuy Phật vì lòng từ bi
thương xót chúng sinh còn lặn hụp trong sông mê bể khổ, muốn đem
giáo pháp nhiệm mầu để cứu vớt họ đến bờ giải thoát, nhưng nếu
chúng sinh không hồi đầu thị ngạn quay về nương tựa nơi Phật
pháp thì Phật cũng chẳng độ được tức là mẹ con vẫn xa cách nghìn
trùng. Trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tâm,
Phật tánh như nhau, nhưng vì sống trong điên đảo, chạy theo vô
minh phiền não nên mới xa dần chơn tánh của mình. Do đó nếu bây
giờ biết thức tỉnh quay thuyền trở lại bến xưa, nương tựa nơi
chánh pháp thì Phật tánh hiện tiền tức là Phật và chúng sinh là
một nghĩa là mẹ con tương ngộ tương phùng.
Kinh lại dạy tiếp rằng: “Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật thì tâm ấy
là tâm Phật, nhất định sẽ thấy Phật”. Nhưng thấy Phật bằng cách
nào? Thấy Phật bằng tướng hay bằng định? Thấy tướng là còn thấy
sinh diệt, còn thấy trong định là tâm chẳng còn tán loạn. Ngày
nay người niệm Phật thì nhiều, nhưng thành công thì ít, nguyên
nhân là do miệng niệm Phật nhưng tâm không niệm, niệm thứ nhất
vừa mới tinh thuần thì niệm thứ hai bèn xen tạp nên không có
định, vọng tưởng vẫn còn dấy khởi nên không có kết quả.
Con người vì chẳng thể đoạn tham cầu ái dục, các thứ hưởng thụ
trong cuộc sống nên lòng lưu luyến khó buông xả. Sợi dây ràng
buộc càng to, càng rắn chắc thì càng khó đứt. Nó chính là căn
nguyên cội rễ phát sinh ra Kiến hoặc, Tư hoặc tạo ra biết bao
phiền não để cột chặt con người vào những hệ lụy của phiền não
khổ đau, vào vòng sinh tử trầm luân. Vì thế trong pháp “Như
huyễn Tam-ma-đề” giúp chúng sinh nhận thấu vạn pháp giai không,
như huyển, không bền không chắc nên dễ tháo gút mở dây.
Tất cả phương cách niệm Phật trên thực tế chỉ là “Sự Niệm” vì
tâm còn dựa theo sắc tướng âm thanh tức là còn lấy thức tâm sinh
diệt làm nhân địa tu hành thì không bao giờ thành giác. Nhưng sự
diệu dụng nhiệm mầu của Phật pháp là ban đầu hành giả tuy có
nương theo âm thanh sắc tướng, nhưng dần theo thời gian âm thanh
sắc tướng cũng tiêu tan, biến mất và sau cùng đạt được mục đích
tối hậu là niệm Phật đến chỗ vô niệm thì thấy được Pháp thân
thanh tịnh của mình.
Nhưng thế nào là vô
niệm? Niệm là ý niệm, là ý nghĩ. Vô là không. Dựa theo lời giải
thích của Lục Tổ Huệ Năng thì Vô là không vọng niệm, còn Niệm là
thường niệm chơn như bổn tánh. Nói thế “chơn như bổn tánh là thể
và niệm là dụng”. Do đó nếu chơn như tự tánh không khởi niệm thì
sáu căn cho dù có thấy nghe cũng không vì thế mà đắm nhiễm với
ngoại trần. Được như thế là vô niệm. Nói cách khác niệm Phật đến
một công phu nhất định, lúc ấy vọng thức không còn, tâm hằng
thanh tịnh thì sẽ nhập vào “Lý Niệm” tức là có thể thấy được
Pháp thân thường trụ của mình, thấy Phật nơi tự tánh, Phật tâm
bình đẳng thanh tịnh.
Vì thế Lục Tổ Huệ Năng cũng dạy rằng : ”Kẻ mê thì niệm Phật hy
vọng vãng sinh Tây phương, người ngộ cũng niệm Phật nhưng chỉ
cần thanh tịnh tâm mình”. Tại sao? Người mê thì thấy mình và
Phật là hai thực thể khác nhau, cách biệt ngàn trùng nên mới cầu
đến phương Tây để gặp Phật, ngược lại kẻ thức tỉnh giác ngộ biết
rằng tâm mình chính là tâm Phật nên chỉ sống với tâm thanh tịnh
an lạc thanh nhàn mà không cần cầu Phật ở đâu xa.
Đối với người sơ cơ thì Phật Thích Ca dạy có Phật A Di Đà ở cõi
Tây phương cách xa trái đất mười vạn ức cõi Phật, nhưng đây chỉ
là phương tiện, là Phật nói quyền giúp chúng sinh tin theo đó mà
niệm Phật để giải trừ vô minh, vọng chấp. Cũng ví như câu chuyện
tham tiền niệm Phật vậy. Ban đầu vì tham tiền mà niệm Phật, càng
niệm thì càng có nhiều tiền. Nhưng niệm đến khi vô niệm vô biệt
niệm tức là có được nhất tâm thì tiền cũng không tham, thấy tiền
như thấy rác. Do đó khi đã hiểu đạo rồi và một khi tâm mình được
thanh tịnh thì ở nơi đó và ngay trong thời điểm đó Phật A Di Đà
hiển hiện trong tâm của ta rồi.
Lúc ấy lầu vàng gác
tía cũng chẳng ham, vãng sinh cũng chẳng mong cầu vì sống với
chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh là có Cực lạc, là được
vãng sanh rồi. Vì thế mà kinh Duy Ma Cật nói rằng “Tùy kỳ tâm
tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là một khi tâm mình thật thanh
tịnh thì nơi ấy chính là cõi Phật A Di Đà. Vì thế mà Đức Phật
Thích Ca và biết bao đệ tử của Ngài ở đâu và bất cứ lúc nào tâm
cũng hằng thanh tịnh, tự tại Niết bàn. Ngược lại chúng sinh phàm
phu tâm bất tịnh, phiền não vô minh lúc nào cũng nổi dậy, lòng
còn tham đắm dục tình nên tu hành là phải xả bỏ mà lại muốn
hưởng cao sang phú quý và an dưỡng nơi giàu sang Cực lạc.
Ngày xưa vua Trần Thái Tông rời cung điện nguy nga, leo trèo lặn
lội, núi hiểm suối sâu tìm lên núi Yên Tử để tìm Phật thì Quốc
sư Trúc Lâm nói rằng: “Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở
trong tâm. Tâm lặng mà biết gọi là Chơn tâm. Nay bệ hạ nếu ngộ
tâm này thì tức khắc thành Phật, không nhọc cầu bên ngoài.”
Câu giảng rất nổi tiếng của Ngài Mã Tổ Đạo Nhất (đệ tử đời thứ
hai của Lục Tổ Huệ Năng) là “Tức Tâm Tức Phật”. Ngài đã giảng nó
như sau: “Phàm người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm
không có Phật, ngoài Phật không có tâm, không lấy thiện chẳng bỏ
ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy”. Ngài dạy thêm: “Vọng
tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu”.
Ngài muốn nhắc nhở chúng sinh là ai ai cũng đều sẵn có Chơn tâm,
Phật tánh chớ không phải vì tu tập đắc đạo mới có. Ngài nhấn
mạnh rằng Tâm đó tức là Phật do đó nếu con người đi tìm Phật ở
ngoài Tâm đó là làm một điều vô ích chẳng khác nào “mang Phật đi
tìm Phật”. Sau cùng Mã Tổ còn dạy rằng: “Tâm bình thường là
Đạo”. Theo Ngài thì thế nào là tâm bình thường? Đó là không tạo
tác, không hơn thua phải trái, không thủ xả, không đoạn thường,
không phàm thánh.
Vậy niệm Phật có những lợi ích gì?
1) Nếu nói về Sự:
thì niệm Phật sẽ trừ được các phiền não. Tâm của chúng sinh cũng
như dòng nước luôn tuôn chảy, nếu pha những chất dơ bẩn thì nước
trở thành vẫn đục, nhơ nhớp. Ngược lại nếu pha vào dòng nước
những chất thơm tho thì nước sẽ trở thành thơm mát. Do đó nếu
tâm chỉ nghĩ đến những cảnh tượng phiền não khổ đau thì luôn
luôn sẽ bị phiền não khuấy đục. Ngược lại niệm Phật một giờ thì
có một giờ an lạc, một ngày thì có một ngày an lạc. Chúng sinh
hằng ngày chuyên nghĩ đến những điều tội lỗi như tham-sân-si…
và miệng thốt
ra những lời tội ác, thân làm những việc xấu xa. Nay nếu biết
niệm Phật thì bộ ba thân, khẩu, ý không có cơ hội thực hành
những ác nghiệp, tâm trí sẽ sáng suốt, bệnh tật cũng vì thế mà
thuyên giảm và cuộc đời sẽ vô cùng an vui tự tại.
2) Lợi ích về Lý: Khi hành giả niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất
loạn thì không còn các vọng tưởng và chơn tâm thanh tịnh hiện
ra. Chơn tâm thường trú không sinh diệt hư hoại nên gọi là
“Thường” và thể tánh tịnh minh sáng suốt là “Quang” và tâm thanh
tịnh vắng lặng là “Tịch”. Do đó cảnh “Thường, Tịch, Quang”
Tịnh độ chỉ ở nơi chơn tâm ta chớ không đâu khác.
Thêm nữa, chơn tâm
không hoại diệt là “Phật Vô Lượng Thọ”, chơn tâm chiếu soi
vô tận là “Phật Vô Lượng Quang” và đó tức là “Thanh tịnh diệu
Pháp thân” của Phật A Di Đà. Nói cho cùng, người niệm Phật
đến khi hết vọng, ngộ nhập chơn tâm rồi thì Phật A Di Đà hay
cảnh Tịnh độ cũng chỉ nơi tâm mình hiện ra, chớ không phải ở đâu
xa. Vì thế nên Kinh dạy rằng: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”
là vậy. Đến đây chắc có người sẽ thắc mắc về Phật A Di Đà và
cảnh giới cõi Cực lạc, chúng tôi xin kể lại câu chuyện của một
vị tăng hỏi Ngài Triệu Châu rằng:
- Con chó có Phật tánh không?
Ngài Triệu Châu đáp:
- Có.
Vị tăng khác lại hỏi:
- Con chó có Phật tánh không?
Ngài Triệu Châu bây giờ đáp:
- Không.
Tại sao Ngài có lúc nói có, có lúc nói không?
Ngài Triệu Châu chỉ dùng phương tiện mà phá cái chấp của chúng
sinh. Đối với người chấp có Phật tánh (Phật A Di Đà) thì Ngài
nói là không tức là dùng cái không để phá chấp có. Còn người
chấp không thì nói có nghĩa là dùng cái có để phá chấp không.
Phật tánh là chơn không, vô hình vô tướng thì làm sao diễn tả
được mà nói là có hay không. Con người phải lìa văn tự, ngữ ngôn
thì mới ngộ được chơn tâm, Phật tánh. Vì thế trong kinh Kim
Cang, Phật dạy rằng: “vô pháp khả thuyết gọi là thuyết pháp”
nghĩa là không có pháp để cho Như Lai thuyết bởi vì cái mà nói
được thì nằm trong vòng lẩn quẩn tương đối, sinh diệt còn chân
lý là pháp tuyệt đối, vô hình vô tướng, bất sinh bất diệt thì
làm sao nói được. Dó đó “có”
hay “không” chỉ là phương tiện để đối trị với
bệnh chấp của chúng sinh.
Trong kinh Lăng Già có câu: “lìa tứ cú, tuyệt bách phi”.
Vậy thế nào là tứ cú?
Có là cú thứ nhất, không là cú thứ nhì, cũng có cũng không là cú
thứ ba, chẳng có chẳng không là cú thứ tư. Con người chấp
cái “có” thì Phật nói “không” để đối trị cái có. Chúng sinh chấp
“không” thì Phật thấy bệnh chấp vẫn còn nên dùng “có” để phá.
Chúng sinh thấy Phật phá có, phá không cho là “chẳng có, chẳng
không” thì lại chấp chẳng có, chẳng không. Phật thấy chúng sinh
bệnh chấp vẫn còn nên phải dùng “cũng có, cũng không” để phá.
Phật dùng phương tiện để phá mà chúng sinh tưởng thật nên tin
“cũng có, cũng không” là chân lý nên sau cùng Phật phải đối lại
“chẳng có, chẳng không”. Vì vậy có cũng phá, không cũng phá,
chẳng có chẳng không cũng phá, cũng có cũng không cũng phá nghĩa
là tứ cú đều phá hết, không trụ nơi có, không trụ nơi không,
không trụ nơi chẳng có chẳng không, không trụ nơi cũng có cũng
không tức là vô sở trụ thì lúc ấy Phật tánh (A Di Đà) mới hiện
tiền.
Kinh dạy tiếp: “Đến đây thì như người ướp hương, thân có mùi
thơm gọi là Hương Quang Trang Nghiêm”. Đứng về mặt bản thể chơn
tâm mà nói, tâm Phật và tâm chúng sinh vốn nào có khác, cùng
đồng một bản thể thanh tịnh. Trong thế gian, phàm nhân dùng
tưởng tượng, dùng duy tư, dùng duy tưởng để nhận biết thì cái
biết này là “thế trí biện thông” nghĩa là cái biết, cái trí thức
thông thường còn sai lạc. Ngược lại, một người tâm đã định thì
cái định này như tấm gương, tịnh như nước lặng mới có thể đưa
hành giả thấy được chân tướng, thật tướng của nhân sinh vũ trụ,
có thể thấy rõ ràng quá khứ, hiện tại và vị lai. Đó là định tuệ
bình đẳng phát sinh tức là có định thì trước sau cũng phát sinh
trí tuệ. Khi đã có Bồ-đề, có giác ngộ thì tham-sân-si, mạn, nghi
biến mất. Những ô nhiễm trần thế không còn thì thân tâm bây giờ
hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt rỗng rang nên tỏa mùi hương
(Giới-Định-Tuệ) trang nghiêm khắp cùng thế giới. Vậy hương ở đây
chính là Giới-Định-Tuệ giải thoát, giải thoát tri kiến hương cho
nên nếu đem hương này chia cho toàn thể thế giới thì cũng không
bao giờ hết. Ngửi thấy mùi hương là thâm nhập giới, định, tuệ
hương nên có giải thoát làm cho thân tâm được thanh thoát nhẹ
nhàng.
Thế nào là ngộ vô sanh nhẫn?
Vô sanh nhẫn tức là vô sanh pháp nhẫn. Khi tư duy quán chiếu để
nhìn vạn pháp vô sanh thì cũng có nghĩa là nhìn vạn pháp vô
diệt. Thí dụ khi nhìn một nụ hoa thì làm sao biết được tánh vô
sanh của nó? Khi nhìn đóa hoa mới nở thì chắc chắn là nụ hoa
sanh và vài tuần sau, hoa tàn thì nói rằng nụ hoa diệt. Nhưng
đây chỉ là cái nhìn thiển cận của phàm nhân, còn cái nhìn của
Bồ-tát tu hành chứng đắc, ngộ được vô sanh là ngay trong lúc nụ
hoa mới nở thì cái sinh đã có diệt trong đó rồi. Ngược lại trong
lúc nó tàn úa thì các vị Bồ-tát lại nhìn cái diệt là bắt nguồn
cho cái sinh khác. Đó là hiện tượng quy về bản thể và bản thể
duyên khởi thành ra hiện tượng thành ra có cái gì là thật sinh
hay cái gì là thật diệt đâu. Nói cách khác sinh để rồi diệt,
diệt rồi lại sinh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận nên sinh
diệt, sống chết là chuyện thường, chẳng có gì quan trọng nên
không còn lo sợ, khổ đau. Chúng sinh khi thấy mình già yếu, bệnh
tật thì đau khổ buồn phiền. Ngược lại, đối với Bồ-tát thì sống
chết là chuyện bình thường, tử sanh là trò dâu biển nằm trong
chu kỳ bất biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến thế thôi. Vì
vậy với tuệ nhãn của Bồ-tát hay Phật nhãn của chư Phật thì nhìn
vạn pháp sanh mà không thật sanh và diệt nhưng không phải là mất
hẳn nghĩa là sinh để rồi diệt và diệt rồi để lại sanh, sinh sinh
diệt diệt vô cùng vô tận. Đây là chứng ngộ chân lý vô sanh pháp
nhẫn vậy.
Trên đây là lối lý luận dựa theo tinh thần Bát Nhã vì thế người
chứng được vô sanh nhẫn là đã đạt đến trình độ Bát địa hay Cửu
địa trong Thập địa nghĩa là họ dùng tịnh niệm chân chính để diệt
trừ tà kiến, vọng tưởng và các thứ nhiễm ô tư tưởng. Nói cách
khác, trước kia thấy đời là năm thứ ác trược, bây giờ tâm thanh
tịnh rồi thì cũng cái thế giới đó mà thấy rất thanh tịnh. Vì thế
kinh Duy Ma Cật cũng dạy rằng: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ
tịnh” nghĩa là một khi tâm mình thanh tịnh thì thế giới chung
quanh là cõi Phật thanh tịnh tức là tâm an thì thế giới an vậy.
Kinh lại dạy rằng: “Phật chẳng độ chúng sinh” nghĩa là tâm Phật
và tâm chúng sinh vốn đồng một thể, nhưng chúng sinh chạy theo
tâm sinh diệt, tâm hư vọng nên thấy toàn tướng hư vọng. Đến khi
tâm được hoàn toàn thanh tịnh, rỗng rang thì chơn tâm, Phật tánh
hiển bày. Vì thế Phật chẳng độ là khả năng tự chứng được hay
không là do công phu của chính mình tức là tự lực. Ngài Đại Thế
Chí chỉ nhờ chuyên cần niệm Phật tức là hoàn toàn nhờ vào khả
năng tự lực mà chứng được vô sanh pháp nhẫn, có được trí tuệ
trong sáng, viên thông tự tại. Trong 48 đại nguyện của Phật A Di
Đà có 31 điều mà hàng Bồ Tát, nhơn, thiên phải tự lực tu hành.
Có 16 điều nói về những thù thắng của cõi Cực lạc. Chỉ có một
điều, đó là điều thứ 18 liên hệ đến tha lực của Phật A Di Đà.
Điều 18 đại ý nói rằng: “Thập phương chúng sinh chí tâm tín mộ
muốn sinh về cõi Cực lạc chỉ cần 10 niệm là được toại nguyện,
trừ kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp”. Nhưng trong 31
điều tự lực, hành giả phải dùng Thiền định để đạt được “Niệm
Phật Nhất Tâm bất loạn” mà chứng được Bát Nhã tam muội, Không
tam muội và Vô Tranh tam muội…
Có một Thiền sư tu đắc đạo, đạt được minh tâm kiến tánh nên danh
tiếng truyền tới kinh thành. Nhà vua rất ái mộ, sai quan lớn lên
núi thỉnh Thiền sư về kinh thành để vua hỏi pháp. Thỉnh một lần
cũng không đi, hai lần cũng không đi đến lần thứ ba vua nổi giận
mà phán rằng :
- Nếu kỳ này thỉnh Thiền sư không đi thì đem cái đầu ông ấy về
kinh thành.
Viên đại quan lên núi thuật lại với Thiền sư và lời phán của vua
và nói rằng:
- Tôi không dám lấy đầu của Ngài, nhưng tôi về không thì vua sẽ
lấy đầu của tôi. Ngài hãy thương tôi mà đi.
Thiền sư đáp :
- Đi thì đi.
Rồi Thiền sư hỏi trong số đệ tử có ai muốn đi theo không?
Có một đệ tử ra nói:
- Con theo thầy đi.
Thiền sư hỏi:
- Một ngày con đi được mấy dặm?
- 50 dặm.
Thiền sư đáp:
- Không được.
Đệ tử khác nói:
- Con xin đi theo thầy?
- Một ngày con đi bao nhiêu dặm?
- 70 dặm.
- Không được
Một đệ tử khác cũng xin đi.
- Một ngày con có thể đi bao nhiêu đặm.
- 90 dặm.
- Không được.
Người nào cũng không được, sau cùng người thị giả nói:
- Con xin theo thầy.
Thiền sư lại hỏi :
- Một ngày con đi bao nhiêu dặm?
Thị giả đáp :
- Không biết, thầy đến đâu thì con đến đó.
Thiền sư hài lòng :
- Vậy là được.
Thiền sư ngồi ngay lại liền tịch diệt (nhập diệt) và người Thị
giả cũng tịch theo luôn. Quan lớn thấy thế hoảng sợ, chứng tỏ
oai quyền của vua chỉ áp chế cho người thường, chớ không thể áp
dụng cho bậc chứng đắc được. Bởi vì Thiền sư đạt được minh tâm
kiến tánh, chứng vô sanh pháp nhẫn nên sanh tử tự do, nói đi là
đi liền.
Sau khi thành đạo, Đại Thế Chí Bồ Tát nguyện hướng dẫn người
niệm Phật để có được tịnh độ. Vì thực hành “Như huyển Tam-ma-đề”
nên Bồ Tát thấy mình là huyển, vào huyển thế gian, độ cho huyển
chúng sinh đắc thành huyển quả và có huyển tịnh độ. Đối với Bồ
Tát thì trên đời này chẳng có cái gì là thật cả. Nếu thế gian là
không thật thì tịnh độ làm sao thật được? Các Ngài vào thế gian
để giáo hóa, hướng dẫn chúng sinh biết niệm Phật, biết nhiếp tâm
vào câu niệm Phật để hóa giải hết vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước mà có được nhất tâm. Nhất tâm chính là chơn tâm, là tự
tánh thanh tịnh bản nhiên của tất cả mọi người. Nếu chúng sinh
niệm danh hiệu Phật A Di Đà để dẹp trừ vọng tưởng, chấp trước
thì mỗi câu niệm sẽ quét sạch vọng tưởng làm tâm thanh tịnh.
Ví như ngọn đèn vốn
sáng, nhưng vì gió lay động làm ánh sáng bị lu mờ. Nếu bây giờ
chụp cái bóng che gió vào thì ngọn đèn sẽ bừng sáng. Do đó, nếu
chúng sinh suốt ngày trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, biết chú
tâm vào hồng danh nầy khi làm việc, lúc nghỉ ngơi cho đến lúc
nhất tâm bất loạn thì cái ảo ảnh nhị nguyên của vô minh, cái tâm
phân biệt, có chúng sinh có Phật sẽ chấm dứt và họ sẽ chứng ngộ
được chân lý nhiệm mầu ngay. Khi tâm đã hoàn toàn thanh tịnh thì
cảnh Tịnh độ cũng chỉ nơi tâm mình hiện ra, chớ không phải đâu
xa bởi vì cảnh giới cho dù là tận hư không cùng khắp pháp giới
đều là do tâm tánh con người biến hiện.
Vậy thế nào là nhiếp trọn sáu căn?
Đại Thế Chí Bồ Tát “nhiếp trọn sáu căn” là Ngài làm chủ sáu căn
của mình không cho nó chạy theo khách trần phiền não. Sáu căn,
sáu trần tự chúng là bản nhiên thanh tịnh phát xuất từ Như Lai
Tạng bản thể thì làm gì có tội lỗi, xấu xa. Nhưng nếu con người
không biết tự chủ mà để cho sáu căn dính mắc nơi sáu trần thì
vọng tưởng mê lầm chắc chắn sẽ xảy ra. Đức Phật và các đại đệ tử
của Ngài cũng còn nguyên mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý như tất
cả mọi người, nhưng vì biết tự chủ sáu căn nên các Ngài luôn có
Bồ Đề và tâm thường trụ Niết bàn. Các vị Tổ của Tịnh độ phát
minh ra sâu chuỗi có 18 hột là biểu tượng cho sáu căn, sáu trần
và sáu thức. Khi niệm Phật, hành giả nắm chắc từng hột một nghĩa
là thu nhiếp từng căn không cho nó chạy tán loạn trong trần
cảnh. Cái khó khăn nhất của pháp môn này là khi không niệm Phật,
không thu nhiếp được sáu căn thì vọng tưởng sẽ nổi dậy trở lại,
vì “Định” chỉ có thể kềm chế chớ không tiêu diệt được “vọng
tưởng”. Chỉ khi nào từ Định sang Tuệ thì vọng thức mới bị tiêu
trừ. Vì vậy Ngài Đại Thế Chí dạy chúng sinh phải thực hành tịnh
niệm tương tục.
Tịnh là không còn tạp niệm, không còn vọng tưởng. Vậy “tịnh niệm
tương tục” có nghĩa là niệm Phật liên tục, không gián đoạn, ngày
này qua ngày nọ, tháng này qua tháng nọ, năm này qua năm nọ, đời
đời kiếp kiếp không lúc nào ngừng nghỉ cho đến khi đạt được nhất
tâm. Có được nhất tâm bất loạn tức là tâm đã định và khi tâm
định thì trí tuệ sáng suốt sẽ phát sinh nghĩa là chứng đắc
Tam-ma-đề tức là định-tuệ viên dung hay là định-tuệ không “hai”.
Người tu Tịnh độ nói rằng pháp môn niệm Phật rất dễ, trăm người
tu trăm người chứng, ngàn người tu ngàn người chứng. Thực tế có
dễ như vậy chăng? Pháp môn niệm Phật được xếp hạng thứ 24, chỉ
đứng sau Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông, thì tầm mức của nó dĩ
nhiên rất là quan trọng, nhiệm mầu. Nếu người niệm Phật chỉ
trong một sát na để tâm chạy theo ngũ dục lạc của thế gian là
sắc, tài, danh lợi, ăn ngon, ngủ nghỉ thì làm sao còn là tịnh
niệm được? Dựa theo Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát thì nhiếp trọn sáu
căn nghĩa là mắt không thấy tướng xấu đẹp, tai không nghe tiếng
khen chê, mũi không ngửi mùi thơm thúi, lưỡi không nếm mùi ngon
dở, thân không tiếp xúc nóng lạnh ấm êm và ý không phân biệt
buồn vui, thương ghét cho đến khi đạt được công phu nhất tâm bất
loạn. Nếu nói dễ thì quý vị đã nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm
tương tục được chưa? Hay dễ hơn là có nhiếp được căn nào không?
Tịnh niệm còn không có tức là hằng ngày chỉ nghĩ nhớ ngũ dục lạc
của thế gian thì là sao có được niệm trong sạch mà nói dễ hay
khó?
Vậy khó, dễ là do tâm mình tạo chứ không phải các pháp khó dễ.
Không giống như các viên thông ở đoạn kinh trước, chỉ lựa chọn
từng căn để hạ thủ công phu, ở đây Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương
Tử nhiếp phục cả sáu căn, quy cả sáu căn đều thâu về nơi nhất
niệm niệm Phật, không để tán loạn dong ruổi theo ngoại duyên.
Tịnh niệm thường nối đuôi, không xen tạp một niệm nào khác mà
chứng được niệm Phật tam muội tức là có được chánh định mà đạt
đến cứu cánh nhất tâm bất loạn, giải thoát viên thông tự tại.
Thế nào là Cực Lạc?
Cực Lạc là cực kỳ an lạc, không còn khổ. Có thể hiểu đó là cõi
tâm hoàn toàn thanh tịnh, an lạc. Con người vì có nhiều tham đắm
với hình tướng nên Phật mới đưa ra phương tiện hình ảnh để dụ
chúng sinh hồi đầu thị ngạn. Cũng như trong kinh Pháp Hoa, Phật
dùng phương tiện dạy chúng sinh hiện đang ở trong căn nhà lửa.
Nếu biết sự tai hại của lửa tham sân si, đốt cháy cả tâm linh
thì nên hồi quy một lòng niệm Phật. Dần dần niệm Phật sẽ thay
thế toàn bộ ác niệm khiến tâm tịnh dần và đi tới thuần tịnh thì
có cõi Tịnh độ rồi. Khi ấy hành giả sống trong an lạc, trong cõi
Cực Lạc ngay trong cõi đời này tức là “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật
độ tịnh” vậy.
Vì thế Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát nói rằng: “Nếu đứng trên cương vị
của tôi, với kinh nghiệm tu hành và sở đắc của bản thân tôi từ
vô lượng kiếp cho đến nay và nếu hỏi tôi pháp môn nào là thù
thắng nhất thì tôi xin thưa rằng tôi không chú ý đến các pháp
môn khác, chỉ pháp môn thâu nhiếp lục căn, tịnh niệm luôn luôn
tương tục, đắc tam-ma-đề, là đệ nhất”.
Sau cùng, cổ thi có câu :
“Ngày trước đầu đường còn ruỗi ngựa,
Hôm nay trong quách đã nằm yên”.
Hoặc là :
“Chớ hẹn đến già rồi niệm Phật,
Đồng hoang mồ trẽ thấy đông người”.
Chúng sinh nếu muốn phòng ngừa cơn vô thường chợt đến, mỗi thời
khắc phải gắng chăm niệm Phật. Như thế, gặp giây phút cuối cùng
mới không bối rối, hốt hoảng tay chân như Tô Đông Pha. Vô thường
và bệnh chết nó đến với mọi người bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu
cho nên người học Phật đã biết nó như thế thì không sợ vô thường
và coi thường bệnh chết. Vì thế cổ nhân cũng có câu:
”Mạc đãi lão lai phương niệm Phật,
Cô phần đa thị thiếu nguyên nhân”
Nghĩa là cái bệnh chết nó đến bất cứ lúc nào và bất cứ ai cho
nên không phải già mới chết mà tuổi trẻ đầu xanh vẫn chết như
thường vì thế chúng sinh cần tu tâm, niệm Phật ngay bây giờ chớ
đừng đợi đến lúc già, lúc gần chết mới tu. Tóm lại, dưới cái
nhìn của phàm phu thì sanh tử là ưu bi khổ não, là buồn khổ đau
thương vì phải xa lìa tất cả những gì mà con người yêu thương
lưu luyến. Cũng vì có bản ngã và ngã sở nên chúng sinh thấy
mình, người và vũ trụ là thật, là chắc chắn, là của mình nên khi
phải lìa xa nó thì dĩ nhiên sẽ đau khổ vô cùng. Khi đã biết rõ
những khổ đau, bất toàn như thế thì con người cố niệm Phật để
lìa xa thế gian tội lỗi nầy mà có được sự an vui tịch diệt của
Niết bàn.
Nhưng dưới cái nhìn
tuệ giác của Bồ Tát hay Phật nhãn của chư Phật thì “vạn pháp
giai không” nghĩa là một khi con người lìa Tướng trạng mà thấy
được thật Tánh của mình thì sinh tử là Không và ngay cả Niết bàn
cũng là Không bởi vì cuộc đời là giả huyễn, là không thật nên
sinh là không, tử là không và Niết bàn cũng là không. Không cột
thì cần gì phải tháo gút, không ràng buộc thì cũng không cần
giải thoát và không sanh thì không có diệt. Thêm nữa, vì quán
biết sinh tử là không nên sinh không tham cầu và dĩ nhiên không
sợ cái chết. Khi không còn chấp ngã thì không quan trọng cho cái
thân giả huyển nầy, sống thì an vui tự tại, không chạy theo tham
đắm dục tình và lúc ra đi cũng an nhiên tự tại không lo, không
sợ, không buồn, không tiếc. Vì thế nếu chúng sinh quán “vạn pháp
giai không” để biết “nhiếp trọn sáu căn” và “tịnh niệm tương
tục” thì dễ đạt đến niệm Phật tam muội mà có được nhất tâm. Nhất
tâm là có tâm tự tại, tâm thanh tịnh tức là có Niết bàn, cực lạc
rồi cần gì phải tìm cầu ở đâu xa.
|
|