Thiên Chúa giáo, Hồi giáo
hay Tin lành chỉ tin có một Thượng đế duy nhất thì gọi là nhất
thần giáo. Trong khi đó, đạo Khổng hay đạo Lão tin vào nhiều
đấng thần linh nên những đạo này được gọi là đa thần giáo.
Ngược lại, đạo Phật không phải là nhất thần giáo, cũng chẳng là
đa thần giáo mà cũng không phải là giáo điều chủ nghĩa tức là vị
giáo chủ đưa ra bất cứ giáo điều gì cho dù đúng hay sai thì tín
đồ bắt buột răm rắp tuân theo. Chính Đức Phật đã khẳng định
rằng:
“Ta không là Thượng đế,
cũng không phải là thần linh, mà chỉ là một con người, nhưng con
người đã chiến thắng thế gian”.
Đức Phật đã chiến thắng thế gian, nhưng Ngài không cần ngai vàng
để ngự trị và cũng không cần thần dân để được tôn vinh. Ngài
sống rất thảnh thơi với ba mảnh y và một bình bát, nhưng chiến
thắng được tâm mình để sống với chơn tánh mới là cái chiến thắng
vĩ đại của bậc Đại giác, Đại hùng vậy. Chỉ sau khi Ngài nhập
diệt, con người mới tôn thờ Ngài, sùng tín Ngài như các vị thần
linh. Tóm lại, Đức Phật chỉ là một đạo sư, là ngọn đuốc tuệ để
giúp chúng sinh nương theo đó mà tìm ra con đường sáng, con
đường giải thoát giác ngộ cho chính mình.
Để giải thích mối quan hệ giữa lòng tin và trí tuệ, Đức Phật dạy
rằng :
“Người có lòng tin mà không có trí tuệ thì thường làm tăng
trưởng vô minh. Người có trí tuệ mà không có lòng tin thì thường
làm tăng trưởng tà kiến”.
Trí tuệ ở đây cần được hiểu là năng lực suy xét và phán đoán mọi
sự việc cho nên nếu trí tuệ không có lòng tin vào Chánh pháp thì
người tu tập dễ rơi vào tà kiến, tăng trưởng tự cao, tự đại,
luôn cố chấp không thấy được chỗ sai lầm của mình. Ngược lại,
người có lòng tin vào Chánh pháp mà thiếu đi trí tuệ để nhận
hiểu và phân biệt đứng đắn thì dễ dàng lún sâu vào chỗ si mê,
tăm tối, mê tín dị đoan. Vì thế mà trong Bát Chánh Đạo tức là
tám con đường chân chính giúp chúng sinh chuyển cuộc sống từ
phàm đến thánh chỉ có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn,
chánh niệm và chánh định mà không hề có chánh tín. Đức Phật
không phải là đấng thần linh nên Ngài không bắt buộc chúng sinh
phải tin vào Ngài một cách tuyệt đối. Ngược lại, Đức Phật dạy
chúng sinh phải tư duy quán chiếu, suy nghiệm những lời Phật dạy
một cách khách quan, đứng đắn thì mới có lợi ích cho mình. Đức
Phật muốn chúng sinh thấu hiểu chánh pháp để thấy biết đúng, suy
nghĩ đúng mà có cuộc sống thanh bình an lạc thì lúc đó con người
đâu còn tin vào tà kiến, mê tín dị đoan. Vì thế hãy lắng nghe
thông điệp của Đức Phật chính là con đường sống cao thượng của
cuộc đời:
“Hãy tránh xa tất cả những hành động tội lỗi, trau dồi cuộc sống
bằng những hành động tốt, thanh lọc tâm trí khỏi những ý nghĩ
bất tịnh”.
Trước khi nhập diệt, Đức Phật dạy rằng:
“Các con là những hải đảo, những ngọn đuốc cho chính mình. Hãy
nương tựa vào chính mình, không nương tựa vào nơi nào khác”.
Trong kinh Pháp Cú, Phật lại dạy thêm:
“Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi! Các con hãy lấy Pháp của ta
làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tu giải thoát! Đừng tìm sự
giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi
nào khác, ngoài các con”.
Và sau cùng Đức Phật dạy rằng:
“Các con hãy tự cố gắng, Như Lai chỉ là kẻ dẫn đường”.
Đạo Phật là tôn giáo duy nhất trên hoàn cầu xác định rằng cánh
cửa thành công để đạt đến cứu cánh giải thoát giác ngộ phải mở
rộng cho tất cả mọi người, từ nam nữ, lớn nhỏ, sang hèn, cao
thấp, đạo đức hay tội lỗi. Nếu chúng sinh biết cải thiện đời
sống trong sạch, hóa giải hết phiền não vô minh thì sẽ có được
Bồ-đề, Niết bàn như Phật.
Không phải ngày nay con người mới nghe đến những tôn giáo thuộc
về “Thiên chủ tạo vật” mà vào thời Đức Phật đã có những giáo
thuyết như vậy rồi. Đó là “Thượng đế tạo ra tất cả mọi người,
mọi vật. Thượng đế chịu trách nhiệm tất cả mọi việc. Thượng đế
ban thưởng và tha thứ tội lỗi của chúng ta. Thượng đế chịu trách
nhiệm về cuộc đời chúng ta sau khi chúng ta chết. Thượng đế sẽ
cho ta lên thiên đường hay bắt ta xuống địa ngục”. Ở đây, Đức
Phật không hứa hẹn hạnh phúc hay ban thưởng cho những ai tự nhận
là tín đồ của Ngài và Ngài cũng không hứa hẹn cứu rỗi cho những
ai đặt niềm tin nơi Ngài. Đức Phật không khuyên các đệ tử của
Ngài đi cải đạo dân chúng, những người mà nếu không theo sẽ bị
đọa vào địa ngục.
Ngài và tín đồ của Ngài
không chỉ trích những người khác đạo là những người phạm tội sẽ
bị đọa vĩnh viễn nơi địa ngục. Theo tinh phần Phật giáo, cả đến
những người không đạo nhưng biết sống trong phẩm hạnh và có lòng
từ bi thì vẫn có thể lên thiên đường như thường. Đối với Ngài,
tôn giáo không phải là sự mặc cả, mà là con đường sống cao
thượng để đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải thoát giác ngộ. Đức
Phật không muốn các tín đồ của Ngài tin tưởng trong mù quáng.
Ngài muốn chúng sinh phải biết suy nghĩ và thấu biết. Phật giáo
là con đường cao thượng cho đời sống mà nơi đó, nhân đạo, bình
đẳng, công bằng và an lạc chiếm vị trí tối thượng. Đức Phật phủ
nhận có đấng Phạm thiên, Thượng đế vì chỉ có ta mới chính là
Thượng đế của chính mình và chỉ có ta mới có thể tự lèo lái con
thuyền định mệnh của mình được. Đức Phật không dạy phải cầu
nguyện và sùng bái Ngài để được Ngài tha thứ cho các tội lỗi.
Thanh tịnh hay ô nhiễm trong tư tưởng của chúng sinh tùy thuộc
nơi chúng sinh. Không một đấng thiêng liêng, Phật hay một tha
nhân nào có thể làm ô nhiễm hay thanh tịnh tư tưởng của người
khác được. Ngay cả Niết bàn là hạnh phúc tuyệt đối cũng thế, khi
chúng sinh tự mình quét sạch được những dục vọng, luyến ái và vị
kỷ thì chính họ sẽ nghiệm chứng sự an lạc tịch diệt của Niết bàn
chớ Niết bàn không phải do Như Lai ban tặng được.
Một ngày nọ, Đức Phật thấy những người Jalita lặn lội dưới nước
trong khi tuyết xuống liên tiếp trong 7 ngày đêm để tế thần lửa
tại bờ sông Gaya, Đức Thế Tôn dạy rằng:
“Sự trong sạch do rửa bằng nước không bao giờ có. Người nào tắm
trong giòng nước Chân thật và thiện pháp thì người đó mới là
người trong sạch”.
Đức Phật đã khẳng định rằng tất cả các thứ nước trên thế gian
này kể cả nước thánh thì không có thứ nước nào rửa sạch được
lòng hung ác để trở thành tâm lương thiện. Chỉ có chân lý Tứ
Diệu đế và Thánh pháp mới làm cho con người trở nên trong sạch,
trở thành Thánh nhân. Đó chính là nước vô hình rửa được vô minh
phiền não trong tâm của chúng sinh.
Một hôm khác, Đức Phật đang thuyết pháp, có vị Bà la môn tên là
Sudarika bạch với Phật rằng :
- Bạch Đức Thế Tôn! Ngài có đến con sông Bahuka để tắm không?
- Này, Thầy Bà la môn! Con sông đó có gì đặc biệt?
- Thưa Thầy Cồ Đàm! Con sông Bahuka là nơi mà mọi người cho đó
là giòng sông Phước nên hàng ngày biết bao người đến tắm để rửa
tội.
Bây giờ Thế Tôn mới dạy :
- Người thiếu trí, tạo ác nghiệp cho dù có đến tắm những giòng
sông Bahuka, sông Gaya, sông Sarassati, sông Payaya và sông
Bahumati thì những con sông ấy không thể làm cho người ác hết
tội. Người đã tạo ác nghiệp thì không có giòng sông nào làm cho
họ trong sạch được.
- Này Thầy Bà la môn! Thầy nên tắm, rửa tội thứ nước mà Như Lai
đã dạy là: người không nói dối, không làm hại chúng sinh khác,
không nên lấy của người, không nên bỏn xẻn keo kiệt. Ngược lại,
tuy Thầy có đi đến con sông Gaya và uống nước ấy cũng không ích
lợi gì cho Thầy”.
Do đó sự rửa tội và sự đưa chúng sinh lên thiên đàng không hề
bao giờ có trong đạo Phật và chính Đức Phật đã phủ nhận nói rằng
Ngài có oai lực đưa người đi được đến Thiên đàng, Cực Lạc. Vì
vậy mà đạo Phật mới gọi là đạo Tự giác. Đức Phật là đấng đã thức
tỉnh trong giấc mộng vô minh và lời dạy của Ngài kêu gọi chúng
sinh nên thức tỉnh nghĩa là Phật dạy chúng sinh phải tự mình tu
và cố gắng giải thoát lấy mình chớ đừng mong đợi Phật có oai lực
cứu độ mình. Nói cách khác, người muốn no hãy tự ăn lấy mới no,
kẻ khác không thể ăn cho mình no được.
Vì thế bất cứ ai cũng có thể đứng trước Đức Phật trong tư thế
một người có phẩm cách chớ không phải trong tư thế một người cầu
khẩn, van xin.
Hãy lắng nghe lời phát biểu của giáo sư Lakshmi Nasara viết
trong cuốn “Tinh Hoa của Phật giáo”:
- Chỉ nói về Phật giáo thôi, ta có thể xác nhận là tôn giáo này
thoát khỏi tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá
nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy
mình.
Từ xưa đến nay, lý trí và đức tin luôn chống đối với nhau. Lý
trí thì dùng lý luận và suy tư phát xuất từ kinh nghiệm và nhận
xét, trong khi đức tin nằm trong phạm vi tình cảm, không thể suy
luận, suy xét hay giảng giải được. Do đó những tôn giáo thần
khải thì đức tin là thượng đế cảm nhận bằng trái tim, không phải
bằng lý trí. Tình thương phát xuất bằng trái tim thì dựa vào
tình cảm nên rất thăng trầm vì thế nó có lúc đúng, có lúc sai,
có lúc thương có lúc ghét. Ngược lại lòng từ bi phát xuất từ trí
tuệ sáng suốt thì dựa theo tinh thần khách quan bình đẳng, không
thiên vị. Thêm nữa, đối với những tôn giáo thần khải thì thần
thông, phép lạ là quan trọng. Ngược lại Đức Phật coi đó là không
đáng kể và không thích đáng bởi vì điều quan trọng nhất vẫn là
bồi dưỡng trí tuệ để có giải thoát giác ngộ. Đối với đạo Phật,
những người có phép lạ không nhất thiết là bậc giác ngộ hay các
bậc Thánh cho nên theo Đức Phật, thần thông phép lạ cao siêu
nhất và huyền diệu nhất phải là làm sao biến một người ngu si
thành một người khôn ngoan, trí tuệ.
Vậy đạo Phật có phải là một tôn giáo không?
Dựa theo lời giải thích của học giả H. G Wells thì tôn giáo là
trung tâm của giáo dục xác định luân lý phẩm hạnh của con người.
Triết gia Aldous Huxley định nghĩa tôn giáo như sau:
- Tôn giáo là một hệ thống giáo dục, bằng các phương tiện con
người có thể tự mình huấn luyện cho mình. Trước hết là thay đổi
cái mình mong muốn cho đúng với nhân cách của mình trong xã hội.
Thứ hai là nâng cao lương tri và thiết lập quan hệ giữa con
người và vũ trụ mà họ là một thành phần trong đó.
Thông thường tôn giáo luôn đi đôi với tín ngưỡng vì thế tất cả
những tôn giáo trên thế giới đều tin tưởng đấng thần linh này,
đấng cứu rỗi nọ, ông trời mình và ông trời người. Duy chỉ có
Phật giáo là không tin vào thần linh, không tin vào thượng đế,
không tin vào ai cả mà chỉ tin vào khả năng tự mình có thể giải
thoát ra khởi mọi hệ lụy của phiền não vô minh cho chính mình mà
Đức Phật là người dẫn đường, là bậc toàn giác.
Đạo Phật khai mở một hệ tư tưởng triết học rất thâm thâu huyền
diệu dựa vào tư tưởng tánh Không (Bát nhã) để dẫn dắt chúng sinh
quán triệt thật tướng của vạn pháp chớ không nhất thiết chỉ thấy
biết vạn pháp qua thế giới hiện tượng. Những lời dạy thâm sâu
của Đức Phật để đưa tâm quy về một trạng thái tinh thần tĩnh lự
và sáng suốt được nhiều người cho đó là tôn giáo, người khác lại
cho là triết học hay tâm lý trị liệu. Vì vậy, khi đề cập đến thế
giới bản thể và hiện tượng là một vấn đề rất quan trọng, một vấn
đề mang tính triết học sâu xa, nếu con người nhìn nó qua lăng
kính của triết học.
Nhưng đối với Phật giáo,
cho dù con người có gọi nó là tôn giáo, nền giáo dục, môn triết
học hay là gì đi chăng nữa thì điều đó chẳng có giá trị thêm bớt
gì vì lý luận là còn nằm trong vòng lẩn quẩn của Nhị nguyên, của
thế giới tương đối có sinh có diệt. Mà điều quan trọng hơn hết
là những lời thuyết pháp của Đức Phật nhằm nói lên chân lý khách
quan, nói lên cái nguyên thủy của sự hình thành và sự tồn tại
khách quan của vũ trụ vạn hữu. Nhưng cho dù con người có lý luận
dựa theo bất cứ khía cạnh, phương diện nào thì có một điều chắc
chắn mà mọi người đều đồng ý rằng Đức Phật không phải là đấng
thần linh, đấng cứu rỗi mà Ngài chỉ là đấng toàn giác, là bậc
thầy vĩ đại mà thôi.
Vì vậy, đạo Phật có thể được gọi là một tôn giáo không có tín
ngưỡng. Tại sao lại không có tín ngưỡng? Bởi vì đạo Phật là con
đường giúp chúng sinh tự mình thể nghiệm chân lý để có giải
thoát giác ngộ mà không tin có một đấng Thượng đế, một đấng thần
linh nào đó có thể ban vui cứu khổ hay cứu rỗi cho họ được. Mà
muốn đạt đến cứu cánh tột đỉnh này, người đệ tử Phật bắt buộc
phải có niềm tin. Nhưng niềm tin ở đây là tin vào lời dạy chân
thật của Đức Phật là người đã thực chứng những chân lý nhiệm mầu
bởi vì lời dạy của Phật là: “Như Lai thị chơn ngữ giả, thật ngữ
giả, bất dị ngữ giả, bất cuống ngữ giả” nghĩa là lời nói của
Phật là chân chính, là thành thật, không tráo trở và không bao
giờ dối trá. Quan trọng hơn là người đệ tử Phật phải tin chính
mình có khả năng hóa giải, diệt trừ mọi vô minh phiền não để đạt
được tâm thanh tịnh mà có Niết bàn, có Bồ-đề cũng như chư Phật,
chư Bồ-tát vậy. Đức Phật dạy chúng sinh phát triển những tiềm
năng và nỗ lực của chính bản thân mình để đạt đến trạng thái an
lạc và hạnh phúc tuyệt đối Niết bàn. Do đó hạnh phúc hay khổ đau
là do nơi con người chớ không tùy thuộc vào một đấng quyền năng
tuyệt đối nào và Đức Phật chỉ là một bậc thầy hướng đạo. Đức
Phật đã trải qua bao nhiêu khổ ải và đau đớn để đạt đến an lạc,
thanh tịnh Niết bàn vì thế Ngài chính là biểu tượng của An lạc,
Từ bi và Trí tuệ.
Vậy người đệ tử Phật phải có những đức tin gì?
1) Tín tự: tức là tin ở trong ta, chính mình có khả năng tu
thành Phật nhưng vì bị vô minh che lấp nên vẫn còn sống trong
điên đảo khổ đau.
2) Tín tha: không có nghĩa là tin vào tha
lực của chư Phật để được cứu giúp hoặc được vãng sanh về thế
giới cực lạc mà chính mình không chịu lo tu sửa, hóa giải phiền
não vô minh. Đây là hoàn toàn trái ngược với luật nhân quả của
Phật giáo. Tín tha ở đây là tin vào lời dạy chân thật của Phật
vì đây chính là con đường, là ánh sáng huyền diệu giúp chúng
sinh hóa giải tất cả những vô minh phiền não trong cuộc sống
này. Vì Phật là người đã giác ngộ trước, là người chỉ đường nên
chúng sinh nếu không tin vào lời Đức Phật thì làm sao nương theo
con đường mà Phật đã đi để có thể chứng đắc được chân lý mà có
được giải thoát giác ngộ như Phật. Nếu chính mình không hóa giải
hết phiền não vô minh, cho dù Phật A Di Đà có rước về tây phương
cực lạc thì tự mình cũng không có thanh tịnh cực lạc được. Vì
thế kinh Duy Ma Cật đã khẳng định là: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật
độ tịnh” nghĩa là hễ tâm mình được an vui thanh tịnh thì thế
giới mình đang sống sẽ chính là thế giới cực lạc vậy.
3) Tín Nhân, Tín Quả: Ngoài tín tự, tín tha, trọng tâm của đạo
Phật vẫn là tín nhân tín quả. Con người phải tin chắc rằng hễ
mình gieo nhân gì thì chính mình sẽ nhận lấy quả báo của nó. Nên
nhớ rằng không có một tha nhân nào trên thế gian này có thể thay
nhân đổi quả của người khác được mà chỉ có mình mới lèo lái con
thuyền định mệnh của chính mình mà thôi. Con người không cần
phải cầu nguyện, van xin để chư Phật độ cái này, thưởng cái kia
vì có van xin cầu nguyện cũng không bao giờ được, bởi vì nó đi
ngược với luật nhân quả. Nhưng nếu chúng sinh muốn biết cuộc
sống mình sẽ ra sao thì chỉ cần nhìn kỷ vào tất cả những nhân
thiện ác mà chính mình đã tạo tác thì chắc chắn sẽ biết mình sẽ
được thọ báo những hạnh phúc hay khổ đau. Muốn có cuộc sống hạnh
phúc yên vui thì nên gieo nhân lành, ngược lại gieo nhân bất
thiện thì phải chịu cảnh khổ đau, bất toại nguyện, thế thôi.
Ngày nay có rất nhiều đệ tử Phật vẫn còn nhầm lẫn về hai chữ:
“Phật độ”. Phật độ không có nghĩa là mình cầu nguyện, van vái
điều gì thì Phật độ, Phật ban cho điều ấy. Mà Phật độ ở đây
chính là Phật chỉ dạy cho chúng sinh con đường giải thoát giác
ngộ để tự mỗi chúng sinh tùy theo bổn nguyện, căn cơ và hoàn
cảnh của chính mình mà tự mình hóa giải những hệ lụy của phiền
não vô minh. Có bớt được một phần phiền não vô minh thì có được
một phần Bồ-đề Niết bàn. Do đó Phật độ là Phật giúp cho chúng
sinh phương tiện tức là kinh điển, nhưng chính chúng sinh phải
tự mình chèo, lái, thực hành và sống với chánh pháp thì mới có
giải thoát, an vui và tự tại. Ngược lại nếu chúng sinh ngồi
thiền, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, van vái, cầu nguyện mà tự
mình không chịu lo tu sửa, tánh tham tật đố không chừa, tâm còn
giận còn hờn, lòng còn chạy theo si mê ái dục thì đây chỉ là tu
hành theo hình thức, không có một ý nghĩa hay giá trị nào hết.
Ngày xưa khi tôn giả Mục
Kiền Liên cầu khẩn và bạch với Phật xin thương xót cứu vớt mẹ
Ngài là bà Thanh Đề ra khỏi địa ngục A Tỳ. Tại sao Phật không
làm phép, bắt ấn tam muội để bọn quỷ sứ ma vương thả bà Thanh Đề
về? Không phải là Phật không làm được, nhưng Ngài không làm vì
đây hoàn toàn trái với luật nhân quả. Nếu bà Thanh Đề đã gieo
những nhân bất thiện thì chỉ có bà phải tự mình ăn năn sám hối
để chuyển cái tâm tội lỗi xấu xa thành cái tâm thuần lương tươi
sáng. Có như thế thì chính bà tự bẻ gãy gông cùm nơi địa ngục mà
hóa sanh về cảnh thiên đường an lạc.
Chẳng những Phật giáo phủ
nhận Thượng đế mà Phật giáo cũng không chấp nhận Diêm
vương là người có quyền phán xét tội hồn trong cõi âm. Khi nói
về cõi âm, hai quyển “Hồi dương nhân quả” và “Ngọc lịch minh
kinh” không phải là kinh sách của Phật giáo vì nó diễn tả
một câu chuyện xảy ra ở Trung Hoa của hai người trùng tên nhưng
khác họ, bị quỷ bắt lầm rồi sau đó trả hồn về thế gian. Thật ra
ông Diêm vương mà người thế gian thường nhắc đến không phải phát
xuất từ Phật giáo mà nó đã xuất hiện rất lâu trong những kinh
sách Vệ Đà của Ấn Độ. Vì thờ đa thần nên họ nghĩ rằng trên trời
thì có thiên thần, ở giữa hư không có hư không thần và trong đất
cũng có địa thần… Vì thế người Trung Hoa mới sao lại những vị
Diêm Vương cai quản 18 tầng địa ngục. Nhưng trong thế gian có
biết bao giống dân như Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Hoa
Kỳ, Anh, Pháp, Gia Nã Đại… thế thì tại sao ông Diêm vương phải
lại là người Trung Hoa? Phải ăn mặc giống như cải lương, hát bội
vậy?
Đây phải chăng là do óc
tưởng tượng của người Trung Hoa bày vẽ ra? Thật sự nếu có vị
Diêm vương cai quản cõi âm thì tội hồn cũng có cách hối lộ để
được giảm tội hình. Nhưng dựa theo Phật giáo, địa ngục không
phải là nơi giam giữ tội hồn đời đời như nhiều người thường
nghĩ. Những hình ảnh ma vương, quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa cùng
những khổ hình nơi 18 tầng địa ngục chính là sự phóng rọi, biến
hiện và trói buộc của Nghiệp cảm mà thôi. Vì vậy, mỗi chúng sinh
đều có một ngài Diêm vương nơi tâm mình mà họ không tự biết, đó
là tiếng nói mãnh liệt của Chơn tâm, Phật tánh và là sự phán xét
sau cùng của Chí thiện.
Cũng như Ngài A Nan, cả đời theo chân làm thị giả cho Đức Phật,
được Phật khen tặng là đệ nhất đa văn mà tại sao không thành A
La Hán trong lúc Đức Phật còn sinh tiền? Không lẽ Phật không
thương xót độ cho A Nan thành Thánh? Tất cả những gì Phật độ cho
A Nan hay cho tất cả chúng sinh thì Phật đã độ rồi. Đó là Phật
đã thuyết 12 bộ đại tạng kinh để giúp chúng sinh tự mình thể
nghiệm chân lý. Ông A Nan vì tánh ỷ lại là em và là thị giả của
Phật nên không chịu lo tu chứng mà chỉ muốn học rộng biết nhiều
vì thế tuy A Nan là người thân cận Đức Phật nhất mà Phật
có độ cho A Nan thành A La Hán được đâu!
Do đó sau khi Đức Phật nhập
diệt, ông thất vọng, sống trong chán chường đau khổ nên có ý
định quyên sinh. Nhưng khi nhớ lại những lời dạy của Thế Tôn làm
ông thức tỉnh nên thành tâm sám hối tất cả những việc bất thiện
mà ông đã đối xử với Đức Phật trước kia. Khi tâm đã hoàn toàn
trong sáng thanh tịnh nên chỉ ngồi thiền một đêm mà ông đạt
thành thánh quả. Sự huyền diệu nhiệm mầu của đạo Phật là chúng
sinh có thể chuyển “cái tâm” của mình. Nếu tâm cứng ngắc, có tu
hay không cũng vậy thì không cách nào con người có thể chuyển từ
phàm thành thánh. Vì tâm có thể chuyển được nên ông A Nan mới tu
thành A la hán hay Thái tử Tất Đạt Đa mới tu thành Phật được.
Câu chuyện của tôn giả A Nan ở trên đã được ghi lại trong Luận
Đại Trí Độ như sau:
Ba tháng sau ngày Đức Phật nhập diệt, tôn giả Đại Ca Diếp quy tụ
1000 vị đại A La Hán và cuối cùng chỉ chọn 500 vị để kết tập
kinh điển lần thứ nhất trong núi Kỳ Xà Quật, thành Vương Xá. Ông
Đại Ca Diếp vào thiền định, rồi dùng Thiên nhãn quán trong đại
chúng ai là người chưa sạch hết phiền não (chưa chứng thánh quả
A la hán) thì phải mời ra khỏi đại hội. Trong số 1000 người chỉ
mình A Nan là chưa thanh tịnh, nên Đại Ca Diếp lấy tay dắt A Nan
ra khỏi chúng và nói rằng:
- Nay ở trong chúng thanh tịnh kết tập Kinh tạng, ông chưa sạch
kiết sử (còn phiền não) không nên ở đây.
Bấy giờ A Nan hổ thẹn buồn khóc, tự nghĩ: “Ta hai mươi bảy năm
theo hầu hạ Thế Tôn, gần gũi chăm sót Ngài, chưa bao giờ bị khổ
não như thế này”.
Thấy thế tôn giả Đại Ca Diếp nói tiếp :
- Tội của ông là ý Phật không muốn cho người nữ xuất gia, vì ông
ân cần khuyên thỉnh, Phật mới cho họ xuất gia, vì lẽ đó mà Chánh
pháp của Phật chỉ năm trăm năm là suy giảm. Đó là tội
Đột-kiết-la (Dunkrta) của ông.
A Nan thưa:
- Tôi thương xót bà Cù-đàm-di. Lại nữa, theo pháp của chư Phật
ba đời đều có bốn bộ chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thiện nam và
tín nữ), tại sao đức Thích Ca lại không có?
Đại Ca Diếp nói:
- Khi Phật sắp nhập diệt gần thành Câu thi na, Ngài đau lưng nên
cần trải bốn lớp y Âu-đa-la-tăng để nằm và nói với ông “Ta
cần nước” mà ông dửng dưng không đi lấy. Đó là tội Đột-kiết-la
của ông.
A Nan đáp:
- Khi đó có trên năm trăm cỗ xe băng dòng lội qua làm nước vẫn
đục vì thế nên tôi không lấy.
Đại Ca Diếp nói tiếp:
- Dẫu nước bị đục, thân lực của Phật có thể làm nước đục biến
thành nước trong, sao ông không lấy? Đó là tội Đột-kiết-la của
ông. Ông hãy sám hối đi.
Đại Ca Diếp lại nói:
- Phật đã dạy: “Nếu người khéo tu tập bốn thần túc thì có thể
sống thêm hay giảm một kiếp đều được” mà sao ông lại làm thinh
không thưa lại. Phật hỏi đến ba lần, ông vẫn làm thinh. Nếu ông
thưa với Phật là Phật khéo tu bốn thần túc thì Ngài nên sống một
kiếp hay non một kiếp. Do sự lặng thinh của ông mà Thế Tôn mới
nhập diệt. Đó là tội Đột-kiết-la của ông.
A Nan đáp:
- Ma che lấp tâm tôi nên không nói được chớ không phải tôi có ác
tâm mà không thưa với Phật.
Đại Ca Diếp lại nói:
- Ông xếp y Tăng-già-lê của Phật mà lấy chân đạp lên. Đó là tội
Đột-kiết-la của ông.
A Nan giải thích:
- Khi ấy có gió lớn nổi lên mà không ai giúp tôi cầm y nên gió
thổi làm y rớt xuống chân tôi chớ không phải tôi không cung kính
mà giẫm lên y Phật.
Đại Ca Diếp nói:
- Sau khi Phật nhập diệt, ông bày tướng Mã âm tàng của Phật (bộ
phận đàn ông) cho người nữ xem sao không biết xấu. Đó là tội
Đột-kiết-la của ông.
A Nan đáp lại:
- Khi ấy tôi suy nghĩ: Nếu các người nữ thấy tướng Mã âm tàng
của Phật, chắc họ tự xấu hổ thân hình nữ nhân nên mong muốn được
thân nam tử, tu hành Phật tướng, gieo gốc phước đức. Vì thế mà
tôi cho người nữ xem chớ không phải không biết xấu mà cố tâm phá
giới.
Đại Ca Diếp nói:
- Ông có sáu tội Đột-kiết-la như vậy nên phải sám hối giữa Tăng
chúng .
A Nan xin vâng theo lời của Trưỡng lão Đại Ca Diếp mà quỳ thẳng
chấp tay, bày vai áo bên phải và sám hối sáu tội Đột-kiết-la.
A Nan bị tôn giả Đại Ca Diếp đuổi ra ngoài không cho tham dự đại
hội nên rầu rĩ khóc lóc chứng tỏ lúc bấy giờ tâm A Nan là tâm
phàm nhân tức là thức tâm vì vẫn còn duyên với ngoại trần nên
còn buồn còn khổ. Tuy khóc than không phải là hành động của bậc
thánh, nhưng nó cũng làm diệu phần nào những cơn đau trong tâm
cho nên ngay trong đêm đó, A Nan thức tỉnh bèn tọa thiền, kinh
hành, tư duy các pháp, ân cần cầu đạo. Tuy A Nan có nhiều trí
tuệ, nhưng ngặc nổi kém định lực nên không phá nổi phiền não
chướng mà chưa thành thánh giả. Cuối đêm sắp hết, mệt quá muốn
nghỉ, nên vừa nằm xuống đầu chưa chạm gối thì bỗng nhiên A Nan
tỏ ngộ, như tia sáng lóe lên khiến Ngài nhập định Kim Cang mà
phá tất cả các núi phiền não, chứng được tam minh thần thông
biến hóa và trở thành A la hán. Ngay đêm đó, A Nan đi đến nhà
Tăng gõ cửa gọi thì Đại Ca Diếp hỏi:
- Ai gõ cửa đó?.
A Nan thưa:
- Tôi đêm nay đã dứt hết các lậu.
Đại Ca Diếp nói:
- Không mở cửa! Ông cứ theo lỗ khóa mà vào.
A Nan liền dùng Thần lực theo lỗ khóa mà vào, lạy dưới chân Tăng
chúng mà sám hối.
Đoạn kinh trên chứng minh một cách hùng hồn rằng Phật chỉ là
người chỉ đường còn đi hay không là do chúng sinh cho nên không
có vấn đề cầu nguyện, van xin, vái lạy để thỏa mãn những dục
tính vị kỷ của con người trong đạo Phật. Vì thế mà trong Tứ Thập
Nhị Chương Kinh (Kinh Bốn Mươi Hai Chương) Đức Phật đã dạy rằng:
“Đệ tử tuy xa ta nghìn dậm, mà luôn nghĩ đến và thực hành giới
pháp của ta thì chắc chắn sẽ chứng được đạo quả. Ngược lại, kẻ ở
gần bên ta, tuy thường gặp mà không thực hành theo giới pháp của
ta, cuối cùng vẫn không chứng được đạo”.
Do đó đối với đạo Phật, vô tâm tức là buông xả mới là cứu cánh
tối thượng cho nên người xưa cũng có câu: “Vô tâm đạo nhân”
nghĩa là người vô tâm mới là người chân tu. Ngược lại người có
trí thức nhạy bén, học rộng hiểu nhiều là những người khó đạt
được chân lý vì tâm họ chất đầy ý thức đối đãi phân biệt. Ví
cũng như hành giả ngồi trên thuyền, nếu học rộng biết nhiều thì
chẳng khác nào chở cả kho tàng kinh điển nặng nề trên một chiếc
thuyền nan. Chẳng những không đến được bờ giác ngộ mà cả người
lẫn thuyền cùng chìm vào biển trầm luân sinh tử.
4) Tín Sự, Tín Lý: Ngoài ra đạo Phật còn dạy tín sự, tín lý. Đó
là:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo
Nghĩa là tất cả những việc ác chớ có làm, ngay cả những việc ác
nhỏ. Chúng sinh nên làm tất cả những việc thiện cho dù đó là một
việc thiện nhỏ. Nhiều việc thiện nhỏ sẽ thành việc thiện lớn và
những việc ác nhỏ sẽ cộng lại thành đại ác. Cố giữ tâm ý thanh
cao thanh tịnh thì nội tâm sẽ trong sáng. Đây chính là lời dạy
của chư Phật.
Theo tinh thần tin tưởng đó, đức tin của người Phật tử không đi
ngược lại với lý trí và còn đóng một vai trò quan trọng trên con
đường giải thoát giác ngộ bằng cánh mang lại nghị lực cho sự
tinh tấn, kiên trì tu tập. Không có lòng tin lôi kéo, thúc đẩy,
con người sẽ trì trệ, buông lơi và có thể chùn bước trước những
khó khăn, thử thách của cuộc đời. Nhưng mê tín và cuồng tín cũng
không có chỗ đứng trong đạo Phật bởi vì đạo Phật là con đường
của trí tuệ, của sự phá bỏ vô minh. Mà vô minh chính là cội
nguồn của mê tín và cuồng tín tức là lòng tin lầm lạc dẫn tới
khổ đau.
Ngày nay Phật giáo trên thế giới gồm có Nam tông, Bắc tông và
Mật tông, vậy đức tin của họ như thế nào?
a) Đức tin đối với Phật giáo Nam tông, Nguyên thủy hay Tiểu
thừa: Nhìn lại những thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt, tinh
thần sùng tín bằng những hình thức nghi lễ, sùng bái của một tôn
giáo tiếp tục bành trướng trong dân gian làm ảnh hưởng rất lớn
cho sự tiến hóa của đạo Phật. Ngay sau khi Đức Phật nhập diệt
tại thành Câu thi Na, các vua chúa những quốc gia lân cận kéo
binh mã tới tranh dành những di tích hoại thể của Đức Phật, như
những viên xá lợi, răng, tóc để đem về thờ phượng tại nước họ.
Thật ra sự sùng bái những di tích này hoàn toàn đi ngược lại với
lời dặn của Đức Thế Tôn. Trước khi nhập diệt, Đức Phật có dạy
rằng:
“Sau khi Thế Tôn nhập diệt, điều mà các con phải giữ gìn là
Chánh pháp. Chính chánh pháp sẽ thay thế ta trên cõi đời này.
Hãy giữ gìn lấy Chánh pháp”.
Đáng tiếc thay, phàm phu nhìn Chánh pháp như là một cái gì quá
trừu tượng để có thể nương tựa vào. Trong khi một viên xá lợi,
một ngón tay, một chân răng, một ngọn tóc dù không phải là của
Đức Phật đi chăng nữa, cũng làm tăng trưởng sự sùng bái của con
người. Ngày nay những nước theo Nam tông như Tích Lan, Thái Lan,
Miến Điện, Lào, Kampuchia… đã thần thánh hóa Đức Phật. Người
Phật tử ở những xứ này tôn thờ, thành khẩn, cầu xin thì đủ thấy
tinh thần sùng tín của họ mạnh mẽ như thế nào.
b) Đức tin đối với Phật giáo Đại thừa: Đặc điểm của Đại thừa là
tôn thờ chư Phật và chư Bồ-tát. Từ bi hỉ xã, vì người quên mình
là những hạnh nguyện Bồ-tát đạo được khuyến khích nhiều nhất
trong các kinh điển đại thừa. Đại thừa có nhiều tông phái cho
nên niềm tin cũng tùy theo tông phái mà đổi thay.
- Thứ nhất đối với Thiền tông thì đức tin không phải là một điều
quan trọng vì không có gì để tin. Dựa vào tư tưởng Bát Nhã thì
vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn nên trên thế gian này
có cái gì là thật đâu mà phải quan tâm bận lòng. Người tu thiền
chỉ cần tin tưởng vào những lời dạy của Phật và khả năng giác
ngộ của chính mình tức là tự lực. Bởi vì vạn pháp duy tâm nghĩa
là tâm này là chủ, tâm này là Phật, tâm này là tất cả cho nên
chúng sinh chỉ cần quay về hồi quang phản chiếu mà sống trọn vẹn
với Chơn tâm thì ngay nơi ấy chính là Cực lạc, là Niết bàn rồi.
Kinh điển hay pháp tu chỉ là phương tiện, là ngón tay mà chân lý
mới là cứu cánh. Lục tổ Huệ Năng cũng dạy thêm rằng: “Pháp này
phải đến trong tánh Phật mà cầu, chớ hướng ngoài thân mà cầu, tự
không có bổn tâm. Phải tự thấy bổn tâm, mê thì làm chúng sinh
còn giác tức là Phật”.
- Thứ hai đối với Tịnh độ tông thì đức tin bây giờ là chính yếu.
Ngược với lối thực hành của thiền là “Không”, tịnh độ thì áp
dụng lối “Có”. Có ở đây là tin có Phật A Di Đà, có cảnh tây
phương cực lạc, có vãng sanh tức là có chư Phật hay chư Bồ-tát
đến dẫn dắt họ về thế giới Tây phương. Người tu theo tịnh độ
phải có niềm tin mãnh liệt vào những cái “Có” này để được tái
sinh về xứ Phật. Ngài Huệ Viễn vào đời Nam Tống ở Trung Hoa đã
khởi xướng tông phái Tịnh độ. Các vị tổ của tịnh độ quan niệm
rằng vào thời mạt pháp, người tu Phật không đủ khả năng để tự tu
giải thoát cho chính mình tức là “thiếu khả năng tự lực” nên họ
kêu gọi đến tha lực của Phật A Di Đà để Ngài cứu độ và truyền
sức mạnh vào mình. “Có” và “Không” là tùy theo lối nhìn dựa theo
thế giới hiện tượng hay bản thể vì nếu dựa theo sự Tướng bên
ngoài thì Có. Còn theo Bản Thể Chân Như thanh tịnh bên trong thì
tất cả đều là không.
Nhưng Tâm kinh dạy rằng:
“Sắc tức là Không và Không tức là Sắc” cho nên Có tức là Không
và Không chính là Có tuy hai nhưng mà một tức là Bất nhị. Nói
một cách khác Thiền là Tịnh và Tịnh tức là Thiền nghĩa là trong
Thiền có Tịnh và dĩ nhiên trong Tịnh đã có Thiền rồi. Thí dụ
niệm Phật để diệt trừ vọng tưởng trong tâm tức là thiền Chỉ
(Xa-ma-tha) nghĩa là tu Định. Quán tưởng Đức A Di Đà tức là
thiền Quán (tam-ma-bát-đề) nghĩa là tu quán hay tu trí tuệ. Khi
hợp hai lối tu lại với nhau thì gọi là Thiền Na tức là Chỉ-Quán
đồng tu hay Định-Tuệ song tu. Do đó “Có” hay “Không” chỉ là
phương tiện, là cách nói chứ không phải là cứu cánh bởi vì
Chân Tánh thì chẳng phải có mà cũng chẳng phải không. (Trung
Quán Luận).
Nếu nhìn vào một khía cạnh tâm lý thì đức tin của người Phật tử
tu theo tịnh độ không có vẻ gì khác biệt với đức tin của tín đồ
Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo tức là đức tin hướng về Thượng đế,
chúa Giê-Su hay Allah. Vì có sự tương đồng này mà ngày nay những
quốc gia tân tiến tại Âu châu, Mỹ châu, ngay cả Úc châu nơi mà
Tịnh độ tông phát triển mạnh nhất trong cộng đồng người Trung
Hoa và số ít Việt Nam thì pháp môn Tịnh độ hầu như không lôi
cuốn được người dân bản xứ. Con người càng văn minh tân tiến thì
càng tin sâu vào luật nhân quả nghĩa là “người muốn no hãy tự
mình ăn lấy mới no, kẻ khác không thể ăn cho mình no được”. Do
đó nếu tin vào tha lực để có sự cứu rỗi thì họ cứ theo Tin lành,
Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo chớ cần gì phải cải đạo.
Tín đồ Thiên Chúa chỉ cần
tin vào Thượng đế, làm vài điều thiện là được vào nước Thiên
đàng mà khỏi phải trường chay khổ cực, nhiếp trọn sáu căn và
phải tịnh niệm tương tục tức là ngày đêm chú tâm niệm Phật không
gián đoạn. Nhưng đối với người Tây phương thì họ muốn tìm hiểu,
nghiên cứu và thực hành những cái gì mới lạ, khác biệt, nằm
trong khả năng tự lực của con người chẳng những phù hợp với luật
nhân quả mà còn thích hợp với đà phát triển của văn minh khoa
học. Phải chăng tư tưởng “tự tu tự giác” là nguyên nhân khiến
thiền đại thừa ngay cả thiền minh sát, thiền tứ niệm xứ của Phật
giáo nam tông phát triển rất thịnh hành trong cộng đồng người
Tây phương? Họ cảm thấy thoải mái hơn khi thực hành thiền để tâm
được an tịnh nghĩa là chính họ tự lái chiếc xe định mệnh, tự
chèo con thuyền bát nhã để khai tâm mở tánh mà chứng nghiệm được
sự thanh tịnh tịch diệt của Niết bàn.
Người Tây phương khi nghiên
cứu đạo Phật, học cách tu thiền thì họ cảm thấy thoải mái, an
lành và hạnh phúc hơn là lúc họ còn tin ở những đấng thần linh.
Đạo Phật không thờ bất cứ vị thần linh nào mà họ chỉ tôn thờ
kính quý Đức Phật Thích Ca vì Ngài là bậc giác ngộ chân lý, nói
và sống đúng chân lý. Vì vậy nếu người đệ tử Phật biết nói đúng
chân lý, sống đúng chân lý thì có an vui, tự tại, Niết bàn cũng
như Phật. Họ biết rằng cái thực tại tối hậu tức là trí tuệ
Bồ-đề và tịch diệt Niết bàn đã có sẵn trong họ chớ không cần tìm
kiếm ở đâu xa. Đó là bớt một phần phiền não thì có một phần Niết
bàn, bớt một chút vô minh thì tăng thêm một chút trí tuệ sáng
suốt. Niềm an vui hạnh phúc tự tại này không tìm thấy trong tôn
giáo của họ. Đây là một thử thách rất thực tế, thích đáng và
được đền bù bằng những kết quả tương xứng rất nhiệm mầu ngay bây
giờ mà không cần phải trông chờ mong đợi sự ban bố ân sủng do ai
hay ở đời sau.
Ngày xưa chính Đức Phật đã
đi sâu vào thiền định mà chứng được chân lý và tất cả các đệ tử
của Ngài cũng nhờ thiền định mà thành A la hán. Ông A Nan tuy là
đệ nhất đa văn, nổi tiếng học rộng biết nhiều mà có tâm ỷ lại,
không chịu tu thiền, không vào đại định nên cả đời không đạt
thành Thánh quả và phải chịu nạn dâm nữ Ma Đăng Già. Đối với
Phật giáo, tư tưởng chính là nguồn gốc của sự mê hoặc làm cho
tâm thức con người càng thêm mê muội và vọng tưởng chính là sản
phẩm của nó. Vì thế thiền định là phương pháp làm ngưng lại và
tiêu diệt những tư tưởng này. Do đó, một khi những làn sóng tư
tưởng khuấy động đã chấm dứt thì chúng sinh sẽ nhận thấy ánh
sáng mặt trăng chân lý lúc nào cũng chiếu sáng. Từ đây con người
sẽ nhận thấy rằng cuộc sống này rất thoải mái, bình an trong cái
tâm trạng đầy phúc lạc thanh thản an nhàn.
Bây giờ nếu nhìn Tịnh độ bằng một khía cạnh tâm lý khác thì có
người lý luận rằng chúng sinh trong cõi Ta bà luôn lặn hụp, chìm
đắm trong biển sinh tử trầm luân và sống trong vô minh điên đảo
nên mới cần có Bồ-tát và Phật. Ngược lại trong cõi cực lạc, con
người hóa sinh từ hoa sen, muốn gì được nấy, khỏi cần làm ăn cực
khổ, muốn ăn gì thì thức ăn tự hiện ra, ăn xong khỏi cần rửa
dọn, thức ăn thức uống biến mất. Ngoài lầu vàng gác tía, áo quần
vật dụng hiện ra theo ý muốn và sống lâu vô lượng. Nói cách khác
trong cõi cực lạc, con người không còn biết khổ, sống quá sung
sướng thì đây chính là cực lạc Niết bàn rồi. Thế thì tu để làm
gì? Có khổ mới tìm Niết bàn, có vô minh mới cầu Bồ-đề. Không
biết tam khổ, bát khổ thì Tứ diệu đế dùng vào chỗ nào? Mình
không khổ, chúng sinh không khổ thì lấy gì làm cơ bản để tu Lục
độ vạn hạnh? Không khổ, không lo thì cần gì phải tu hành? Không
tu Tứ Diệu Đế và Lục Độ Vạn hạnh thì làm sao thành Phật được?
Nhưng nếu nhìn sâu (thâm ý của Phật) thì tịnh và thiền đều có
chung một mục đích là cột tâm vào một chỗ. Tâm của con người
sinh diệt từng sát na (60 sát na là một giây) với biết bao ý
tưởng thay đổi không ngừng như tâm viên ý mã vì thế mà năng lực
trở thành yếu ớt kém cỏi. Nay dùng phương tiện như tham thiền
hay niệm Phật để cột tâm lại một chỗ, không còn tán loạn thì tâm
sẽ được tỉnh tức là có định và sáng suốt. Nếu chúng sinh niệm
danh hiệu Phật A Di Đà để dẹp trừ vọng tưởng, chấp trước thì mỗi
câu niệm sẽ quét sạch vọng tưởng làm tâm thanh tịnh. Ví như ngọn
đèn vốn sáng, nhưng vì gió lay động làm ánh sáng bị lu mờ. Nếu
bây giờ chụp cái bóng che gió vào thì ngọn đèn sẽ bừng sáng. Do
đó nếu chúng sinh suốt ngày trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà,
biết chú tâm vào hồng danh này khi làm việc, lúc nghỉ ngơi cho
đến lúc nhất tâm bất loạn thì cái ảo ảnh nhị nguyên của vô minh,
cái tâm phân biệt, có chúng sinh có Phật sẽ chấm dứt và họ sẽ
chứng ngộ được chân lý nhiệm mầu ngay. Nên nhớ công phu nhất tâm
bất loạn của tịnh độ tức là thánh quả A la hán của thiền tông.
Vì thế cho dù con người có
gọi nó là tha lực tiếp dẫn của Đức A Di Đà, gọi là thiền, gọi là
mật, gọi là giáo thì có khác biệt gì đâu bởi vì chứng ngộ chân
lý thì không thể nói hay diễn tả bằng văn tự ngôn ngữ được. Cái
khả năng giải thoát mà con người cho rằng vốn ở bên ngoài tức là
tha lực thật ra vẫn ở bên trong tức là tự lực thì lúc nào vẫn
sẵn có ở trong ta. Đó chính là cái tự tánh thanh tịnh bản nhiên,
là Phật tánh vĩnh hằng trong tất cả mọi chúng sinh. Vì thế nếu
người tu trì công niệm Phật đến khi dứt sạch vọng tưởng và ngộ
nhập chơn tâm rồi thì Phật A Di Đà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở
nội tâm của mình hiện ra chớ không phải ở đâu xa. Bởi vậy kinh
Phật mới có câu: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ” là vậy.
Niệm Phật đến chỗ nhất tâm
bất loạn thì mới được vãng sanh có nghĩa là niệm Phật đến chỗ vô
niệm nghĩa là niệm mà không còn biết mình đang niệm tức là tâm
ấy chính là tâm Phật rồi. Đó là: “Lục tự Di Đà vô biệt niệm” thì
mới có “Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh”. Hoa khai kiến Phật tức
là Minh Tâm Kiến Tánh và Ngộ Vô Sanh nghĩa là không còn sinh
không còn diệt tức là chứng được Vô sanh pháp nhẫn vậy. Như thế
thì tu thiền hay niệm Phật chỉ là những phương tiện, là những
cách nói, nhưng cứu cánh vẫn là một. Cho dù con người có gọi nó
là minh tâm kiến tánh, nhất tâm bất loạn hay gọi là gì đi chăng
nữa thì trong đạo Phật chỉ có một hương vị duy nhất là vị giải
thoát giác ngộ. Vì thế trong Tịnh Độ thi có câu:
Ba phước thề tu, sáu niệm căn
Giữ gìn tam nghiệp sạch trong ngần
Một câu thánh hiệu không rời chán
Nguyện thấy Di Đà chứng pháp thân.
Do đó nếu chúng sinh có thể lìa Sự Tướng mà nhập vào Bản Thể
Chân Như thì Niết bàn, Bồ đề tự hiển lộ. Đó là: “Tùy kỳ tâm
tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là khi chúng sinh đã hoàn toàn có
tâm thanh tịnh thì thế giới họ đang sống chính là cõi tịnh độ
rồi.
Có người thắc mắc rằng Tịnh độ đến Nhất tâm bất loạn, còn Thiền
tông đến chỗ nào?
Không có đến chỗ nào hết. Cái mà con người gọi là Minh tâm kiến
tánh nghĩa là tâm mình cùng khắp không gian, vô bờ vô bến, chỗ
nào cũng là Thể của tâm mình cả. Đó là chơn tâm, Phật tánh cùng
khắp vậy. Tịnh độ tông mà người Trung Hoa còn gọi là Liên tông
là một trường phái được lưu hành rộng rãi tại Trung Hoa. Năm
402, Ngài Huệ Viễn (334-416) sống cùng thời với Pháp sư Cưu Ma
La Thập, thành lập Bạch Liên Xã, trong đó ông quy tụ một nhóm
123 người gồm Tăng sĩ và Cư sĩ tụ tập trước tượng A Di Đà và
nguyện vãng sinh về cõi Tây phương cực lạc. Dựa theo người Trung
Hoa, ông được xem là sơ tổ của Tịnh độ, nhưng thật ra khi nói về
pháp môn niệm Phật thì Đại Thế Chí Bồ Tát mới là sơ tổ của pháp
môn này. Sau đó có sư Đàm Loan (476-542) là người phát triển
tích cực và đem môn Tịnh độ đến với mọi người. Sư cho rằng vào
thời mạt pháp thì tự lực không còn đủ sức để giải thoát. Sư
không chấp nhận con đường gian khổ của những tông phái khác và
chỉ chấp nhận giải pháp “dễ dãi” là dựa vào tha lực của Phật A
Di Đà. Sư nghĩ rằng chúng sinh chỉ cần nhất tâm quán niệm danh
hiệu Phật A Di Đà là đủ để sanh về cõi cực lạc của Ngài. Đặc
tính của Tịnh độ là lòng tin nhiệt thành nơi Phật A Di Đà và sức
mạnh cứu độ của Ngài.
Đức Phật Thích Ca đã khẳng định rằng Ngài chỉ là một đấng đạo
sư, chứ không phải là đấng cứu thế, đấng thần linh vì thế đạo
Phật là con đường giúp chúng sinh tự mình chứng ngộ chân lý, tự
mình có được giải thoát giác ngộ chứ Phật không cứu rỗi, độ cho
bất cứ ai. Bồ-đề, Niết bàn là do chúng sinh tự hóa giải hết vô
minh phiền não mà có chứ không phải do Phật, Bồ-tát ban tặng.
Bớt một phần vô minh thì có một phần Bồ-đề, hóa giải một phần
phiền não thì có một phần an lạc Niết bàn thế thôi. Đức Phật hy
sinh cả cuộc đời vương giả, không ngại dầm mưa giải nắng, cực
khổ gian lao để đi tìm chân lý. Đến khi thành đạo Ngài đã đem
ánh đạo vàng gieo khắp các nơi, đem nước từ bi rưới xuống cứu độ
chúng sinh để “lìa khổ được vui” không phân biệt là cung vua phủ
chúa hay mái tranh nghèo của người nông phu vì thế không có nơi
nào ở Ấn Độ mà không có dấu chân Phật. Nếu đây không phải là
“Tha lực Phật” đã gia bị cho chúng sinh thì là gì? Nhưng trong
Phật giáo không hề có việc ân sủng cứu rỗi vì nó đi ngược lại
với quy luật nhân quả phát triển khách quan của tất cả vạn hữu
trong vũ trụ.
Trong Kinh A Hàm, có câu chuyện nàng Kisa Gotami như sau :
Nàng Kisa Gotami có người con trai chẳng may bị rắn cắn chết. Vì
quá thương yêu đứa con yêu dấu của mình nên nàng Kisa không thể
chấp nhận cái chết. Nàng mang thi hài của con đến hết nhà này
tới nhà kia để tìm thuốc cứu chữa, nhưng không ai có thể giúp
nàng được. Cuối cùng nàng đến hầu Đức Phật. Đức Phật dạy rằng :
- Nếu cô có thể đem cho ta một nắm tro (có sách viết là hạt
cải), ta sẽ giúp cô. Tuy nhiên, nắm tro ấy phải xuất phát từ
ngôi nhà trong đó không có người nào chết cả.
Kisa đi đến mọi nhà trong thành phố. Khắp nơi mọi người đều
thương xót cho hoàn cảnh đau khổ của nàng nên ai cũng tặng nàng
nắm tro. Nhưng khi hỏi lại thì bất cứ gia đình nào cũng có người
chết. Đó là có khi anh em, cha mẹ, vợ chồng hay con cái như
nàng. Quá thất vọng, nàng trở về gặp Đức Phật với tay không. Đức
Phật nhìn người đàn bà đau khổ và hỏi:
- Ngươi đã tìm được nắm tro ấy không?
- Ôi! Con ôm đứa con đã lạnh vào lòng và đi gỏ cửa từng nhà một
để xin thứ tro ấy. Tro thì không thiếu gì, nhưng không có nhà
nào không có người hoặc mới chết, hoặc chết đã lâu. Con mệt nhọc
mà vẫn không tìm ra nay nhờ Ngài chỉ dùm nhà nào có thứ tro mà
Ngài đã dạy để cứu con của con.
Đức Phật đặt một tay trên vai Kisa như để trút cả một niềm
thương lên đó và nói bằng một giọng xót xa :
- Kisa! Không có thứ tro đó đâu. Vì chết là một luật chung của
sinh vật trong vũ trụ này. Hôm qua ta bảo ngươi đi tìm thứ tro
ấy là cốt để cho ngươi nhận thấy rằng “Đã là con người thì phải
chịu cảnh sinh ly tử biệt”. Không ai có thể vượt thoát ra khỏi
luật vô thường cay nghiệt này. Hôm qua ngươi tưởng chỉ có một
mình ngươi đau đớn. Bây giờ ngươi đã hiểu rằng toàn thể nhân
loại đều chịu chung như thế cả. Cái đau đớn của ngươi chỉ là một
trong cái đau đớn của toàn thể nhân loại. Đây là một giọt nước
mắt trong biển nước mắt mà thôi. Ngươi đừng nên than khóc
thái quá vì không thể nào thay đổi cái định luật khắc nghiệt
này. Nếu ta có thể cứu được con ngươi thì dầu cần đến máu xương
ta thì ta cũng không từ.
Nàng Kisa cảm thấy được an ủi nên về sau nàng đến gặp Đức Phật,
trở thành đệ tử của Ngài và sau đó chứng thánh quả A la hán.
Dựa vào câu chuyện trên, chính Đức Phật cũng không thể thay đổi
sinh mệnh của con người được bởi vì chân lý của đạo Phật là nhân
nào thì quả nấy và chỉ có ta mới có thể thay đổi cuộc đời và
định mệnh của ta mà thôi. Vì thế không có việc độ trì, cứu rỗi
trong đạo Phật vì Đức Phật chỉ là bậc thầy vĩ đại chứ không phải
là đấng thần linh.
Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anàthapindika) là vị thí chủ lớn nhất ủng
hộ Đức Phật và Tăng chúng. Ông cùng Thái tử Kỳ-Đà (Jeta) xây
tịnh xá Kỳ Viên nơi mà Đức Phật đã thuyết giảng trong suốt 19
mùa an cư kiết hạ. Khi cư sĩ Cấp Cô Độc đau nặng sắp chết, Đức
Phật hay tin liền cho tôn giả Xá Lợi Phất và A Nan đến thăm. Sau
khi thăm hỏi bệnh tình, tôn giả Xá Lợi Phất khuyên ông Cấp Cô
Độc không nên để cho mắt sanh thức rồi nhiễm theo sắc trần,
không nên để tai sanh thức rồi nhiễm theo thanh trần… Nói chung
tuy sáu căn tiếp xúc với sáu trần nhưng đừng khởi thức phân biệt
rồi chạy theo sáu trần. Sau đó Ngài nhắc ông Cấp Cô Độc chớ để
tâm đắm nhiễm sắc thân tứ đại (đất, nước, gió, lửa) mà sanh tham
dục. Chớ để tâm đắm nhiễm cái thân ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng,
hành, thức) mà sanh tham dục. Trưởng giả Cấp Cô Độc nghe xong
bài pháp thoại liền rơi nước mắt mà thưa rằng :
- Từ trước đến giờ con chưa từng nghe bài pháp
như thế, bây giờ con mới được nghe.
Tôn giả A Nan cũng nhắc nhở khuyến pháp cho ông Cấp Cô Độc. Nhắc
nhở, giảng giải xong, hai tôn giả từ giả ra về. Sau đó không bao
lâu, cư sĩ Cấp Cô Độc mệnh chung sinh lên cõi trời Đầu Suất.
Như vậy đối với các Phật tử sắp chết, Đức Phật và các đại đệ tử
của Ngài chỉ đến thăm, giảng giải đạo lý nhắc cho người bệnh nhớ
và tin sâu vào Tam Bảo mà an lòng ra đi chớ không có tụng kinh
trợ niệm. Nếu những Phật tử khi mạnh khỏe thường tụng Bát Nhã
tâm kinh thì nên nhắc nhở với họ còn nhớ câu: “Quán tự tại
Bồ-tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngủ uẩn
giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Nếu họ trả lời “Nhớ” thì hỏi
tiếp: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không là sao?”. Nếu họ giải thích
đúng, thì hỏi tiếp: “Thế thì quý vị đã thấy ngũ uẩn giai không
chưa?”. Nếu họ đã thấy thì qua hết khổ nạn mà ra đi thảnh thơi.
Nếu họ chưa thấy thì nhắc lại cho họ tỉnh. Hoặc có thể nhắc nhở
một câu trong kinh Kim Cang: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư
vọng, Nhược kiến chư tướng, Phi tướng tức kiến Như Lai” để đánh
thức họ đừng luyến tiếc xác thân, tiền của, ngay cả vợ chồng con
cái thì mới ra đi nhẹ nhàng được. Như vậy là độ cho họ
trong giờ phút lâm chung, chớ không phải lập bàn thờ Phật, mình
thì tụng kinh gõ mõ còn họ thì cứ mê cứ mệt, không sáng suốt,
hai bên không dính dáng gì nhau.
Ngày xưa có một Tỳ kheo trẻ mới xuất gia học đạo, nhưng lâm bệnh
nặng nên Đức Phật tới thăm hỏi:
- Ông có hối tiếc điều gì không?
- Bạch Thế Tôn! Con có hối tiếc.
- Ông có phạm giới không?
- Bạch Thế Tôn! Con không phạm giới.
- Không phạm giới, sao ông hối tiếc?
- Bạch Thế Tôn! Con mới xuất gia, đối với pháp thượng nhân con
chưa có sở đắc nên hối tiếc lúc mạng chung không biết sanh về
nơi đâu?
Đức Phật hỏi tiếp :
- Do có nhãn căn nên mới có nhãn thức phải không?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.
- Ý ông nghĩ sao? Có nhãn thức nên có nhãn xúc. Do nhãn xúc làm
nhân duyên sanh cảm thọ khổ vui phải không?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.
- Từ đó nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng vậy.
- Này Tỳ kheo! Nếu không có nhãn căn thì không có nhãn thức phải
không?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.
- Này Tỳ kheo! Nếu không có nhãn thức thì không có nhãn xúc. Nếu
không có nhãn xúc thì không có nhân duyên sanh cảm thọ khổ vui
phải không?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.
- Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng nên quán như vậy.
- Vậy Tỳ kheo phải khéo tư duy pháp như thế. Lúc mệnh chung an
ổn, đời sau cũng tốt lành.
Nhắc nhở giảng dạy xong, Đức Phật ra về, chốc lát sau Tỳ kheo
trẻ mệnh chung. Lúc chết các căn của Tỳ kheo ấy rất thanh tịnh
và dung mạo màu da tươi sáng, chứng được Niết bàn.
Đức Phật chỉ nhắc nhở cho vị Tỳ kheo ấy nếu muốn được giải thoát
thì đừng chấp thân, đừng chấp tâm và đừng chấp cảnh. Do đó nếu
không còn chấp thì chặt đứt tham-sân-si và dĩ nhiên tâm được
thanh tịnh mà chứng được Niết bàn. Đức Phật chỉ nhắc nhở như thế
là đủ chớ Phật và đệ tử của Ngài không hề có “tụng kinh niệm
Phật cầu siêu”. Tại sao lại không tụng niệm? Vì người sắp chết
tâm lại duyên theo tiếng mõ tiếng chuông, âm vang trầm bổng của
lời tụng. Mà còn duyên là còn dính mắc, không tự tại, khó giải
thoát. Nhưng nếu nhắc nhở cho họ thấu hiểu rằng “ngũ uẩn giai
không” nghĩa là thân này không thật, thế gian nầy không thật,
cuộc đời cũng như giấc mộng, nhanh như điện chớp, như bóng mây,
mới thấy đó rồi mất đó. Ngay cả thân bằng quyến thuộc cũng không
thật bởi vì duyên kết thì còn anh còn em, còn vợ còn chồng, còn
con còn cháu đến khi duyên tan thì mỗi người đi mỗi ngã. Hiểu
được như thế thì họ dễ dàng buông xả, không còn lo phiền tức là
“hết khổ ách”. Tham-sân-si hết thì tâm trí sáng suốt, có an vui
tự tại và Niết bàn hiển lộ. Dĩ nhiên là họ sẽ được siêu thoát.
Như thế, đạo Phật không tin vào sự cứu rỗi mà tin sâu vào nhân
quả, tin vào lời tuyên bố của Đức Phật khi mới thành đạo là: “Ta
là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành” và dĩ nhiên tin
vào câu nói sau cùng trước khi Ngài nhập diệt: “Mọi người hãy tự
thắp đuốc lên mà đi”. Đây chính là ngọn đuốc trí tuệ sáng chói
mà chính Ngài đã giơ cao để soi đường và nhắn nhủ với chúng sinh
phải “tự học, tự tu, tự giác mà thành Phật”.
Còn theo kinh điển Pàli, nguồn giáo lý căn bản của Nam tông thì
cõi Tịnh độ hay vãng sinh được hiểu như thế nào?
Dựa theo kinh điển Pàli, danh từ Suddhàvàsa (tiếng ghép của hai
chữ Suddha nghĩa là thanh tịnh và Àvàsa nghĩa là chỗ ở) có thể
được hiểu là Tịnh độ, chỉ chung cho các cõi nhân thiên. Còn danh
từ Sukhavati của Phạn ngữ có nghĩa là chốn An lạc, Lạc cảnh. Do
đó chữ “Tịnh độ”
của Trung Hoa là cõi cực lạc đúng hơn là cõi Tịnh độ. Theo các
chú sớ A Tỳ Đàm, có tất cả 5 cõi Tịnh độ nằm trong 16 cõi Phạm
thiên Hữu sắc. Đó là cõi Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện
kiến và Sắc cứu cánh. Vì là cõi hữu sắc nên ở 5 cõi Tịnh độ này
vẫn có những lâu đài, hoa viên rất trang nghiêm, nhưng không
phải để hưởng thụ mà chỉ là nơi thanh tịnh tu hành.
Đối với Phật giáo Nam tông, Phật giáo nguyên thủy, có tất cả bốn
hàng Thánh trí trong Thanh văn thừa. Đó là:
1) Sơ quả Tu đà hoàn (Sotàpatti): Nếu chúng sinh loại bỏ được 3
thứ phiền não: thân kiến (chấp cái thân tứ đại là trường tồn bất
biến vì không thông hiểu luật vô thường, vô ngã, sinh sinh diệt
diệt nên chấp trong ta có Cái Ta riêng biệt, chắc chắn và không
biến đổi), hoài nghi (không tin sâu vào Phật pháp) và giới cấm
thủ (chấp trước các tín điều mù quáng của những tà giáo) thì họ
đắc được sơ quả Tu đà hoàn. Nói chung, sơ quả chỉ là giai đoạn
ngắn trước khi chúng sinh hoàn tất các tầng thánh trí cao hơn.
Quả vị này còn được gọi là Thất lai nghĩa là người chứng đắc sơ
quả không thể tái sinh quá 7 lần hay 7 kiếp.
2) Nhị quả Tư đà hàm: Sau khi loại bỏ ba loại phiền não ở trên,
bây giờ chúng sinh tiếp tục tham thiền, niệm Phật làm giảm nhẹ
ái dục và sân hận thì chứng đắc Nhị quả hay còn được gọi là Nhất
lai (Sakadàgàmi) bởi vì những vị này chỉ có thể tái sinh vào cõi
Dục giới một lần chót mà thôi.
3) Tam quả A na hàm: nghĩa là Bất lai tức là không còn tái sinh
trở lại một trong 11 cõi Dục giới nữa. Theo A Tỳ Đàm tạng Pàli,
nếu chúng sinh hoàn toàn chấm dứt ái dục (niềm tham luyến trong
ngũ trần) và sân hận thì sẽ chứng đắc tam quả A na hàm. Các vị A
nan hàm có hai chọn lựa:
- Thứ nhất: Nếu họ có khả năng đi sâu vào thiền định như chứng
đắc Ngũ thiền thì bây giờ tùy theo công phu mạnh yếu của Tín,
Tấn, Niệm, Định, Tuệ mà họ sẽ được sinh vào một trong 5 cõi Tịnh
độ. Tín mạnh thì sinh về cõi Vô phiền (Avihà) có thọ mạng 1.000
đại kiếp, Tấn hùng hậu thì sinh về cõi Vô nhiệt (Àtappà) có thọ
mạng 2.000 đại kiếp, Niệm cao thì sinh về cõi Thiện hiện
(Sudassà) có thọ mạng 4.000 đại kiếp, Định thâm hậu thì sinh về
cõi Thiện kiến (Sudassi) có thọ mạng 8.000 đại kiếp và Tuệ sáng
chói thì sinh về cõi Sắc cứu cánh (Akanittha) có thọ mạng 16.000
đại kiếp. Đây là chốn sau cùng để một vị Bất lai chứng quả A la
hán và nhập diệt.
- Thứ hai: Trong trường hợp vị Thánh A na hàm chưa chứng qua một
tầng thiền định nào nghĩa là vị này chỉ có tu trí tuệ Thiền Quán
(Vipassanà) mà chưa từng tu tập Thiền Chỉ (Samatha) thì đến lúc
mạng chung, vị này do khả năng ly dục vô sân tuyệt đối nên tối
thiểu cũng đạt được Sơ thiền, cũng đủ để sinh về cõi Phạm thiên
thấp nhất là Phạm thiên Sơ thiền.
4) Thánh quả A la hán: là người đã chấm dứt toàn bộ phiền não.
Trong tinh thần A Tỳ Đàm Pàli thì danh từ vãng sinh của Bắc tông
phải được hiểu là siêu sinh nghĩa là không còn tái sinh, một
điều chỉ được thực hiện bởi một vị A la hán. Như vậy, trong
trường hợp những vị chứng đắc từ tam quả A na hàm trở xuống sẽ
sinh về một trong 5 cõi Tịnh độ mới có thể gọi là vãng sinh. Như
thế vãng sinh Tịnh độ dựa theo tinh thần Phật giáo nguyên thủy
phải được hiểu là một phần đường trên hành trình giải thoát của
một vị Thanh văn. Do đó pháp môn Tịnh độ hay con đường vãng sinh
cũng đồng nghĩa với hành trình Tam vô lậu học Giới Định Tuệ và
37 phẩm trợ đạo của Tứ diệu đế.
Vì vậy pháp môn Tịnh độ vẫn là cứu cánh cho tất cả mọi người,
nhưng dựa theo tinh thần Phật giáo nguyên thủy thì cầu vãng sinh
không có nghĩa là chờ đợi sự tiếp dẫn của bất cứ ai mà phải là
sự lên đường bằng chính đôi chân của mình.
Thứ ba đối với mật tông hay Kim Cang thừa: Tông phái này mang
đầy mầu sắc lễ nghi, hình thức phức tạp và những thực hành có
tính cách bí truyền ngược lại với tính chất công truyền của giáo
lý Nguyên thủy. Trên phương diện giáo lý, mật tông dựa theo tư
tưởng Trung Quán và Duy Thức, nhưng trên thực tế tông phái này
phát triển vô số thần linh, lễ nghi, bùa chú, ấn quyết và trộn
lẫn với đạo Bon Pa (đạo bùa chú ở Tây Tạng có trước khi đạo Phật
du nhập vào Tây Tạng). Mật tông Tây Tạng quan niệm rằng: “luân
hồi là Niết bàn” cho nên họ dùng tất cả những kinh nghiệm sống
của con người, tất cả những trạng thái tâm thần, dù là xấu xa
hèn kém để chuyển hóa chúng nhằm vượt khỏi thế giới phân biệt
đối đãi nhị nguyên mà chứng đạt được chân lý. Vì mật ngữ phải
truyền từ vị thầy đến đệ tử do đó trên con đường tu học này rất
khó khăn và phức tạp khiến sự hướng dẫn của một vị thầy là một
điều cốt yếu cho nên người đệ tử phải có một niềm tin vững chắc
vào vị thầy cũng như lòng tin ở khả năng giác ngộ của chính
mình.
Như thế, trong đạo Phật đức tin chỉ là phương tiện, trí tuệ cũng
chỉ là phương tiện, nhưng là phương tiện cốt yếu trong khi đức
tin là một phương tiện thứ yếu, tạm thời. Vì vậy cho dù chúng
sinh có tu theo tiểu thừa, đại thừa, tu theo thiền, tịnh hay
mật, hiển hay giáo thì mục đích tối hậu của đạo Phật là giải
thoát giác ngộ và niềm tin tối thượng vẫn là tin tưởng ở chính
mình, ở khả năng tự giác của mình và tin vào tự tánh thanh tịnh
bản nhiên tức là Phật tánh, là chơn tâm lúc nào cũng sẵn có và
hằng sáng ở trong ta.
ĐẠO PHẬT DƯỚI ÁNH MẮT
CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ.
1) Người đệ tử Phật không
bị ràng buộc bởi bất cứ tín điều, tư tưởng, chủ nghĩa hay sự cấm
kỵ nào bởi vì Phật giáo phủ nhận đầu óc cuồng tín và giáo điều
cực đoan. Nếu không tin Phật thì người đó không bị trừng phạt
hay bị đày xuống hỏa ngục, nhưng nếu người đó làm điều xấu hoặc
điều ác thì chính họ đang sống trong Hỏa ngục rồi. Lời Phật dạy
giống như viên thuốc, nếu uống thì hết bịnh còn không uống thì
tiếp tục sống trong vô minh điên đảo khổ đau, chịu sinh tử luân
hồi thế thôi.
2) Sự sống chết của con người là do nhân quả mà ra chớ không do
quỷ thần hay Nam Tào, Bắc Đẩu xóa sổ. Tất cả những hạnh phúc hay
khổ đau của con người là do chính tay họ tự tạo ra chớ Quỷ Thần
không can dự vào được. Thử hỏi bao nhiêu thiên tai, tai nạn
khủng khiếp và bao cuộc chiến tranh đẫm máu do ai gây ra? Phải
chăng đây là do lòng tham vô đáy của con người đã tác tạo ra
những cộng nghiệp, biệt nghiệp bất thiện nên phải gánh chịu quả
báo đau thương tang tóc hay do một đấng thần linh nào đó vì phẫn
nộ với loài người gây ra? Trong thế gian vũ trụ này không có cái
gì là cố định cả. Nếu không có sự chuyển động thì thế giới, vũ
trụ, con nguời cũng không còn, không tồn tại. Do sự chuyển động
của địa cầu làm rung chuyển những khối lỏng nham thạch bên trong
mà tạo thành động đất, núi lửa. Vậy theo tinh thần Phật giáo,
không có một vị thần linh nào có thể nhẫn tâm trừng phạt, hủy
diệt loài người và gây đau thương chết chóc khắp mọi nơi mà đây
chỉ là kết quả mà chính con người đã tạo ra cho chính mình.
Thêm nữa, khi nói về Thượng đế, Phạm thiên, hay thần linh thì
Đức Phật có dạy rằng:
“Như vậy, chính do ý muốn và sự tạo tác của đấng Tối Cao mà con
người trở thành sát nhân, trộm cắp, tà dâm, phỉ báng, thô lỗ,
nhảm nhí, thèm thuồng, khao khát, hiểm độc, tinh quái và hiểu
biết sai lầm. Do đó đối với người chủ trương thần linh là nguyên
nhân chính yếu của tất cả những điều ấy”.
Trong Túc Sanh Truyện (Maha Bodhi Jataka) cũng nói rằng: “Nếu có
một đấng thần linh toàn quyền ban phước hay giáng họa cho tạo
vật đã được chính Ngài tạo ra và cho chúng nó những hành động
tốt hay xấu thì vị thần linh ấy quả thật đầy tội lỗi. Bởi vì con
người chỉ thừa hành ý muốn của đấng thần linh đó”.
Do đó nếu nói Thượng đế là đấng toàn năng toàn thiện thì tại sao
Ngài lại sáng tạo cái thế giới con người đầy dẫy tội lỗi đau
thương? Tại sao Ngài tạo ra biết bao nhiêu cảnh tai trời ách
nước, tàn phá, giết hại chúng sinh? Như thế thì lòng bác ái của
Ngài ở đâu? Vậy sự cầu nguyện có làm bớt thiên tai, dịch họa,
chiến tranh hay khổ đau của con người được không? Vì thế Phật
giáo phủ nhận sự hiện hữu thần linh trong cuộc sống của con
người. Theo tinh thần Phật giáo thì chính con người phải tự mình
giải quyết những vấn đề như chiến tranh hay hòa bình, hạnh phúc
hay khổ đau của chính mình. Chiến tranh hay hòa bình là do con
người quyết định chớ không dính dấp gì tới Phật trời cả.
Nếu con người biết sống
khoan dung độ lượng để biết thương yêu nhau thì họ biến chiến
tranh thành hòa bình, ngược lại nếu các nhà lãnh đạo chạy theo
những tham vọng đen tối thì từ hòa bình thành chiến tranh giết
chóc thế thôi. Thêm nữa, do sự chuyển động của trái đất, của núi
lửa, của những cơn gió lốc… theo định luật vô thường: thành,
trụ, hoại, không đã tác hại con người. Nói chung thì đó cũng là
do lòng tham của con người phá hũy môi trường sống của chính
mình qua chiến tranh, qua những cuộc thí nghiệm nguyên tử, qua
tàn phá thiên nhiên, đốt rừng tiêu hủy cây cối… tạo nên những
ảnh hưởng dây chuyền nguy hiểm cho nhân sinh. Con người cũng vì
muốn thỏa mãn lòng tham mà đi ngược lại với thiên nhiên nên hàng
ngày lấy lên từ lòng đất, từ lòng biển hàng triệu thứ từ kim
cương đến vàng, bạc, nhôm, sắt, khí đốt, dầu hỏa rồi lại thải ra
hàng triệu tấn chất độc tác hại gây ra lầm than qua thiên tai,
động đất, sóng thần, bảo lụt, hạn hán… Vì thế con người không
thể tin rằng có một Thần linh nào đó có thể nhẫn tâm trừng phạt,
hủy diệt loài người và gây đau thương chết chóc tang tóc khắp
mọi nơi. Khi liễu ngộ như thế con người không phải sợ hãi thần
linh, tôn thờ thần linh, van vái và cầu xin ở thần linh nữa.
3) Lời nói đầu tiên của Đức Phật khi Ngài vừa thành đạo dưới cội
Bồ-đề là “trong mọi chúng sinh ai ai cũng đều có Phật tánh như
nhau” nghĩa là bất cứ chúng sinh nào cũng có khả năng tu thành
Phật cũng như Phật. Đây là tinh thần bình đẳng mà chỉ Phật giáo
mới có. Vì thế đối với người Phật tử một khi đã thấm nhuần tinh
thần bình đẳng của nhà Phật thì dưới nhãn thức của họ sẽ không
có giai cấp, không có nạn kỳ thị chủng tộc, không có Phật tử
giàu sang và Phật tử nghèo hèn, không có Phật tử thông minh hay
Phật tử đần độn. Do đó khi người Phật tử lễ Phật là lễ lạy, cung
kính cái Phật tánh có sẵn trong con người mình và cung kính tất
cả những phẩm hạnh cao quý vốn có sẵn trong tự tánh của chính
mình nếu biết phát huy chớ không phải vái lạy, van xin hay cầu
nguyện để thỏa mãn những đòi hỏi phát xuất từ dục vọng của mình.
4) Khi con người biết xã bỏ những thú vui giả tạm của thế gian
để phát huy triệt để tiềm năng của lòng từ bi và trí tuệ thì họ
sẽ có an lạc, thanh tịnh của Niết bàn mà không cần cầu xin, van
vái gì hết bởi vì Niết bàn Bồ-đề vốn đã có sẵn trong họ chớ
không do Phật trời ban tặng. Phật giáo chủ trương phiền não tức
Bồ-đề và sinh tử tức Niết bàn. Tại sao? Trong cuộc sống, con
người vì chạy theo miếng cơm manh áo, sắc tài danh lợi mà tự
mình tạo ra biết bao phiền não làm che lấp tự tánh Bồ-đề nên
sống trong vô minh đen tối. Bây giờ nếu biết thức tỉnh, hồi
quang phản chiếu để hóa giải hết những phiền não kia thì đám mây
đen vô minh tan biến và ánh sáng huyền diệu Bồ-đề từ từ hiển
hiện trong tâm. Còn sinh tử là khổ đau. Trên thế gian này tất cả
mọi vật thể đều là tự tánh thanh tịnh bản nhiên, không ô nhiễm
nên gọi là pháp tánh cũng như tất cả chúng sinh đều có tự tánh
Bồ-đề mà nhà Phật gọi là Phật tánh.
Thí dụ như cây cỏ, núi cao
rừng thẳm đâu có lôi cuốn, quyến rũ ai đâu, nhưng con người thấy
cảnh liền mê, tham hoa hiếu sắc. Do đó tham mê sắc dục là tại
cái nhìn của người còn vô minh chớ thiên nhiên lúc nào cũng
thanh tịnh hồn nhiên, không ô nhiễm. Con người cũng thế, nếu
chúng sinh nhìn thế gian bằng con mắt tham đắm dục tình thì cái
gì cũng mê cũng thích, nhưng cũng con người đó bây giờ hiểu đạo
mà nhận biết rằng vạn pháp giai không nên không còn chấp thủ,
đắm say. Hiểu đạo thì có cũng được mà không cũng chẳng sao, tất
cả chỉ là phương tiện để sống chớ không xem nó là cứu cánh của
cuộc đời. Sống đúng như vậy thì sẽ có tâm thanh tịnh tức là Phật
tánh hiển bày.
Vậy Phật tánh lúc nào cũng
sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh cũng như ánh sánh mặt trời
lúc nào cũng chiếu sáng. Nhưng nếu con người chạy theo phiền não
vô minh thì Phật tánh biến mất cũng như đám mây đen hắc ám che
lấp ánh sáng mặt trời. Vậy thế gian làm gì có ô nhiễm, khổ đau
hay nói rõ ràng hơn là sáu căn, sáu trần, sáu thức và bảy đại
cũng không phải là nguyên nhân của tội lỗi xấu xa. Khổ đau là do
con người tự ràng buộc, tự trói lấy mình chứ Phật trời có trói
buộc ai đâu. Khi con người biết hồi đầu thị ngạn, tư duy quán
chiếu để cởi bỏ, tháo gở cho hết những trói buộc do chính mình
tạo tác thì khổ đau từ từ tan biến, ô nhiễm bị tiêu trừ và dĩ
nhiên niềm an lạc, thanh tịnh, tự tại của Niết bàn hiện ra mà
không cần cầu nguyện chi hết.
5) Trong lịch sử nhân loại từ cổ đến kim, bao nhiêu cuộc chiến
tranh tàn khốc, bao nhiêu cảnh anh em, cha mẹ, vợ chồng, con
cái, xóm làng chém giết, sát hại lẫn nhau cũng chỉ vì tánh tham,
tật đố. Giáo lý Đức Phật sẽ là những liều thuốc nhiệm mầu xoa
dịu nổi đau thương làm con người gần nhau hơn vì còn tham-sân-si
là con người còn đau khổ. Vì muốn thỏa mãn lòng tham nên con
người không bao giờ thấy đủ, không hạnh phúc với những gì mình
có. Người giàu thì muốn giàu hơn cho nên đầu óc không còn sáng
suốt nên dễ dàng làm chuyện phi pháp, trái với đạo đức mà phải
thọ báo quả khổ về sau. Quốc gia lớn nuốt sống những nước nhỏ,
người mạnh ỷ thế hiếp kẻ yếu thế cô… Thí dụ ngày xưa bạo chúa
Tần Thủy Hoàng cậy sức mạnh thôn tính sáu nước chư hầu mà cuộc
sống ông ta đâu có hạnh phúc vì lúc nào cũng sợ có kẻ báo thù
cho nên ông ăn không ngon và ngủ chỉ thấy toàn ác mộng. Vì muốn
sống lâu để thỏa mãn những dục tính điên cuồng nên ông sai người
tâm phúc đi tìm thuốc trường sinh bất tử nhưng cuối cùng ông
cũng chết vì uống nhằm độc dược có chất Thủy Ngân. Do đó Phật
dạy biết “tri túc thiểu dục” là có hạnh phúc. Thật vậy, người
giàu chưa chắc cuộc sống đã là sung sướng bởi vì có càng to thì
lo càng lớn. Công danh phú quý cũng như đeo ách trên vai, ách
càng to thì vai càng nặng chớ có sung sướng gì. Còn người nghèo
mà biết gói ghém, vun bồi đạo đức, trên thuận dưới hòa thì chắc
gì đã khổ đau bởi vì hạnh phúc hay khổ đau là ở chỗ biết sống vì
thế cổ nhân cũng có câu: “Trọc phú đa ưu, thanh bần an lạc” là
vậy. Cho nên người không hiểu đạo, lúc lâm vào cảnh nghèo túng
thì đâm ra buồn khổ tức là:
“Lòng quanh quéo càng thêm quanh quéo,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu”
Cho nên:
“Lòng buồn sanh bệnh, bệnh sanh lòng buồn”.
Do đó vui vẻ trong mọi hoàn cảnh là có hạnh phúc rồi. Vì thế mà
Đức Phật dạy rằng:
“Tham dục chính là nguồn gốc của khổ đau. Mọi vật rồi sẽ thay
đổi, vì thế không nên luyến ái hay vướng víu vào một thứ gì. Nên
nhiếp tâm thanh tịnh tìm chân lý và đạt đến hạnh phúc vĩnh
hằng.”
Biết tri túc thiểu dục là biết sống hạnh phúc với những điều
kiện vật chất khả dĩ giúp cho con người có đầy đủ sức khỏe để tu
tâm dưỡng tánh và đây là phương cách hữu hiệu nhất để cắt đứt
lưới tham dục, an ổn thân tâm và có nhiều thì giờ giúp đở tha
nhân. Từ đó chúng sinh mới có thể nhiếp tâm thanh tịnh nghĩa là
kiểm soát, đừng để tâm chạy theo khách trần phiền não mà chứng
được chân lý và dĩ nhiên Bồ-đề, Niết bàn hiển hiện tức là có
được hạnh phúc vĩnh hằng vậy.
Những gì Đức Phật dạy đều phát xuất từ đời sống kinh nghiệm và
chứng đắc của bản thân vì thế, Ngài dạy chúng sinh những ý chí
sắt đá, trí tuệ cao siêu, đức vị tha phục vụ, sự thoát ly và
sống đời gương mẫu làm lợi lạc cho mình, cho người. Con người vĩ
đại đó, tấm lòng đại từ đại bi đại trí tuệ đó, phương pháp giáo
dục siêu việt đó của Đức Phật đã làm cho thế giới kính phục Ngài
như một đạo sư siêu việt nhất trong lịch sử nhân loại. Đạo Phật
là con đường giúp chúng sinh tự mình thể nghiệm chân lý mà Phật
chỉ là kẻ dẫn đường, người hướng đạo. Do đó toàn bộ giáo lý Đức
Phật chỉ là phương tiện mà thực chứng chân lý mới là cứu cánh
cho nên lời nói của Phật có mục đích để cho con người phát nghi,
chớ không để cho người ta chấp thật. Tại sao? Vì có nghi con
người mới nỗ lực tìm câu trả lời thì đây chính là những công án
rất nhiệm mầu giúp chúng sinh thể nghiệm chân lý.
Đó cũng là con đường mà Đức
Phật ngày xưa đã đi. Vì Chân lý chỉ có thể nghiệm chứng chứ
không thể diễn tả cho dù là Phật cũng không nói được, nên Ngài
mới nói rằng “Ta chưa hề nói một chữ” là vậy. Nói cách khác, Đức
Phật dạy chúng sinh đời là bể khổ vì Ngài thấy biết như thế. Nếu
Đức Phật là đấng thần linh thì Ngài chỉ cần niệm Úm Ba Di Bát
Nhị Hồng rồi phảy cái phất trần thì thế gian làm gì còn khổ đau.
Biết đời là bể khổ, nhưng chính Ngài không thể hóa giải nỗi khổ
của chúng sinh mà mỗi người phải tự giải thoát lấy những hệ lụy
khổ đau của riêng mình mà Phật chỉ là người hướng đạo mà thôi.
Tuy Đức Phật đã khẳng định rằng Ngài không phải là đấng thần
linh, không phải là Thượng đế, không phải là đấng cứu thế, nhưng
tại sao hàng năm các chùa Phật giáo Việt Nam ở hải ngoại đều gởi
thơ để kêu gọi cầu an cầu siêu cho Phật tử? Phải chăng đây là do
lòng từ bi của quý Thầy Cô muốn độ chúng sinh? Thật sự cầu siêu
có phải là của Phật giáo không?
Để giải thích cho nghi vấn nầy, chúng tôi xin trích đăng nguyên
văn một đoạn trong bộ “Giáo Khoa Phật Học cấp 2” do Ban Bảo Trợ
Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam ấn hành như sau:
“…Về tập tục tụng kinh siêu độ cho người chết, theo hòa thượng
Đạo An, vốn không phải là một tập tục truyền thống của Phật
giáo. Tập tục này chỉ bắt đầu có ở Trung Quốc từ đời nhà Đường.
Vì theo sử chép thì năm 738, vua Đường Huyền Tông đã ban sắc
lệnh cho toàn quốc, ở mỗi quận đều xây một ngôi chùa, đều đặt
tên là chùa Khai Nguyên (Khai Nguyên là niên hiệu thứ nhì của
vua Huyền Tông). Đó là chùa công, do các quan lại địa phương
trông coi, dùng làm nơi tổ chức các lễ tiết quốc gia, cầu quốc
thái dân an. Việc làm này vừa có ý nghĩa đem ân huệ của Phật ban
đến quốc dân, cũng vừa để biểu thị quyền uy của chính quyền
trung ương.
Năm 755, An Lộc Sơn nổi
loạn, kéo binh về chiếm kinh thành, khiến vua Huyền Tông phải
chạy vào Tứ Xuyên lánh nạn. Một năm sau thì quân triều đình dẹp
yên giặc loạn. Trong một năm chiến tranh này, số người chết gồm
các chiến sĩ của cả hai bên và thường dân nhiều vô kể. Triều
đình bèn ra chỉ dụ cho tất cả các chùa Khai Nguyên trong toàn
quốc, thỉnh chư vị cao tăng đại đức, thiết lễ tụng kinh siêu độ
cho chiến sĩ và thường dân đã chết trong cuộc chiến vừa qua,
đồng thời an ủi các gia đình nạn nhân. Dân chúng thấy triều đình
làm như thế, bèn bắt chước làm theo, cứ mỗi khi trong nhà có
người chết, liền thỉnh chư tăng tụng kinh siêu độ. Từ đó mà lễ
cầu siêu độ cho người chết trở thành một tập tục trong dân
gian”.
Vua Đường Huyền Tông vì dùng quyền lực của một vì vua mà bắt ép
Dương Thái Chân lúc bấy giờ là người tình của tướng An Lộc Sơn
vào cung làm Dương Phi. Vì quá phẫn nộ An Lộc Sơn tạo phản làm
vua tôi nhà Đường phải chạy vào Tứ Xuyên lánh nạn. Trên đường
bôn tẩu ba đào, vua phải cắn răng chiều lòng ba quân tướng sĩ
giết chết Dương Thái Phi. Tuy chiếm được Trường An, nhưng người
ngọc Dương Thái Chân đã thành người thiên cổ nên An Lộc Sơn chỉ
nắm được trong tay một xác thân giá lạnh, cứng ngắc, đã bốc mùi
hôi thúi, chảy nước vàng. Nếu An Lộc Sơn biết “Quán thân bất
tịnh” nghĩa là quán chiếu để biết rằng thân xác con người là nhơ
nhớp, hôi thúi và được che đậy bởi một lớp da mỏng mềm dịu êm ái
bên ngoài để quyến rũ con người vào vòng tội nghiệp cũng như
viên thuốc độc bọc đường thì cho dù có mười Dương Thái Chân, An
Lộc Sơn cũng không màng, không gây loạn chớ đâu phải đợi đến khi
ôm cái thây ma thối tha thì ông mới biết thân này là bất tịnh.
Do đó cho dù là Tây Thi, Trịnh Đán thì đến khi già, khi bệnh
cũng không thoát khỏi cái luật vô thường cay nghiệt đó. Vì thế
mà người xưa có câu:
Má thoáng hương mai, mặt nhụy đào,
Thấy rồi mắt dán, ý nao nao.
Thảy đều một đãy da hôi thúi,
Thầm cắt ruột người chẳng dụng dao.
Nghĩa là khi thấy một người đẹp, tuyệt sắc giai nhân thì mắt
nhìn mãi không rời và lòng xốn xang xao xuyến nao nao. Nhưng xét
cho cùng đó chỉ là cái dáng bên ngoài vì bên trong chỉ là một
đãy da hôi thúi. Do đó càng đắm mê sắc đẹp thì càng dễ gặp tai
họa cũng như ngày xưa vua Ngô Phù Sai vì say mê sắc đẹp Tây Thi,
ngày đêm vui chơi trên Cô Tô Đài mà quên cả giang sơn quốc sự
nên về sau bị vua Việt Câu Tiển kéo quân sang đánh làm nước Ngô
tan nát và vua Ngô phải chết. Vì thế kẻ tham mê sắc dục thì đạo
đức tiêu tan, vợ chồng bất hòa, gia phong bại hoại.
Là người Việt Nam không ai mà không biết được hình ảnh quen
thuộc của Thúy Kiều, một tuyệt sắc giai nhân, đã được thi hào
Nguyễn Du diễn tả như sau:
“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da…
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh…”.
Đẹp như thế mà tại sao về sau nàng Kiều cũng phải than rằng:
“Xót thay chiếc lá bơ vơ,
Kiếp trần biết giữ bao giờ cho xong.
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan…” .
Nếu sắc đẹp thật sự mang lại hạnh phúc thì tại sao Thúy Kiều lại
than trời trách đất, sống dở chết dở như vậy. Hay là:
”Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”.
Nguyễn Du vì không thể giải thích hiện tượng hồng nhan bạc mệnh
nên đổ hết tội cho ông trời và thuyết định mệnh của Nho giáo.
Nhưng trên thế giới, từ cổ đến kim, từ Đông qua Tây không nhất
thiết hễ là người đẹp thì phải chịu cảnh “má hồng phận bạc” như
Nguyễn Du nói đâu? Biết bao hoa khôi, mệnh phụ phu nhân có hạnh
phúc tràn đầy. Do đó, thuyết định mệnh không làm Thúy Kiều đau
khổ, mà đây chính là luật nhân quả của nhà Phật đã chi phối ảnh
hưởng cuộc đời của Thúy Kiều và của tất cả chúng sinh. Dựa theo
Phật giáo, nếu chúng sinh khéo gieo nhân thì người đó cũng có
thể tạo cho mình một quả báo để có diện mạo đẹp đẽ về sau, nhưng
nét đẹp đó không liên quan gì tới đạo đức cả. Vì thế, họ có thể
là tuyệt thế mỹ nhân nhưng vẫn phải gánh chịu những nỗi bất hạnh
như thường. Muốn có cuộc sống hạnh phúc thì họ phải gieo nhân
lành, biết bố thí cúng dường, biết kiên trì giữ giới hạnh, hiếu
đễ với cha mẹ, sắt son chung thủy với bạn đời, tín nghĩa với bạn
bè, trung hậu với chủ nhân… Chính những phước duyên này sẽ kiến
tạo cho họ ở đời sau chẳng những là một tuyệt thế mỹ nhân mà còn
là người duyên dáng đạo đức làm mọi người kính mến, thương yêu.
Chính vậy mà Nguyễn Gia Thiều cũng nói rằng:
“Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng,
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa”.
Bây giờ hãy lắng nghe Thái tử Tất Đạt Đa than thở với Công chúa
Da Du Đà La trước khi Ngài đi xuất gia:
”Chúng ta sẽ già yếu và xấu đi. Thời gian sẽ phủ lên đầu chúng
ta những lớp tro bạc. Ôi! Mặt trong của nàng rồi sẽ mờ đục. Môi
thắm của nàng rồi sẽ úa màu. Ta nghe trong ta, trong nàng và
trong tất cả mọi người, mỗi ngày mỗi đổ vỡ dưới sức tàn phá của
cái búa thời gian… Chúng ta ôm giữ một cách tuyệt vọng những bảo
vật ở trong ta như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn
hương.”.
Vì vậy cuộc tiệc nào chẳng có lúc tàn, dung nhan nào chẳng có
lúc tàn phai do đó chỉ có cái đẹp tự trong tâm hồn là cái đẹp
bền vững, không bao giờ phai nhạt và không còn sợ bị quỷ vô
thường ám hại.
Thế thì cầu an cầu siêu “không phải” là truyền thống của Phật
giáo. Chúng sinh phải tự hỏi rằng Phật hay Bồ-tát có thể tiêu
trừ những khổ đau, tội nghiệp và những rắc rối của mình được
không? Nói cách khác, mình tạo nhân mà người khác chuyển quả có
được không? Một người ăn mà người khác có no được không? Con
người phải trực tiếp nhận lãnh trách nhiệm của chính mình cho
những gì xảy ra đến với mình. Người làm lành sẽ được thưởng quả
tốt, ngược lại, kẻ gieo nhân ác sẽ phải thọ lãnh điều bất hạnh
thế thôi. Luật nghiệp quả rất công bình, hợp lý và không thiên
vị bất cứ một ai cho dù đó là Đức Phật. Một kiếp quá khứ, tiền
thân Đức Phật vì lở tạo khẩu nghiệp, cho đến kiếp này mặc dù đã
thành Phật vẫn phải trả như thường. Ngài phải ăn lúa dành để
nuôi ngựa đến 3 tháng mới xóa được nghiệp bất thiện này. Vì thế
nếu con người muốn cải thiện đời sống của mình thì nó tùy thuộc
vào sự thay đổi cách cư xử, lối sống và những thái độ nhằm để
tác động những gì sẽ xảy ra trong tương lai.
Đức Phật không dạy cầu an cầu siêu vì có cầu cũng chẳng được bởi
vì nhân nào quả nấy, trồng khế thì ăn quả chua còn trồng quít
thì hưởng quả ngọt thế thôi. Con người khi còn sống thì dối
người, lợi mình. Dối người chưa đủ họ còn quay lại dối mình và
dối luôn cả Phật trời. Nhưng khi chết thì thân vật lý đâu còn
nữa để che đậy sự dối trá của mình nên tất cả các nghiệp thiện
ác hiện ra rất rõ ràng trong thân trung ấm (thân tư tưởng trong
hư không) để đưa họ tái sinh tương xứng với quả nghiệp của họ.
Khi đi tái sinh thì cái ngã tan vỡ đâu còn nên hài nhi không còn
nhớ mình là ai, từ đâu đến, đã làm những việc thiện ác gì. Từ
đây nó mang một hình hài mới, sắc diện mới, tên họ mới, cha mẹ
anh em dòng họ mới và một cuộc đời mới tương xứng với tất cả
những quả nghiệp mà nó đã tạo tác từ những đời quá khứ. Cái ngã
cũ không còn, tên họ cũ mất đi.
Thí dụ ngày xưa là Nguyễn
văn A bây giờ tái sinh thành ra John Smith thì ông A vĩnh viễn
biến mất trong thế gian rồi, còn đâu nữa mà cầu. Ngày xưa tôn
giả Mục Kiền Liên là thánh Tăng mà không siêu nổi cho mẹ ông thì
phàm tăng đời nay có ai dám bảo đảm làm được? Còn nếu năm nay
các chùa tụng kinh cầu siêu cho ông bà chúng ta được siêu sinh
tịnh độ rồi, thì năm tới tại sao các chùa cũng tiếp tục gởi thơ
để cầu siêu nữa? Nếu đã siêu rồi thì tại sao năm nào cũng cầu?
Cầu đến bao nhiêu năm mới được siêu? Dựa theo Phật giáo, nếu
muốn siêu thì khi còn sống con người phải lo tu tâm dưỡng tánh,
làm lành tránh dữ, vun bồi phước đức và công đức để biến cuộc
sống thành an vui tự tại, thanh tịnh giải thoát thì khi nhắm mắt
sẽ được an nhiên siêu thoát mà không cần ai cầu ai nguyện chi
cả.
Hãy nghe tiến sĩ Oldebburg, một học giả người Đức phát biểu
rằng:
- Đức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người
phải tự chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự
giải thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là
chân lý, không phải giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng
xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi
ánh sáng trí tuệ của chính mình.
Ngay cả Giáo sư Eliot viết trong cuốn “Phật giáo và Ấn Độ giáo”
rằng:
- Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Đức Phật tuyên bố sự giải
thoát, mỗi con người có thể đạt được do chính bản thân mình
trong đời sống của mình trên thế giới mà không cần đến sự giúp
đở của Thượng đế hay thánh thần nào. Ngài nhấn mạnh về giáo lý
như lòng tự tin, thanh tịnh, nhã nhặn giác ngộ, an lạc và lòng
thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của
trí tuệ vì không có nó thì siêu linh nội tâm không xâm nhập
trong đời sống của Ngài được.
Tóm lại, đạo Phật không phải là đạo đổi chác, không phải là đạo
ban bố phép mầu và cũng không phải là đạo hứa hẹn. Sự giải thoát
giác ngộ hay sự an lạc thanh tịnh Niết bàn thật ra tự chúng sinh
đem lại cho mình chớ Phật không ban bố cho ai cả. Vì thế, tuy
đạo Phật là đạo của từ bi, trí tuệ và lòng dũng cảm, nhưng nếu
con người không tin vào lòng từ bi để thương yêu, ban vui cứu
khổ để cứu giúp chúng sinh; vào khả năng phát triển trí tuệ để
chứng đạt chân lý ngỏ hầu thấu biết được thật tướng nhân sinh vũ
trụ và lòng dũng cảm để vượt qua sóng gió chập chùng mà chiến
thắng được vô minh phiền não của mình mà chỉ muốn cầu xin, van
vái thần linh để có hạnh phúc thì con đường họ đi chắc chắn “
không phải” là đạo Phật.
|
|