BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
THUẬT LẠI CHỖ TU CHỨNG
Khi bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm đứng dậy
cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Tôi nhớ hằng hà sa kiếp
trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm và tôi đã phát Bồ
Đề tâm thời ấy. Đức Phật Quán Thế Âm dạy tôi phương pháp “nghe,
suy nghĩ và tu” để được thể nhập Tam-ma-đề.
- Bạch Thế Tôn! Trước hết tôi sử dụng
tánh nghe: Nghe động và nghe tĩnh, rồi tôi xóa đi ý niệm động
tĩnh ấy, từ đó sức tịch tĩnh tăng dần, tôi dứt được “năng văn”
và “sở văn”. Sức tịnh tĩnh không dừng ở đó bấy giờ tánh giác tôi
lại hiển hiện ra. Tôi tiếp tục tư duy: Dù là giác tánh nhưng
tánh “năng giác” “sở giác” hãy còn.
Tôi bèn xóa đi ý niệm
về giác bấy giờ tâm tánh tôi rỗng rang lặng lẽ như hư không. Tôi
lại diệt đi cái giác tri “như hư không” ấy. Cuối cùng tôi diệt
cả khái niệm “diệt”. Khi tôi diệt hết khái niệm vi tế về “diệt
sanh, sanh diệt” bỗng dưng tôi nhận thấy toàn thể pháp giới
trong mười phương chỉ còn là cảnh giới “bất nhị” tịch diệt hiện
tiền. Tâm tánh của tôi viên mãn khắp giáp mười phương vượt hẳn
tầm nhận thức thường tình của thế gian. Tôi được hai món thù
thắng: Một là tâm tôi hợp với bản giác nhiệm mầu của mười phương
Như Lai, đồng một từ tâm hướng hạ cứu độ chúng sinh. Hai là hợp
với tâm của lục đạo chúng sinh trong mười phương, đồng một bi
tâm hướng thượng cầu Vô thượng Bồ Đề.
Ở phần kinh trên, Đức
Phật đã gạn hỏi đại chúng nguyên nhân đạt được đạo, chứng nhập
viên thông. Có hai mươi lăm vị Thánh đệ tử Thanh Văn lẫn Bồ Tát
lần lượt trình bày về thành quả viên thông ấy, cái nguyên nhân
chứng đắc của mình để cho ông A Nan chọn cái nào là viên thông
nhất làm nhân địa tu hành. Sáu căn, sáu trần, sáu thức và bảy
đại đều là những dữ kiện để đạt đến chứng đắc viên thông và viên
thành Thánh quả. Nếu theo thứ tự thì Nhĩ căn viên thông phải
được trình bày sau phần nhãn căn viên thông ở đoạn kinh trước.
Nhưng vì tầm quan trọng và siêu tuyệt của nó nên Bồ Tát Quán Thế
Âm nhĩ căn viên thông được trình bày sau chót vì chỗ chứng đắc
của Đức Quán Thế Âm mới là tròn đủ, nhiệm mầu.
Đối với sáu căn thì
căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn
thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”,
văn là nghe, tư là suy nghĩ, nghe rồi suy nghĩ để tu nghĩa là
nghe ở tai, suy nghĩ ở tâm và tu trong sự làm thì trí tuệ vô lậu
phát sinh mà vào được chánh định. Nghe ở đây là nghe chánh pháp,
nghe Phật pháp và suy nghĩ là suy nghĩ đúng với chân lý thì sự
thực hành mới có lợi lạc, mới phát sinh trí tuệ sáng suốt. Nhĩ
căn viên thông là phương pháp “phản văn văn tự tánh” giúp hành
giả dứt vọng trở về chơn nghĩa là không xuôi dòng chạy theo âm
thanh mà trở ngược lại tánh nghe tức là từ cái nghe để trở về
với tự tánh của mình. Nhập lưu ở đây chính là đi ngược dòng
nghiệp thức để quay lại quán tánh nghe. Người thực hành pháp môn
này tuyệt đối không dùng tai để nghe vì nếu còn dùng tai để nghe
là còn chạy theo âm thanh sắc tướng tức là chạy theo vọng tưởng
trần duyên. Đối với âm thanh chẳng nói là nghe mà nói là Quán
tức là dùng Trí chiếu soi chớ không dùng Thức Tai mà nghe.
Vậy Ngài Quán Thế Âm
áp dụng nhĩ căn viên thông như thế nào?
Đức Quán Thế Âm quán
cái “tánh nghe” không tăng không giảm, không biến chuyển thay
đổi, không sinh diệt và bao trùm khắp mười phương. Ngài quán các
tướng động, tĩnh hiện ra trong tánh nghe là huyễn hóa, là không
thật vì chúng không có tự tánh, không có chủ thể cho nên Ngài
không còn phân biệt thật có năng, có sở mà vào được tánh viên
thông. Tánh nghe thì lúc nào cũng có, khi có âm thanh là nghe
tiếng còn không có tiếng, vắng lặng là nghe tĩnh đến khi không
còn nghe động hay tĩnh tức là dứt được năng văn, sở văn. Khi tai
nghe âm thanh động, tĩnh từ bên ngoài (sở văn) thì tâm liền
buông bỏ, quên đi sở văn nghĩa là nghe thì cái gì cũng nghe mà
thật ra chẳng nghe cái gì hết tức là năng văn, sở văn trở nên
vắng lặng, không nghe bên ngoài mà chẳng còn nghe bên trong.
Mặc dù động, tĩnh vẫn
còn nhưng không quan tâm cái gì hết. Muốn thực hành pháp môn Nhĩ
căn viên thông được rốt ráo thì trước hết hành giả phải cố gắng
thực tập cái nghe. Nghe thì nghe tất cả mà như không nghe gì
hết, hay không nghe gì hết mà vẫn nghe tất cả. Đây là cách nhiếp
căn tai lại không cho chạy theo thanh trần tức là âm thanh động,
tĩnh, thị phi, phải quấy, tốt xấu. hơn thua… bên ngoài. Nên nhớ
căn mắt và căn tai là hai cơ quan nhạy bén nhất của con người
nên dễ tiếp xúc, cảm nhận và phân biệt trần cấu mà phát sinh ra
vọng tưởng. Do đó mắt thì cái gì cũng thấy mà như không thấy gì
hết, chẳng cần quan tâm lưu ý cái gì hết thì tâm không động. Và
cứ như thế mà thực hành lối tu này thì đến lúc năng văn, sở văn
hoàn toàn không còn nữa tức là có được Nhân Không.
Bây giờ không trụ vào
chỗ nghe hay không nghe nghĩa là cái nghe thì đã không nghe rồi,
nhưng cái không nghe thì cũng không vương mắt, chấp vào chỗ cái
không nghe mà trong ta chỉ còn có một cái tánh giác mà thôi. Nói
cách khác trong tâm bấy giờ tất cả những ý niệm cho dù là thiện,
ác cũng không còn thì tánh giác xuất hiện. Nhưng nếu hành giả cố
giữ ý niệm về giác thì cũng không được mà phải xóa bỏ luôn ý
niệm năng giác về mình và sở giác là đối tượng giác mà mình cố
giữ gìn, bám vúi vào đó. Sau khi đã xóa bỏ hoàn toàn năng giác,
sở giác thì tâm rỗng rang lặng lẽ và thấy vạn pháp như rỗng
Không. Rỗng Không là thấy vạn pháp là đối tượng “sở không” còn
trí của mình là “năng không” nên mới có sự phân biệt năng không,
sở không.
Sau cùng hành giả phải
diệt hết cái biết trống không tức là đừng bám víu
vào cái giác tri rỗng không ấy tức năng không, sở không cũng bỏ
hết, chẳng còn gì để phân biệt. Năng Không và Sở Không đều diệt
mất tức là đã giải thoát khỏi pháp. Sau cùng ý tưởng về sanh
diệt cũng diệt luôn nghĩa là dù biết thế giới là sinh sinh diệt
diệt, nhưng hành giả phải diệt đi cái quan niệm sinh diệt của
vạn pháp chớ đừng thấy vạn pháp sinh mà vui mừng, tham đắm, say
mê và vạn pháp diệt thì phiền não, khổ đau. Thí dụ còn thấy mình
tu để diệt vô minh phiền não là ý niệm sinh diệt, cần phải diệt
vì thế gian chẳng có cái gì là vô minh phiền não cả.
Nếu tâm không còn dính
mắc thì tìm đâu ra phiền não vô minh vì phiền não vô minh đâu có
thật! Vì thế nếu hành giả diệt được ý niệm sanh diệt nghĩa là
thấu hiểu vạn pháp là vô thường sinh sinh diệt diệt cho dù con
người có quan tâm thì nó cũng sinh diệt hay chẳng cần để ý đến
thì nó cũng sinh diệt như thường nên họ nhìn vạn pháp một cách
trực giác, hồn nhiên thì chính họ sẽ có cái vui tịch diệt. Trong
ngũ uẩn thì hành uẩn là cội nguồn phát sinh ra ý niệm, dòng tư
tưởng sinh diệt xuất phát từ hành uẩn tuôn chảy không ngừng vì
thế nếu không diệt được hành uẩn thì khó kiềm chế ý niệm. Một
khi phá được hành uẩn thì dĩ nhiên thức uẩn không còn vì chẳng
còn ý niệm gì để phân biệt. Sanh diệt đã diệt thì Tịch Diệt hiện
tiền nghĩa là tự tánh Bồ Đề hiển hiện tức là vào Tam-ma-đề,
chứng vô sanh pháp nhẫn. Đó là Thường Chân Thật vậy.
Pháp tu Quán Thế Âm
Nhĩ Căn Viên Thông này vô cùng thâm sâu huyền diệu đưa hành giả
đạt đến trí tuệ tận cùng và sau cùng chứng được Lăng Nghiêm tam
muội để có giải thoát giác ngộ viên mãn.
Ngày xưa Trí Giả Đại
sư của phái Thiên Thai đã nghiêm trì kinh Pháp Hoa đến chỗ tận
đỉnh tột cùng, chứng được Pháp Hoa tam muội và nhất triền Đà la
ni. Sau khi xuất định, Ngài lập ra môn Tam Chỉ Tam Quán. Về sau
có vị Pháp sư người Ấn Độ nghe danh nên đến núi Thiên Thai thăm
viếng. Sau khi nghe Trí Giả Đại sư trình bày về môn Tam Chỉ Tam
Quán, vị Pháp sư rất ngạc nhiên mà thốt lên rằng pháp môn này
cũng giống như kinh Thủ Lăng Nghiêm ở Ấn Độ. Trí Giả Đại sư tuy
đã nghiêm trì Phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm trong kinh Pháp Hoa đến
chỗ cao tột nên Ngài muốn nhờ kinh Thủ Lăng Nghiêm để ấn chứng.
Tại sao phải là kinh Lăng Nghiêm? Bởi vì trên thế gian, duy nhất
kinh Lăng Nghiêm mới có pháp tu “phản văn văn tự tánh’ của Ngài
Quán Thế Âm mà chứng đắc Thủ Lăng Nghiêm tam muội.
Pháp môn Tam Chỉ Tam
Quán dùng “ý thức” để tu tâm, còn kinh Lăng Nghiêm lại dùng
“tánh của căn” để tu. Hành giả muốn tu theo pháp môn ‘phản văn
văn tự tánh” để có được Thủ Lăng Nghiêm Đại Định thì tuyệt đối
không dùng đến tâm thức bởi vì tâm thức phân biệt là cội nguồn
của vọng thức chớ không phải chơn tâm. Nhưng nếu cho rằng tâm
thức là dẫn dắt đến chỗ vô minh tăm tối nên chúng sinh cố gắng
xả bỏ tâm thức tán loạn vọng động để tạo cái tâm an định, tịch
tĩnh thì lại bị kẹt vào chỗ chấp. Mà còn chấp là còn dính mắc,
không thể có tự tại. Nếu quan niệm rằng cố gắng thiền quán để
đưa tâm đến trạng thái tĩnh lặng tức là ý niệm không còn thì sẽ
đắc định. Đây chỉ là bước đầu trên con đường giải thoát giác ngộ
chớ thật ra cái định đó vẫn chưa thoát ra khỏi khuôn khổ của tâm
thức. Do đó, dựa theo kinh Lăng Nghiêm, hành giả phải xả bỏ tâm
thức dưới mọi hình thức thì mới hy vọng đạt được tánh định sẵn
có của tự tâm. Lúc bấy giờ chúng sinh mới có thể nhận rõ được
những thể tánh như nghe, thấy, nếm, ngửi, xúc, biết thường có
trong các giác quan của mình. Tánh định này mới thật sự là chơn
định.
Thông thường, chỉ quán
là do công phu luyện tập lâu ngày thuần thục mới có thể
kết hợp được tâm và cảnh nhất như mà không lấy ngay tự
tánh sẵn có làm định. Ngược lại, kinh Lăng Nghiêm dùng định viên
mãn của tự tâm sẵn có làm “Nhất Thiết Sự Cứu Cánh Kiên Cố” nghĩa
là sự bền chắc nhất trong tất cả mọi thứ tức là cứu cánh bậc
nhất. Vì thế lối tu “Tự tánh bổn định” này khác hẳn với lối tu
tam chỉ tam quán của Ngài Trí Giả Đại sư. Một khi đã nắm được
thể tánh chiếu diệu đó, hành giả liền khởi công tu luyện “vi mật
quán chiếu” mà không cần lấy tư duy tu tập làm quán. Tại sao?
Bởi vì cái định này vốn tự tánh sẵn có, thường hằng, không ngoài
tự tánh bất động cùng làm một thể chơn định. Vì sự huyền diệu đó
mà Trí Giả Đại Sư rất xúc động khi nghe có kinh Thủ Lăng Nghiêm
đang lưu hành mà chính Ngài chưa từng hay biết nên Ngài khát
vọng muốn có cơ hội để xem cho được bộ kinh nầy nên hằng ngày
hai lần sớm chiều hướng về phương Tây (Ấn Độ) quỳ lạy cầu khẩn
liên tiếp trong mười tám năm cho kinh Lăng Nghiêm được sớm
truyền bá sang Trung Quốc. Nhưng duyên chưa đến nên Trí Giả Đại
Sư viên tịch lúc Ngài 67 tuổi mà vẫn chưa hề thấy, đọc được
kinh.
Con người thường có
bệnh chấp nên nói rằng tu hành để diệt vô minh, phá trừ pháp
chấp. Nhưng thực ra mê giác là một, không ngoài tham-sân-si thì
không có giới-định-tuệ, không có Phật tánh nào khác.
Có một ông Tướng chán
ngán nhân tình thế thái nên đến xin xuất gia với Ngài Đại Huệ :
- Bạch Thầy! Hiện tại con đã trừ sạch niệm hồng trần, xin Thầy
từ bi thu nhận con làm đệ tử xuất gia.
Sư bảo :
- Ông có gia đình, còn
tập khí ngoài đời nặng nề nên chưa thể xuất gia, hãy thong thả
từ từ.
Ông thưa :
- Bạch Thầy! Gia đình,
vợ con, thê thiếp, công danh, phú quý con đều bỏ được hết, cúi
mong Thầy cho con xuất gia ngay.
Sư vẫn bảo :
- Hãy thong thả từ từ.
Ông đành chờ. Ngày nọ,
ông dậy rất sớm vào chánh điện đảnh lễ Phật. Ngài Đại Huệ thấy
vậy, liền bảo :
- Tướng quân vì sao mà
dậy sớm đến lễ Phật như thế?
Ông trả lời bằng bài
kệ :
“Vì trừ lửa trong tâm
Dậy sớm lễ sư trưởng”
Sư cũng đối lại :
“Dậy sớm như thế ấy
Chẳng sợ vợ ngủ người”
Ông vừa nghe liền nổi
giận bảo :
- Lão quái này, sao
hôm nay nói năng xúc phạm đến người quá vậy?
Lúc đó, Thiền sư Đại
Huệ cười mà bảo rằng :
“Nhè nhẹ phẩy chiếc
quạt
Tánh lửa đã cháy phừng
Nóng nảy hừng như thế
Sao bảo buông xuống
xong?
Đang nổi giận, ông
nghe nói vậy chợt bừng tỉnh lại. Do đó khi nổi giận là sân,
nhưng khi tỉnh lại là giác. Con người vì mê nên mới khởi
tham-sân-si, nếu bây giờ giác được tham-sân-si thì sẽ trở về với
tánh giác nhiệm mầu trong sáng sẵn có của chính mình.
Khi nói mê là mê đối
với ngộ, cũng như ngộ là ngộ nơi mê. Nói cách khác do bỏ quên
cái ngộ thì mê, nhưng bây giờ rõ mê thì được ngộ. Nhưng mê ngộ
không có thật thể cho nên người có chánh kiến biết rõ tâm là
rỗng không tức là vượt khỏi mê ngộ. Bình thường, chúng sinh còn
thấy có niệm mê, niệm ngộ nghĩa là mình chưa khỏi mê. Cho dù
chính mình thấy ngộ được cái mê, nhưng vẫn còn thấy có cái mê để
ngộ thì cũng chưa hết mê tức là bởi chưa hết mê nên mới còn thấy
cái mê để cho mình ngộ vì thế khi nào còn ý niệm mê ngộ là chưa
sạch cái mê. Cũng như hễ có sáng thì không có tối, còn có tối
thì không có sáng chớ không phải dùng cái sáng mà soi cái tối
được. Thí dụ nếu nói tu hành để có Bồ-đề, Niết bàn nghĩa là còn
thấy cái mê để ngộ thì vẫn còn mê vì thật ra Bồ-đề, Niết bàn là
tự tánh sẵn có, đâu cần phải tu mới có vì thế người biết đạo thì
chỉ cần sống thật với tự tánh thì không tìm ngộ mà cũng chẳng
cần bỏ mê thì niệm mê ngộ tan biến, thanh tâm mới hiện bày.
Tổ Đạt Ma dạy rằng :
”Khi mê thì có Phật có Pháp, khi ngộ thì không có Phật Pháp”.
Như thế khi ngộ thì Phật Pháp bỏ ở đâu mà không có? Chúng sinh
vì còn mê mới thấy có Phật, có Pháp ở ngoài tâm nên mới dong
ruỗi mong cầu đến khi thức tỉnh giác ngộ thì mới biết rằng tâm
mình là Phật, tâm mình là Pháp nên nói không có Phật Pháp là
vậy.
Có một vị dũng tướng
đến hỏi Thiền sư :
- Thiên đường, địa
ngục là có hay không?
Sư hỏi :
- Ông làm nghề gì?
- Tôi là đại tướng,
oai danh lẫm liệt.
Sư nói :
- Tướng ông èo uột như
thế mà gọi là đại tướng được hay sao?
Vị tướng nghe nói, mặt
bừng bừng sát khí, tay định rút kiếm ra thì Sư mới bảo rằng:
- Đó chính là cửa địa
ngục.
Vị tướng xấu hổ, chợt
tỉnh ngộ, cúi đầu sám hối.
Thiền sư mĩm cười bảo:
- Đó, chính đó là cửa
thiên đường.
Vậy thiên đường, địa
ngục là ngay trong tâm chớ không đâu khác.
Nên nhớ ngoài tâm
không có Phật, ngoài Phật không có tâm. Nhưng khi gọi “Tâm hay
Phật” cũng là danh từ đối đãi cho nên nếu chúng sinh còn kẹt
trên danh tự thì còn thấy có hai. Do đó, Phật tâm, Phật tánh là
cái biết chớ không phải cái có thể nói được. Ngày xưa, cư sĩ
Bàng Uẩn làm bài kệ để nói về Phật Bất Động tức Phật A Súc ở
phương Đông:
“Thường nghe Phật A
Súc
Nghĩ hướng phương Đông
cầu
Hôm nay xét nét kỹ
Bất động tự nhiên
đến.”
Thông thường chúng
sinh nghe Phật A Súc ở phương Đông nên hướng về phương Đông mà
cầu để được vãng sinh về cõi đó. Nhưng ông Bàng Uẩn nói rằng một
khi tâm mình bất động tức là có thanh tịnh thì Phật Bất Động
hiển hiện trong tâm của mình tức là thấy được Phật A Súc mà khỏi
cần cầu phương Đông chi cả.
Đến đây thì tất cả các
vọng niệm phân biệt chấp trước đều hết, chơn tâm thanh tịnh tự
hiện bày. Đó chính là trừ hết vọng thì chân tánh hiển lộ cũng
như mây tan thì có ánh sáng mặt trời thế thôi.
Lúc ấy thế gian và
xuất thế gian đối với Ngài đều sáng tỏ nên Ngài được hai thứ thù
thắng tràn đầy sáng suốt:
1) Trên thì khế hợp
với giác tâm vốn huyền diệu của mười phương chư Phật đồng một từ
tâm quay xuống cứu độ chúng sinh. Tuy Phật độ vô số chúng sinh,
nhưng không thấy mình độ và chúng sinh được mình độ tức là không
có năng độ, sở độ nên tâm không có sự đối đãi phân biệt nghĩa là
không có ta là năng từ bi và không có chúng sinh nhận là sở từ
bi nên các Ngài rất tự tại.
2) Dưới khế hợp với
tất cả mười phương chúng sinh lục đạo và đồng một bi ngưỡng với
tất cả chúng sinh. Đồng một thể bi là tất cả chúng sinh với Bồ
Tát cùng một thân thể nên khổ của chúng sinh là khổ của Bồ Tát
và cho dù Bồ Tát có vào đời cứu độ chúng sinh mà không cho ta là
năng độ và sở độ là chúng sinh. Nói cách khác, các Ngài đã phá
hết các chấp nên không còn năng sở, không còn năng độ và sở độ.
Tâm của Bồ Tát hợp với tâm của lục đạo chúng sinh bởi vì trong
tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng đều có sẵn Phật tâm, Phật
tánh, Bồ Tát tâm, Bồ Tát tánh rồi cho nên ai ai cũng được Bồ Tát
thuyết pháp độ tương ứng với khả năng và thỉnh nguyện của mình.
Nói cách khác, khả năng thấu hiểu của mình thế nào thì Bồ Tát
tùy theo đó mà thuyết pháp độ sanh không một ai bị bỏ rơi cả.
DO TỪ TÂM BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM HIỆN RA 32 ỨNG THÂN
- Bạch Thế Tôn! Do tôi
cúng dường Quán Thế Âm Như Lai, được truyền thọ cho tôi “Như
huyễn Văn huân Văn tu Kim Cang tam muội” nên thân tôi thành tựu
32 ứng thân vào các cõi nước.
Như huyển là không
thật, Văn huân là huân tập cái nghe, Văn tu là tu tập dựa theo
tánh nghe, Kim Cang tam muội là môn chánh định rắn chắc như kim
cương. Vậy Như huyễn Văn huân Văn tu Kim Cang tam muội là pháp
môn tu hành của Ngài Quán Thế Âm mà theo đó Ngài huân tập cái
nghe là huyển hóa và huân tu dựa theo tánh nghe cũng như huyển,
không có gì là thật cả. Nói cách khác nói tu hành là đứng trên
văn tự lời nói chớ thật ra chẳng có cái gì là tu hành hết, đừng
xem việc tu hành là quan trọng thì đạt được chánh định rất vững
chắc, cứng như kim cương vậy. Tại sao? Người tu hành mà còn thấy
mình tu hành để cầu mong chứng đắc thì tâm vẫn còn tham, còn
dính mắc vì thật ra chẳng có cái gì gọi là chứng đắc cả vì tu
hành cốt là để hồi đầu thị ngạn, trở về với bản lai diện mục đã
có của mình vì thế mà Tâm Kinh dạy là “vô trí diệt vô đắc” là
vậy.
Phải hiểu rằng phiền
não vô minh là huyển, là không thật có. Nó chỉ có đối với những
ai còn tham đắm dục tình cho nên nếu chúng sinh biết hóa giải
hết tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến thì tìm đâu ra phiền não
vô minh! Nhưng người tu hành lại chấp mà cho là thật nên cố tu
hành để diệt phiền não, dứt vô minh. Thật là oái
oăm
lầm lẫn, chúng sinh không lo tu sửa cái nhân mà lại lo diệt trừ
cái quả. Vì thế càng tu thì tâm trí càng mờ mịt không biết lối
ra. Do vậy Đức Quán Thế Âm muốn nhắn nhủ với chúng sinh là tiếng
nghe như huyễn, tu cũng như huyển nghĩa là nghe thì cái gì cũng
nghe mà như không nghe cái gì hết tức là đừng chấp âm thanh là
thật mà đem vọng tưởng vào tâm và cũng chẳng tu hành gì hết vì
nếu nhiếp được nhĩ căn thì tự nó đã hóa giải hết phiền não vô
minh rồi chớ không phải mỗi ngày phải tụng bao nhiêu thời, sáng
Kim Cang chiều Phổ Môn nửa đêm sám hối mới gọi là tu.
Do đó Như huyển Văn
huân Văn tu là lấy huyển trí mà diệt huyển vô minh. Đây chính là
áp dụng triệt để câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Thế gian
là huyển, mình là huyển, vạn vật cũng là huyển thì lấy gì để
chấp thủ, bám víu,
nên tâm dễ dàng buông bỏ. Không dính mắc thì phiền não vô minh
không cần diệt mà tự nó tiêu tan biến mất rồi. Đó chính là giác
sinh thì mê tự diệt vậy.
Vì thế nhờ thực hành
“Như huyển Văn huân Văn tu” mà Ngài Quán Thế Âm đạt được Kim
Cang tam muội tức là vào được vòng viên thông, có chánh định rất
vững chắc như kim cương. Khi ấy trên thì đồng một từ lực với chư
Phật nghĩa là cái tâm thương yêu tất cả mọi chúng sinh bình
đẳng, không phân biệt. Nói cách khác chư Bồ Tát hay chư Phật
không chỉ thương người thiện, lánh xa người ác, thương người
nghèo khó, bỏ rơi kẻ giàu sang, nhưng dưới tuệ giác của các Ngài
tất cả chúng sinh đều bình đẳng như nhau, không sai khác. Dưới
khế hợp với tất cả mười phương chúng sinh lục đạo và đồng một bi
ngưỡng với tất cả chúng sinh.
Ngài Quán Thế Âm Bồ
Tát tu chứng Vô Duyên Từ Thượng Đẳng Phật cho nên có thể thành
tựu 32 ứng thân để hiển bày diệu dụng cùng khắp mười phương mà
thuyết pháp độ chúng sinh tùy theo sở thích mà đáp ứng theo yêu
cầu của họ.
Thân ngũ uẩn của chúng
sinh là nhục thân do cha mẹ kết hợp mà thành. Đối với các vị Bồ
Tát khi đã vào được trong Kim Cang tam muội thì các Ngài được Ý
sanh Thân nghĩa là trong khi các Ngài thiền quán thấy có cõi
nước nào cần độ thì các Ngài vào trong tam muội dùng ý nguyện mà
sinh ra thân. Và thân mà các Ngài vào trong thế giới đó để độ
chúng sinh thì gọi là Ứng thân. Thí dụ Đức Phật Thích Ca là ứng
thân của Phật trong thế giới Ta bà này.
Có ba loại Ý Sanh
Thân:
1) Tam Muội Nhạo Ý
Sanh Thân: Khi đạt đến đây tức là tương đương với Bát Địa.
2) Giác Pháp Tự Tánh
Tánh Ý Sanh Thân: Từ Cửu Địa đến Đẳng Giác .
3) Chủng Loại Câu Sanh
Vô Hạnh Tác Ý Sanh Thân: Đây là từ Đẳng giác nhập vào địa vị
Diệu giác.
Quán Thế Âm Bồ Tát
huân văn huân tu Kim Cang Tam Muội Như Huyễn nên chỉ trong một
niệm có thể chứng ngộ Diệu giác. Mà 32 ứng thân tương đương với
Câu Sanh Vô Hạnh Tác Ý Sanh Thân. Đây cũng còn được gọi là phổ
môn thị hiện. Khi Bồ Tát phá được sắc uẩn, thọ uẩn và tưởng uẩn
thì có được cái dụng ứng thân để độ sanh không thể nghĩ bàn.
- Bạch Thế Tôn!
1. Nếu các Bồ Tát vào
Tam-ma-đề tiến tu pháp vô lậu, thắng giải viên mãn, tôi hiện
thân Phật vì họ mà thuyết pháp khiến cho được giải thoát.
Ngay cả Bồ Tát hàng
Thập Địa sắp thành ngôi Chánh Giác cũng phải nhờ Phật khác
thuyết pháp huân tập thêm tánh nghe để đoạn hết sanh tướng, vô
minh sau cùng. Do vậy Quán Thế Âm liền hiện thân Phật để nói
pháp mà đạt được thắng giải viên mãn tức là trí vô phân biệt căn
bản nhất cho người sắp thành Phật. Đây cũng là trí tuệ mà hàng
Đẳng giác chứng được từ quán hạnh. Nói cách khác nếu Bồ Tát tâm
của chúng sinh mà tu lên cao thì Quán Thế Âm Bồ Tát dùng cái tâm
Phật cao hơn một bực để nhắc nhở chúng sinh viên thành Phật đạo.
2. Nếu các hàng hữu
học tu pháp tịch tĩnh diệu minh viên mãn, tôi hiện thân Độc giác
vì họ mà thuyết pháp.
Bích Chi Phật có hai
loại: Một là sanh vào thời không có Phật, xét thấu sự vật biến
chuyển mà ngộ đạo. Đây là tự giác Vô Sanh hay gọi là Độc giác.
Hai là sanh vào thời có Phật, vâng theo giáo pháp của Phật, xét
thấu Nhân Duyên mà ngộ đạo thì gọi là Duyên giác. Họ dựa vào
pháp tu Tịch Tịnh Lặng Yên mà đắc,
nghĩa là họ đoạn dứt mười hai Nhân Duyên, tứ cái Vô Minh diệt
cho đến Khổ Não diệt. Duyên hết thì Chân Tánh hiện bày. Quán Thế
Âm Bồ Tát liền hiện thân Độc giác mà thuyết pháp cho họ nghe
khiến cho chứng nhập nên gọi là giải thoát.
3. Nếu các hàng hữu
học đoạn 12 nhân duyên, phát ra thẳng tánh viên mãn, tôi hiện
thân Duyên giác vì họ mà thuyết pháp.
Các vị Độc giác khi
nhìn thấy chiếc lá vàng rơi, thấy sự thay đổi vô thường của vạn
pháp mà sinh tâm khởi tu. Độc giác là tự ngộ hiện hữu trước mắt
còn Duyên giác là nương vào giáo quán 12 nhân duyên làm hai quán
môn lưu chuyển và hoàn diệt.
Vậy thế nào là 12 nhân
duyên?
Thuyết 12 nhân duyên
cũng còn được hiểu là thuyết sinh tử luân hồi tức là thuyết tái
sinh của chúng sinh.
Con người từ trong vô
thỉ chạy theo Vô Minh si mê tăm tối mà tạo ra những việc thiện,
ác tức là Hành (nghiệp) tích tụ trong Tàng thức. Do đó đời quá
khứ thì có Vô Minh sinh ra Hành để chuyển qua đời hiện tại. Vậy
nó chuyển như thế nào? Nếu chúng sinh còn tạo nghiệp cho dù là
thiện hay ác thì bắt buộc phải thọ báo vào đời hiện tại để thọ
nhận quả báo lành hay dữ. Khi con người chết đi của đời quá khứ
thì thân vật lý tan vở không còn, nhưng Thức (A lại da thức)
tiếp tục tồn tại dưới dạng thần thức trong Thân Trung Ấm (thân
tư tưởng chớ không có xác thịt). Do tập khí ái nhiễm nên thần
thức nhất định phải tìm một cảnh để yêu cho dù xa xôi ngàn dặm,
nhưng do chiêu cảm nên thấy rất gần cho nên thấy sáng thì sắc
phát hiện.
Khi chiêu cảm cảnh ái
ân, thần thức liền chạy đến chỗ đó và “tưởng” bắt đầu hình
thành. Ngay trong lúc nam nữ đang giao cấu thì “tưởng” trong
thân trung ấm phát hiện. Nếu thân trung ấm là nam thì ghét cha
thương mẹ, nếu thân trung ấm là nữ thì ghét mẹ thương cha. Đó là
“dị kiến thành ghét, đồng tưởng thành yêu” và thân trung ấm hấp
thụ dòng ái đó mà lưu vào thai mẹ rồi thành chủng tử thọ hình.
Khi đã thành chủng tử thọ hình nghĩa là có Danh Sắc tức là mới
tượng hình nhưng chưa đủ sáu căn. Do nghiệp ái làm nhân, cảnh ái
làm duyên mà ở trong thai cho đến 35 ngày thì lục căn mới đầy đủ
và có hình dáng của con người. Thời điểm này gọi là Lục Nhập
nghĩa là một cái bào thai tượng hình đã có đủ sáu căn. Khi đứa
bé ra đời thì nó biết cảm giác nóng, lạnh, mềm, cứng…
thì gọi là Xúc.
Dần theo thời gian đứa
bé biết cảm nhận buồn vui, thương ghét, phải quấy, tốt xấu … tức
là biết Thọ. Khi đến tuổi trưởng thành, tình yêu nam nữ phát
triển, biết thương, biết yêu, biết thích món này, chạy theo vật
nọ, mở tung cánh cửa cho tham đắm dục tình tức là Ái. Khi biết
thương yêu thì phải đến lúc dựng vợ gả chồng, xây nhà mua xe,
tạo dựng tài sản, sinh con đẻ cháu và bảo vệ những cái này thì
gọi là Thủ. Một khi có tài sản, có gia đình, có sự nghiệp, có
danh vọng thì con người luôn bám víu vào đó, không muốn buông ra
bởi vì nó là của “Ta” nên chết sống vì nó thì gọi là Hữu.
Con người cũng
vì mù quáng mà tin rằng thân họ là chắc thật, tài sản vật chất
họ có cũng là chắc thật, tiền tài danh vọng chung quanh họ cũng
là chắc thật nên càng bám chặt, ôm giữ vào lòng. Nhưng xét cho
cùng, trên thế gian đâu có cái gì là chắc thật, bền vững muôn
đời? Phật dạy vạn pháp giai không nghĩa là thế gian vũ trụ là
giả huyển vì không có cái gì có tự tánh nên nay có mai không,
không bền không chắc. Ngày nào mình còn là thanh niên tuấn tú mà
bây giờ lưng mỏi gối mềm, da nhăn má hóp, nhớ trước quên sau, ăn
không ngon ngủ không yên giấc. Vì vậy trong đời hiện tại chính
Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu là những động lực khiến con người tác tạo
thêm tội nghiệp để phải chịu tái Sinh cho đời sau để thọ nhận
cái vui cái buồn chính mình đã tạo dựng. Cuộc đời là vô thường,
sinh trụ dị diệt cho nên có sinh thì phải chịu già (Lão), chịu
bệnh và sau cùng là chết (Tử).
Tóm lại 12 nhân duyên
là Vô minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ,
Hữu, Sinh, Lão-Tử. Vô minh, Hành cho đời quá khứ. Thức, Danh
Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu là cho đời hiện tại. Sanh,
Lão-Tử cho đời tương lai. Do đó nếu con người có tái sinh, có
làm biết bao điều bất thiện cũng phát sinh từ vô minh tăm tối.
Vì thế các vị Duyên giác khi khởi tu thì họ đi ngược từ Lão-Tử
đến Vô minh và bắt đầu khởi trí dụng công trừ phá vô minh thì 11
thành phần nối tiếp tự nhiên bị tiêu diệt mà trở thành Bích Chi
Phật.
Ngài Quán Thế Âm hiện
thân Bích Chi Phật để tăng trưởng trí tuệ và khuyến khích họ
tiến tu mà hoàn thành Phật đạo.
4. Nếu các hàng hữu
học được pháp không của Tứ diệu đế, tu đạo đế, thể nhập diệt đế,
thắng tánh viên mãn, tôi hiện thân Thanh Văn vì họ mà thuyết
pháp.
Các vị Thanh Văn mà
chưa chứng quả A la hán thì gọi là hàng Hữu học. Khi chứng quả A
la hán thì gọi là Vô học. Những vị Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na
Hàm là những người Hữu học nên họ phải quán “pháp không” để lìa
xa ái dục. Tại sao? Vì trước khi xuất gia quy y theo Phật thì ai
ai cũng đều vướng vào “pháp có”. Pháp có là có cái gì? Có nhà
cửa, danh vọng, tiền bạc, vợ con, gia đình đã hành hạ họ nên họ
mới quyết tâm lánh bỏ. Do đó khi quán vạn pháp giai không làm họ
nhẹ nhàng buông bỏ những cái có là nguyên nhân của phiền não khổ
đau. Khi phá được Kiến hoặc, Tư hoặc thì họ trở thành A la hán,
tâm được an tịnh Niết bàn. Do vậy, chí nguyện phá trừ phiền não
chướng để có giải thoát cũng như là có Đức Quán Thế Âm hiện thân
thuyết pháp giúp họ mau chứng ngộ.
5. Nếu chúng sinh muốn tâm tỏ ngộ, không vướng vào ngũ dục, muốn
thân được thanh tịnh, tôi hiện thân Phạm Vương vì họ mà thuyết
pháp.
Nếu chúng sinh nhàm
chán thế giới này tức là dục giới là khổ, là phiền chướng mà ưa
thích cõi trời thanh tịnh thì Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân
thuyết pháp xuất nhập định tứ thiền, giúp họ ly dục mà sinh
thiên. Đây chính là hiện thân cõi trời sắc giới.
6. Nếu chúng sinh muốn
làm thiên chủ thống lãnh chư thiên, tôi hiện thân Đế Thích vì họ
mà thuyết pháp.
Trời Đế Thích cũng có
nhiều tên như là Thích Đề Hoàn Nhân, Kiều Thi Ca và cung trời
Đạo Lợi là ở trên đỉnh núi Tu Di, có bốn phía và mỗi phía có tám
cõi trời hợp lại thành 32 cỏi trời. Nếu cộng thêm cõi trời Đạo
Lợi thì vua trời Đế Thích cai quản tất cả 33 cõi trời.
Một hôm tôn giả Tu Bồ
Đề đang thuyết pháp, vua Đế Thích rải hoa xuống cúng dường. Tôn
giả hỏi :
- Hoa này có phải từ
trời? từ đất? hay từ người?
Đế Thích đáp :
- Không phải vậy!
Tu Bồ Đề hỏi :
- Vậy từ đâu mà có?
Đế Thích liền đưa tay
lên.
Tôn giả nói :
- À thì ra như vậy!
Ngày xưa Đức Thế Tôn
dùng ngọc Ma Ni chỉ bày cho vua trời ở năm phương. Mỗi vị nói là
xanh, vàng, đỏ, trắng. Thế Tôn đưa tay lên mà chỉ bày, thế mà
đều không thấy. Thế Tôn dạy rằng: “Ta lấy ngọc thật chỉ bày cho
các ông mà đều chẳng biết”. Vua trời ở năm phương liền đó mà ngộ
nhập. Vì thế mà Đế Thích đưa tay lên chứng tỏ Vua Trời Đế Thích
cũng tỏ hiểu thiền vậy. Đức Thế Tôn đưa tay lên là chỉ bày cái
tánh giác thường sáng tỏ của mỗi chúng sinh, đó là tánh thấy,
tánh nghe, tánh ngửi…
không có đối
đãi phân biệt xanh, đỏ, trắng, vàng.
Trên cõi trời Đạo Lợi
có vua Đế Thích quản trị tất cả 33 cỏi trời do đó nếu chúng sinh
muốn làm chủ các cõi trời thì Ngài Quán Thế Âm thị hiện thuyết
pháp thượng phẩm thượng thiện giúp họ thành tựu chí nguyện.
7. Nếu chúng sinh muốn
thân được tự tại dạo khắp mười phương, tôi hiện thân Tự Tại
Thiên vì họ mà thuyết pháp.
Tự Tại Thiên tức là
Trời Tha Hóa Tự Tại. Trên cõi trời Tha Hóa có ma Ba Tuần. Loại
ma này có nhiều phước đức nên được hưởng nhiều ngũ dục lạc. Họ
có thần thông, nhưng tâm không thiện nên thường quấy phá hay gây
những chướng ngại cho người tu hành cao.
Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa
hành hóa khắp nơi, độ cho không biết bao nhiêu người. Phước đức
quá to lớn chấn động cả cung ma khiến ma Ba Tuần lo sợ nên dùng
hết ma lực để phá trừ chánh pháp. Tôn giả nhập định, biết được
Ma Ba Tuần lén cầm chuỗi ngọc tròng vào cổ Ngài. Tôn giả xuất
định bèn lấy ba thây chết của người, chó và rắn hóa phép biến
thành tràng hoa. Khi gặp Ba Tuần, Ngài nói:
- Ông cho tôi chuỗi
ngọc, thật là đẹp quý. Tôi có tràng hoa để dâng đáp nhau.
Ba Tuần rất mừng đưa
cổ ra nhận bỗng nhiên tràng hoa biến thành ba thây chết có giòi,
bọ sình thối bò lúc nhúc. Ba Tuần cả sợ, ghê tởm, dùng hết thần
lực mà không bứt nổi tràng hoa nên bay thẳng lên cõi trời Lục
Dục cầu xin Phạm Vương cấp cứu.
Phạm Vương nói :
- Nếu ông hồi tâm với
Tôn giả thì có thể giải được.
Ba Tuần hỏi :
- Thế thì làm sao?
Phạm Vương bèn đọc cho
bài kệ:
“Đã do đất trợt té
Phải do đất đứng dậy
Lìa đất cầu đứng dậy
Làm gì có lý ấy?”
Ba Tuần nghe dạy rồi,
liền xuống khỏi cung trời, đảnh lễ dưới chân Tôn Giả, tha thiết
sám hối:
- Tôi thề hồi hướng
Phật đạo, vĩnh viễn dứt lìa điều ác.
Tràng hoa tức thì tan
biến, Thiên ma Ba Tuần vui vẻ làm lễ tôn giả mà nói bài kệ rằng
:
“Kính lạy Đấng Tam
Muội
Đệ tử Thánh Mười Lực
Tôi nay nguyện hồi
hướng
Chẳng còn sự yếu hèn”.
Do đó nếu chúng sinh
muốn thân được tự tại dạo khắp mười phương thì Quán Thế Âm Bồ
Tát hiện thân làm Trời Tha Hóa để thuyết pháp khiến cho họ được
toại nguyện.
8. Nếu chúng sinh muốn
thân được tự tại, bay đi trên hư không, tôi hiện thân Đại Tự Tại
Thiên vì họ mà thuyết pháp.
Trời Đại Tự Tại tức là
Ma Hê Thủ La Thiên có ba mắt tám tay, cỡi trâu trắng, cầm phất
trắng ở đỉnh cõi sắc nên bay đi trên hư không.
9. Nếu có chúng sinh
thích thống lãnh quỷ thần cứu quốc hộ dân, tôi hiện thân Thiên
Đại Tướng Quân, vì họ mà thuyết pháp.
10. Nếu có chúng sinh
thống lãnh quỷ thần, cứu giúp cõi nước, tôi hiện thân Thiên Đại
Tướng Quân vì họ mà thuyết pháp.
11. Nếu chúng sinh
muốn sinh ở thiên cung, tôi hiện thân Thái tử, con Thiên Tứ
Vương vì họ mà thuyết pháp.
Thiên Đại tướng quân
là thượng tướng của trời Đế Thích. Trong 32 cõi trời thì mỗi vị
Thiên Đại tướng quân thống lãnh quỷ thần bảo hộ tứ phương. Tứ
Thiên Vương là cõi trời đầu tiên của Dục giới. Bồ Tát hiện thân
giống vậy khiến cho họ được thành tựu rồi sau đó mới giúp họ
thoát ly.
12. Nếu các chúng sinh
muốn làm vua cõi người, tôi hiện thân Vua vì họ mà thuyết pháp.
Bồ tát hiện thân vua
cõi người. Mà vua chính là vãng tức là chỗ quay về, là nơi mọi
người đều quay về.
13. Nếu chúng sinh
muốn làm chủ gia đình danh tiếng, thế gian kính nhường, tôi hiện
thân Trưởng giả vì họ mà thuyết pháp.
Trưởng giả là những
người có địa vị cao cả, nhiều tiền lắm của, oai nghiêm đĩnh đạc,
trí tuệ cao thâm, tuổi thọ lâu dài, phẩm hạnh thanh cao, lễ nghi
chuẩn mực, trên được vua kính dưới được người nể phục.
14. Nếu các chúng sinh
thích luận lời hay, giữ mình trong sạch tôi hiện thân Cư sĩ vì
họ mà thuyết pháp.
Cư sĩ là những người
nghe rộng hiểu nhiều chẳng cầu quan tước, ẩn cư giữ chí liêm
khiết.
15. Nếu các chúng sinh
muốn kinh bang tế thế, tôi hiện thân Tể quan vì họ mà thuyết
pháp.
Tể quan là người chấp
chánh, trị việc an dân, phán xét xử lý mọi việc công minh liêm
chánh.
16. Nếu các chúng sinh
thích chú thuật toán số, thu nhiếp nhân tâm, tôi hiện thân Bà la
môn vì họ mà thuyết pháp.
Bà la môn là dòng cao
quý trong xã hội Ấn Độ. Họ thông suốt tất cả mọi thứ như chú
cấm, toán số, nghệ thuật, điều dưỡng.
17. Nếu các thiện nam
muốn xuất gia tu học, tôi hiện thân tỳ kheo vì họ mà thuyết
pháp.
18. Nếu có người tín
nữ muốn xuất gia, tôi hiện thân tỳ kheo ni vì họ mà thuyết pháp.
19. Nếu có người thiện
nam muốn giữ giới tu hành, tôi hiện thân ưu bà tắc vì họ mà
thuyết pháp.
20. Nếu có người tín
nữ, muốn thọ năm giới tập tu, tôi hiện thân ưu bà di vì họ mà
thuyết pháp.
21. Nếu có người nữ
thích đường chính trị phụ quốc an bang, tôi hiện thân là mệnh
phụ phu nhân, thân nữ chúa vì họ mà thuyết pháp.
22. Nếu chúng sinh nam
căn chưa ô nhiễm, tôi hiện thân là đồng nam vì họ mà thuyết
pháp.
Đồng nam là những
người con trai không dính mắc chuyện nam nữ, quyết tâm tu hành
từ lúc nhỏ.
23. Nếu có người nữ
thích thân xử nữ, tôi hiện thân là đồng nữ vì họ mà thuyết pháp.
24. Nếu có hàng chư
thiên muốn ra khỏi loài trời, tôi hiện thân chư Thiên vì họ mà
thuyết pháp.
25. Nếu có rồng muốn
ra khỏi loài rồng, tôi hiện thân rồng vì họ mà thuyết pháp.
26. Nếu có dạ xoa muốn
ra khỏi loài mình, tôi hiện thân dược xoa vì họ mà thuyết pháp.
27. Nếu có càn thát bà
muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân càn thát bà vì họ mà
thuyết pháp.
28. Nếu có A tu la
muốn ra khỏi loài mình, tôi hiện thân A tu la vì họ mà thuyết
pháp.
29. Nếu có khẩn na la
muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân khẩn na la vì họ mà
thuyết pháp.
30. Nếu có Ma hầu la
muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân ma hầu la vì họ mà
thuyết pháp.
31. Nếu có chúng sinh
thích làm người, tôi hiện thân người vì họ mà thuyết pháp.
32. Nếu có loài phi
nhân hoặc có hình hoặc không hình, hoặc có tưởng hoặc không
tưởng, muốn thoát khỏi loài mình, tôi hiện thân như họ vì họ mà
thuyết pháp.
Đó là 32 ứng thân
nhiệm mầu có thể hiện vào các cõi nước trong mười phương, do kết
quả của “Văn huân Văn tu tam muội” mà thành tựu sức nhiệm mầu
“vô tác” như vậy.
Phẩm Phổ Môn có câu:
“Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào
trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được vì do sức oai thần của Bồ Tát
này được như vậy”. Vậy khi thấy có căn nhà đang cháy lớn, quý vị
niệm Quán Thế Âm rồi chạy vào trong đó thì thân có bị cháy
không? Nếu thân bị cháy thành tro thì không lẽ lời Phật không
đúng? Lại còn một đoạn nữa: “Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh
hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát liền được chỗ cạn”. Vậy những người đi
biển, gặp sóng gió phong ba nếu họ niệm danh hiệu Bồ Tát thì tất
cả đều được bình yên? Nếu cầu Đức Quán Thế Âm mà cái gì cũng
được độ thì thế gian làm gì còn nghèo khổ, bệnh tật, tai nạn,
thiên tai, bảo lụt, động đất, chiến tranh, giết chóc…?
Lời Phật dạy không
sai, chỉ vì chúng sinh hiểu chưa thấu nên áp dụng sai lầm. Bởi
vì nếu hiểu theo “sự tướng” thì làm sao thành tựu được, chẳng
những không được mà còn rơi vào mê tín dị đoan trái với luật
nhân quả khách quan của nhà Phật. Nhưng thành tựu ở đây là Phật
nói về Lý Tánh. Lối tu của Ngài Quán Thế Âm là “phản văn văn tự
tánh” nghĩa là xoay lại tánh nghe của mình. Mà tánh nghe là cái
thể chân thật của mỗi người, không có hình dáng, tướng mạo. Nếu
đã không có hình dáng tướng mạo thì lửa làm sao đốt hay nước nào
nhận chìm được. Vì vậy niệm Quán Thế Âm tức là lắng nghe tánh
nghe của chính mình mà quay về với chơn tâm thường trú và thể
tánh tịnh minh thì mọi chướng nạn của lửa, nước đều qua khỏi.
Kinh dạy rằng Ngài Bồ
Tát Quán Thế Âm hiện 32 ứng thân để vào các cõi mà thuyết pháp
cho chúng sinh tùy theo sở cầu của họ. Khi chúng sinh biết xoay
tánh nghe vào trong để nghe lắng tiếng nói DIỆU ÂM thanh tịnh
của tâm mình thì họ đạt được sự thanh tịnh và chính vào thời
điểm ấy Đức Quán Thế Âm thị hiện. Nhưng Đức Quán Thế Âm thị hiện
theo thâm ý của kinh không phải bằng 32 hình tướng hữu hình hữu
sắc mà Ngài ứng hiện trong bản tâm của 32 hình tướng đó để giúp
chúng sinh hoàn thành những ước vọng của mình. Khi nói Đức Quán
Thế Âm thị hiện là sự phát khởi từ nơi bản tâm của chúng sinh
chớ Ngài thật sự không thị hiện trên cõi đời này.
Vì thế từ những bậc
thượng căn phát tâm tu hành cầu thành Phật quả cho đến những kẻ
hạ trí, nhơn và phi nhơn đều có khả năng quán niệm về âm văn để
tự mình có được an vui tự tại. Do đó nếu muốn đi trên con đường
giải thoát giác ngộ, muốn chuyển hóa mình trên đường tu tập thì
trong họ đã có tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát tương ứng với tâm
niệm của họ rồi. Nói rộng ra tâm niệm chúng sinh là vô lượng vô
biên chớ đâu nhất thiết chỉ có 32. Thí dụ ngày xưa chưa biết đạo
thì còn đi săn bắn, câu cá làm trò tiêu khiển. Bây giờ hiểu đạo
biết đó là nghiệp sát sanh nên phát sinh tâm niệm lành nên không
còn tâm săn bắn sát hại. Thế thì ý niệm đó tức là Quán Thế Âm Bồ
Tát coi như đã hiện thân trong thân người đó để độ cho người đó
rồi. Tại sao?
Bởi vì không sát sinh
thì tâm yên tịnh, không lo lắng, khỏi lo vay trả, trả vay nợ
thân mạng cho đời sau nên có cuộc sống nhẹ nhàng thoải mái tức
là Bồ Tát đã độ rồi. Một thí dụ khác là người Phật tử thường thọ
ngũ giới, nhưng phần lớn chỉ thọ trên hình thức chớ ít khi thực
hành rốt ráo. Bây giờ thức tỉnh nên xa lìa trộm cắp, tà dâm, dối
trá, giết người, say rượu. Khi biết giữ gìn không cho sai phạm
nghĩa là chính mình tự lắng nghe lòng mình để quán bằng cái trí
mà soi xét những hành động, lời nói của mình cho đúng với đạo
lý. Tiếng nói của chí thiện chính là Quán Thế Âm Bồ Tát đã hiện
vào trong ta để nói pháp cho mình rồi đó. Cao hơn nữa thì nếu
chúng sinh nguyện tu theo thập thiện thì phải tự kiểm điểm lại
mình để soi xét mình có tái phạm điều nào chăng. Đây chính là
Quán Thế Âm đã hiện thân vào trong họ để nói pháp độ cho họ rồi.
Cứ thế mà áp dụng cho các vị trong hàng Thanh Văn, Duyên Giác và
sau cùng chư Bồ Tát cho đến khi tất cả cùng đạt thành ý nguyện.
33. Vậy Quán Thế Âm là nghe tiếng lòng của mình tự nói cho mình
để thanh lọc bỏ đi những niệm bất thiện và thực hành nghe theo
niệm thiện cho nên tuy nói Ngài hiện 32 ứng thân mà khỏi cần
khởi tâm động niệm tức là không tác ý mà chỉ dùng sức vô tác (Vô
tác diệu lực) nghĩa là bằng sức mầu nhiệm “không có làm”. Không
tác ý tức là Bát Nhã nghĩa là trí tuệ. Thông thường trí tuệ của
thế gian phải có tác ý của bộ óc, nhưng ở đây trí tuệ của Ngài
Quán Thế Âm khỏi cần tác ý bởi vì nó vốn như vậy, như hư không
chẳng động. Tuy nói hiện thân, nhưng thật ra chẳng dụng công,
hóa phép, hóa hiện ra thân. Tuy nói thuyết pháp kỳ thật chẳng
tốn một tí hơi và chẳng có một âm thanh nào vang dội. Do đó,
Quán Thế Âm hiện thân bằng chính bản thân của mọi người và Ngài
thuyết pháp bằng chính âm thanh thanh tịnh trong tâm trong sáng
của mọi người nếu họ biết sử dụng tánh nghe của họ một
cách rốt ráo.
Vì vậy tu pháp quán
hiện Quán Thế Âm là một phương pháp thực hành thiền định. Thiền
định ở đây là thường tư duy, soi chiếu vào tâm mà lắng nghe
tiếng nói thanh tịnh của lòng mình để điều chỉnh hoàn mãn thân
khẩu ý của mình. Vì thế không có vấn đề van xin cầu nguyện trong
pháp tu này. Không riêng gì pháp tu Quán Thế Âm phản văn văn tự
tánh mà ngay cả pháp tu Đại Thế Chí niệm Phật viên thông thì sự
thành tựu hay không đều do khả năng tự lực của mình chớ không do
bất cứ tha lực nào.
Ngày xưa ở Trung Hoa
có vị Thiền sư rất nổi tiếng tên là Tỉnh Công nhằm lúc gặp một
vị tôn túc Trưởng lão với mấy lời khuyên là :
- Ngày nào đó khi ông
ra hoằng hóa, dưới tòa tuy có đến 1,000 tăng chúng, nhưng không
có kẻ nào là bậc (chân chánh) tu hành cả.
Quả nhiên, Ngài Tỉnh
Công về trụ trì ở một ngôi chùa rất lớn, tăng chúng quy tụ về tu
có đến ngàn người. Nhưng chỉ toàn là hạng tụng kinh để gieo căn
lành, phước báu ở tương lai chớ không có vị nào tham thiền ngộ
đạo được.
Tại sao trong chùa có
trên 1000,
vị tăng mà vị
Trưởng lão kia lại nói “không có kẻ nào là bậc xuất gia”?.
Xuất gia dựa theo tinh
thần Phật giáo là phải :
- Xuất ra khỏi nhà tam
giới tức là giải thoát ra khỏi dục giới, sắc giới và vô sắc giới
nghĩa là không còn tham, không còn sân, không còn si, không còn
sống với ảo tưởng hoang đường.
- Ra khỏi nhà vô minh
tăm tối tức là có trí tuệ viên mãn.
Hoặc ít ra cũng :
- Ra khỏi nhà phiền
não thế tục.
Chớ không phải vào
chùa cạo đầu, mặc áo cà sa là đủ.
Vì thế đạo Phật chú
trọng vào thực hành, thiền quán, tư duy tĩnh lự để khai tâm mở
tánh và sau cùng nghiệm chứng được chân lý huyền diệu nhiệm mầu
cho nên ngày xưa Đức Phật và tất cả đệ tử của Ngài mỗi người ở
mỗi nơi yên tĩnh để tịnh tâm mà không hề tụng kinh gõ mõ. Tại
sao lại không tụng kinh? Bởi vì tụng kinh gõ mõ là tâm còn duyên
theo âm thanh sắc tướng tức là tâm còn vọng ngoại thì không đạt
được trạng thái yên tĩnh, vắng lặng nên khó mà có định được.
DO BI TÂM BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM THÀNH TỰU 14 ĐỨC VÔ ÚY
- Bạch Thế Tôn! Do vô
tác diệu lực VĂN HUÂN VĂN TU Kim Cang tam muội cho nên tôi và
tất cả lục đạo chúng sinh trong mười phương ba đời cùng có một
bi tâm hướng thượng cho nên tôi và tất cả chúng sinh thành tựu
được 14 thứ công đức vô úy
Khi hành giả quán đến
chỗ Vô tác diệu lực nghĩa là lắng nghe âm thanh, tiếng lòng
thanh tịnh của mình đến trình độ không cần loại bỏ những tâm
niệm xấu ác nữa mà tự nó đã xóa sạch hết những điều xấu ác, bất
thiện. Lúc đầu trong tâm còn có sự phân biệt thiện ác nên hành
giả loại bỏ những ý niệm ác và chỉ giữ lại những tâm niệm lành.
Mà còn loại cái này lấy cái kia tức là còn dụng công, tác ý. Bây
giờ hành giả thường tu tập, thường quán niệm thì trong tâm phần
ác niệm biến mất cho nên cũng lắng nghe tiếng lòng mầu nhiệm của
mình nhưng nó trở thành rất thanh tịnh.
Hành giả không còn
quan tâm loại bỏ những tư tưởng thuộc về “ý ác, nói ác, làm ác”
và cũng không còn nắm giữ những “ý thiện, nói thiện, làm thiện”
nữa mà tự nó trong sáng thanh tịnh tức là đã thiện rồi. Khi đạt
đến trình độ này thì gọi là Vô tác diệu lực. Thí dụ, em bé vừa
mới học đi nên sợ té cho nên tay nắm bên này bên kia, rất cực
khổ. Đến khi biết đi thì cứ thong dong tiến bước mà không lo
nghĩ té ngã chi hết thì đây là vô tác diệu lực. Người tu cũng
thế. Khi tâm còn phân biệt thiện ác nên lúc nào cũng canh phòng
cẩn mật, cố làm việc thiện, lánh xa việc dữ nên cuộc sống rất
khó khăn, không tự tại. Bây giờ nếu tâm đã sáng suốt thanh tịnh
thì tất cả đều thiện tức là có tư tưởng lành, lời nói thiện,
hành động tốt mà không cần đề phòng cẩn mật chi hết.
Vô tác diệu lực Văn
huân Văn tu là nghe âm thanh của nội tâm mình rồi tư duy và quán
niệm. Cho nên tam muội của Bồ Tát chính là Nghiệp dụng của chúng
sinh và bi ngưỡng của chúng sinh chính là bi ngưỡng của Bồ Tát.
Vì thế mà Bồ Tát có thể khiến cho tất cả chúng sinh có được 14
món công đức vô úy để chúng sinh xa lìa những khổ nạn mà không
cần tác ý gì cả.
1) Tôi không quán âm
thanh đối tượng mà tôi quán cái tâm năng quán của mình, khiến
cho chúng sinh khổ não trong mười phương quán âm thanh như vậy
thì được giải thoát.
Quán âm thanh đối
tượng bên ngoài thì âm thanh này không phải là diệu âm. Chỉ có
âm thanh phát xuất từ tấm lòng của chính mình thì mới là diệu
âm. Diệu âm tức là Quán Thế Âm, là Hải Triều Âm là tiếng Pháp tự
nói trong lòng của mình. Chúng sinh tự nghe rồi huân tập mà tu
lấy để sửa lại cho tâm được thanh tịnh. Tránh điều ác nghĩ điều
lành cho đến khi không còn tránh ác phục thiện thì đạt được vô
tác diệu lực tức là tự nó có thanh tịnh nghĩa là có giải thoát.
Ngày nay có rất nhiều người nghĩ rằng bây giờ cố gắng tu hành để
kiếp sau được vãng sanh sang thế giới này hay thế giới nọ. Thật
ra vãng sanh là chuyển sang đời sống không còn bị khổ đau quấy
phá tức là có được an lạc. Thí dụ hiện tại mình đang bị tham đắm
dục tình hành hạ làm cho ưu bi phiền não luôn dấy khởi.
Bây giờ hiểu đạo,
không chạy theo tham sân si thì phiền não tiêu trừ, thân tâm
được an ổn nghĩa là mình đã chuyển sang một cuộc sống tốt hơn,
nhẹ nhàng thanh tịnh hơn tức là mình đã được vãng sanh rồi. Kiếp
này mình có an lạc thì chắc chắn kiếp sau cũng tiếp tục có an
lạc. Còn kiếp này sống trong điên đảo, mê lầm chấp trước thì làm
sao kiếp sao có được an lạc? Nhân không tốt thì quả làm sao lành
được? Do đó con người ngay bây giờ phải tạo điều kiện cho mình
được vãng sanh cực lạc ngay trong cái thế giới có ăn, có ngủ, có
đứng, có ngồi này chớ đừng mơ tưởng ảo huyền trông chờ mong đợi
vào cõi nào mà không chịu lo tu sửa.
2.Tôi xoay tri kiến
của mình soi rọi nội tâm, khiến chúng sinh dù vào trong lửa mà
lửa không đốt cháy.
Xoay tri kiến của mình
soi rọi nội tâm có nghĩa là lắng nghe tiếng lòng thanh tịnh mầu
nhiệm của mình. Khi đã nghe được tiếng nói thanh tịnh của lòng
mình thì những vẩn đục như tham, sân, si biến mất do đó lửa dâm,
lửa sân, lửa tham đắm si mê, lửa hận thù không thể nào đốt cháy
được. Con người hằng ngày vì chạy theo tham đắm dục tình, làm nô
lệ cho tư kỷ cá nhân nên mới bị lửa vô minh đốt cháy. Ngược lại
người có tâm thanh tịnh tức là họ đang sống với tánh giác hằng
sáng của họ thì lửa vô minh bị dập tắt và lửa tham, lửa sân, lửa
si cũng tiêu tan, biến mất. Cho nên họ có vào trong lửa mà không
bị đốt cháy nghĩa là tuy sống trong chốn bụi trần mà không hề bị
đắm nhiễm.
Vì thế người nào đang
giận hờn ai, nghĩa là lửa sân đang ầm ỉ tự đốt cháy lòng mình.
Thấy nhà đẹp cao sang, xe bóng lộn mắc tiền liền khởi tâm tham
đắm tức là lửa tham đang bừng cháy trong tâm của ta rồi. Thế
gian là giả tạm mà thấy cái gì cũng mê cũng thích cũng muốn
chiếm hữu tức là lửa si đang bừng cháy trong lòng của ta đó.
Kinh điển Đại thừa dạy về Lý Tánh cho nên đừng hiểu cạn cợt về
Sự Tướng mà áp dụng sai lầm cho nên nếu thấy nhà đang cháy, tiếc
của nên niệm Quán Thế Âm rồi chạy vào trong đó thì chắc chắn quý
vị sẽ cháy thành tro. Vì vậy người đệ tử Phật phải sáng suốt
biết rằng “lửa” trong kinh là ám chỉ cho “lửa lòng” tức là lửa
tham, lửa sân, lửa si, lửa vô minh, lửa phiền não chớ không phải
lửa lò, lửa than, lửa nhà cháy.
3.Tôi quán tánh nghe
xoay vào nội tâm, khiến chúng sinh dù có bị nước to cuốn đi mà
không hề bị chìm đắm.
Nếu biết xoay tánh
nghe vào nội tâm để lắng nghe tiếng nói thanh tịnh của tâm mình
tức là mình làm chủ được mình thì những chướng ngại như nước ái,
nước nhẹ dạ yếu lòng, nước yêu thương mù quáng làm sao cuốn ta
theo được. Nói cách khác con người biết tự chủ tức là sống với
trí tuệ hằng sáng của mình thì có thể san bằng tất cả mọi chướng
ngại. Ngược lại nếu sống theo tình cảm yếu đuối thì bị dòng nước
thế gian cuốn đi, chìm đắm trong biển ái sông mê. Do đó Phật
pháp giúp chúng sinh hóa giải dần dần những mê chấp, xa lìa tình
cảm chủ quan yếu đuối sai lầm mà bồi dưỡng và sống với trí tuệ
khách quan. Cuộc đổi đời năm 1975 lúc làn sóng người tỵ nạn Việt
Nam trên những chiếc thuyền đánh cá nhỏ nhấp nhô lênh đênh bồng
bềnh trên mặt biển và có những câu chuyện nói về Đức Quán Thế Âm
Bồ Tát hiện ra để cứu vớt một vài chiếc thuyền khỏi bị đắm chìm.
Đây quả thật là chuyện
nhiệm mầu làm tăng trưởng niềm tin nơi Phật pháp. Bởi vì Quán
Thế Âm là biểu tượng cho lòng đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn cho
tất cả chúng sinh và cái Tâm đại từ đại bi của Bồ Tát thật ra
không hề có phân biệt, rất bình đẳng. Vì thế khi có chúng sinh
gặp nạn thì Ngài phải cứu cho dù người đó có niệm danh hiệu Ngài
hay không. Thế thì tại sao có hàng ngàn chiếc tàu đánh cá gặp
nạn trên biển Thái Bình Dương mà Bồ Tát chỉ cứu một vài chiếc và
để cho biết bao chiếc tàu khác chìm sâu dưới lòng đại dương? Nếu
niệm Đức Quán Thế Âm để được độ thì Ngài phải độ cho tất cả
những chiếc thuyền và đưa họ vào bờ bình an, không để cho một
chiếc nào bị sóng đánh tan cả.
Nhưng trên thực tế vô
số chiếc tàu niệm Quán Thế Âm mà vẫn bị chết chìm. Theo thống kê
của Liên Hiệp Quốc thì có trên 50% người vượt biên bằng đường
biển không đến được bờ tự do. Vậy không lẽ Bồ Tát lại thương
người này bỏ người kia? Quán Thế Âm là vị Đẳng Giác Bồ Tát sắp
thành Phật mà lại có tâm phân biệt hay sao? Lời Phật dạy là chân
lý, không bao giờ sai cả chỉ vì chúng sinh hiểu không thấu đáo
chỉ nhìn theo tướng trạng bên ngoài mà áp dụng sai lầm nên dễ
rơi vào mê tín dị đoan trái với luật nhân quả khách quan của nhà
Phật. Tin tưởng sai lầm còn tệ hại hơn là không tin tưởng gì
hết.
Quán Thế Âm là phương
pháp quán niệm để tu mà có giải thoát giác ngộ chớ không phải
Quán Thế Âm là người đi làm công tác từ thiện nên không có việc
thương người này bỏ người kia. Vì thế chúng sinh tuy có niệm
Quán Thế Âm mà không chịu soi chiếu để lắng nghe tiếng nói thanh
tịnh của tâm mình thì những tâm niệm kia chỉ là biểu tượng của
lòng mong cầu tức là tâm vẫn còn tham thì không có kết quả chi
hết. Nói cách khác khi nói niệm Đức Quán Thế Âm phải được hiểu
là xoay cái nghe từ bên ngoài mà hướng về tánh nghe vốn thanh
tịnh trong sáng sẵn có của mình thì tất cả những phiền não, khổ
đau sẽ tan biến.
Do đó nếu thật sự Ngài
Quán Thế Âm có độ thì hễ chúng sinh cần độ thì Ngài độ ngay,
thậm chí cả những người không niệm, Ngài vẫn độ, tức là Ngài
không để cho chiếc thuyền nào bị đắm chìm cả. Không lẽ Bồ Tát
thấy hàng trăm, hàng vạn người sắp chết mà không cứu? Vậy lúc
những người sắp chết đuối Bồ Tát ở đâu? Đức Quán Thế Âm có thiên
thủ thiên nhãn thì không lẽ Ngài không nghe được những lời cầu
cứu ưu bi đó hay sao? Đến đây có người thắc mắc rằng rõ ràng có
những chiếc thuyền được cứu thì Ngài không độ là gì? Đức Phật
Thích Ca không phải là đấng thần linh cho nên chữ “độ” trong đạo
Phật phải được hiểu là những phương pháp tu hành rốt ráo để giúp
chúng sinh thoát khỏi khổ ách, có giải thoát giác ngộ, có thanh
tịnh Niết bàn. Vì thế pháp tu phản văn văn tự tánh của Ngài Quán
Thế Âm cũng thế, không sai khác.
Đạo Phật không dạy
chúng sinh tin vào độ mà chỉ dạy chúng sinh tin sâu vào nhân
quả. Tất cả những khổ vui, sống chết trong đời này của mình là
những kết quả mà chính mình đã tác tạo trong những đời quá khứ.
Nếu ngày xưa mình ra tay cứu giúp người gặp hoạn nạn thì khi
mình đối diện với tai họa thì có kẻ khác giúp trả lại cho nên
khi thuyền mình lênh đênh sắp chìm thì nhân duyên quả báo xui
khiến gặp những thuyền lớn cứu vớt cho. Mình bố thí thì mai sau
được giàu sang. Mình lo lắng, chăm sóc người già, bệnh tật thì
mai sau mình sống khỏe, sống lâu. Mình thương người thì được
người yêu, người mến. Ngược lại nếu hại người thì bị người hại
lại. Chửi người thì bị người mắng nhiếc lại. Giết người thì kiếp
này hay kiếp sau bị người sát hại lại. Tuy con người có quan
niệm khác nhau về sự thưởng phạt của thiện ác, nhưng Luật Nghiệp
Báo thì lúc nào cũng đại diện cho sự công bình tuyệt đối vì đó
là sự thưởng phạt công minh, chắc chắn và hợp lý.
Nói tóm lại, Phẩm Phổ
Môn trong kinh Pháp Hoa và Chương Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông
trong kinh Lăng Nghiêm này đã có biết bao nhiêu người hiểu một
cách sai lầm, làm cho Đức Quán Thế Âm trở thành một đấng siêu
hình thiêng liêng thậm chí làm những công tác từ thiện nhỏ mọn
mà một vị Đẳng giác Bồ Tát sắp thành Phật như Ngài không bao giờ
làm những việc như vậy.
4.Tôi đoạn diệt hết
vọng tưởng, không còn tâm sát hại, khiến chúng sinh dù phải vào
trong cõi nước của quỷ, quỷ cũng không hại được.
Niệm Quán Thế Âm nghĩa
là lắng nghe tiếng nói đạo đức, thuần lương của lòng mình thì
tâm sát hại không còn cho nên họ có vào trong cõi nước của quỷ
sát, quỷ đạo, quỷ dâm, quỷ vọng thì những loài quỷ kia cũng
không sát hại họ được. Nói cách khác, khi đã đoạn hết ác tâm thì
những nguyên nhân của sát, đạo, dâm, vọng cũng biến theo, không
dấy khởi nên con người sống rất thanh tịnh, nhẹ nhàng. Quỷ ở đây
là quỷ ở trong tâm nên mới đáng sợ bởi vì nó khiến con người hút
máu, giết người, làm điều dâm dục, trộm cướp, nói lời gươm đao,
thấy ác làm ác chẳng những nó giết đời này của ta mà còn giết
biết bao nhiêu đời nữa.
Khi nói về cõi nước
của quỷ và địa ngục A tỳ thì phải nói đến kinh Địa Tạng. Thông
thường, chúng sinh thường tin có một vị Bồ Tát tên Địa Tạng tay
phải cầm cây tích trượng, tay trái một hạt minh châu. Ngài xuống
địa ngục lấy tích trượng đập phá cửa địa ngục để cứu vớt chúng
sinh nếu chúng sinh chí thành niệm danh hiệu Ngài. Vì thế Ngài
là giáo chủ cõi u minh địa ngục. Người học Phật có nên tin tưởng
một cách quá thực thà như thế không? Vậy ý nghĩa của kinh là gì?
Kinh Địa Tạng là viết
tắt của “U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”. Bổn
là bản tâm (bổn tâm) của chúng sinh. Tôn là tôn quý. Địa là tâm
địa và Tạng là Như Lai Tạng. Vì thế chỉ có bản tâm mới là cao
quý nhất, nó là kho Như Lai Tạng tâm địa và chỉ có bản tâm (chơn
tâm) mới làm chủ được cõi u minh tăm tối tức là làm chủ được cõi
địa ngục tham-sân-si của chính mình. Con người vì chạy theo sắc
tài danh lợi, tham đắm dục tình, bị tham-sân-si sai sử nên tự
đày mình vào cõi địa ngục tham-sân-si mà chịu cảnh khổ.
Vậy làm sao đập phá
được địa ngục tham-sân-si? Chỉ có bản tâm thanh tịnh tức là chơn
tâm, Phật tánh của chính mình mới hóa giải, đập phá được cái địa
ngục u ám này. Nhưng con người vì bị màn vô minh dày che lấp nên
luôn tìm tâm (Phật) ở bên ngoài nên cả đời vẫn đeo mang cái khổ
cho nên cái tôn quý nhất, quan trọng nhất là phải quay về (đáo
bỉ ngạn) để nhận ra Bổn Tôn Địa Tạng tức là tự tánh Như Lai Tạng
nghĩa là cái chơn tâm, Phật tánh sáng suốt thường có trong ta
thì chính mình mới có thể đập phá được địa ngục tham-sân-si và
cứu giúp chúng sinh muôn loài.
Địa Tạng Bồ Tát tay
mặt cầm cây tích trượng có bốn cái vòng và mười hai cái khuy là
biểu tượng cho Chân lý Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên. Tích
trượng là ám chỉ cho ý chí kiên cường, đại hùng đại lực để đập
phá mở tung cánh cửa u minh hắc ám của tự tâm. Còn hạt minh châu
lóng lánh tức là hòn ngọc như ý tượng trưng cho bản tâm thanh
tịnh và một khi chúng sinh sống với chơn tâm của mình thì ánh
sáng trí tuệ trong tự tâm bừng sáng soi chiếu khắp cùng. Vì vậy
nếu chúng sinh dựa theo Chân lý Tứ Diệu Đế hay Thập Nhị Nhân
Duyên để tu thì sẽ có tâm thanh tịnh và chính cái bản tâm diệu
giác này sẽ giúp con người đủ sức đập tan địa ngục tham-sân-si
trong tâm của mình mà có thanh tịnh giải thoát giác ngộ.
Kinh điển Phật giáo
Đại thừa là quyền giáo (phương tiện, ẩn dụ) chớ không phải là
thật giáo cho nên người đệ tử Phật đừng chấp vào lời kinh mà
phải dùng lý để hiểu. Đó là “văn dĩ tải đạo” tức là “được ý quên
lời” nghĩa là chỉ nương theo ngón tay mà thấy mặt trăng chớ đừng
chấp ngón tay là mặt trăng thì mới cảm nhận được lẽ huyền diệu
của kinh mà không rơi vào tà kiến. Thí dụ là người đệ tử Phật,
chúng sinh tắm mình trong ánh hào quang của Phật. Hào quang ở
đây phải được hiểu chính là trí tuệ Phật tâm, Phật tánh sẵn có
trong tất cả mọi người.
Tâm chúng sinh và chư
Phật cùng đồng một bản thể Phật tánh như nhau, không sai khác
cho nên Địa Tạng tức là bản tâm của chính mình thì cái tâm này
bình đẳng với Phật, Bồ Tát vì thế nếu ngộ được chơn tâm của
chính mình thì chư Phật mười phương kính ngưỡng là như vậy.
Tóm lại trên thế gian
này dựa theo tinh phần Phật giáo, không có cõi địa ngục thật và
dĩ nhiên không có vị nào là Địa Tạng Bồ Tát cả. Địa ngục là biểu
tượng của tham-sân-si phiền não, là sự tối tăm ám chướng mê muội
trong tâm thức của mỗi chúng sinh. Đó chính là địa ngục tự tâm.
Còn Địa Tạng Bồ Tát chính là bản tâm thanh tịnh tức là chơn tâm,
Phật tánh thiêng liêng huyền diệu vốn có sẵn trong tâm của tất
cả mọi người. Vì thế Phật đưa ra phương tiện Tứ Diệu Đế, Thập
Nhị Nhân Duyên để giúp chúng sinh nương theo đó mà thấy được
chơn tâm của chính mình thì tự mình đập phá được cửa địa ngục,
giải thoát ra khỏi cảnh u ám tham-sân-si mà sống trong thanh
nhàn, an vui tự tại Niết bàn.
Tóm lại, người đệ tử
Phật đừng hiểu kinh điển Đại thừa một cách thật thà mà chấp có
một Bồ Tát thật, một cõi địa ngục thật nên một lòng cầu Bồ Tát,
Phật và chờ đến lúc chết sẽ có các Ngài đến cứu thì cũng như
chấp ngón tay là mặt trăng rồi tin tưởng mù quáng vào tha lực mà
đi ngược lại với giáo lý nhân quả. Không có việc “một người ăn
mà người khác được no” mà phải là “ai ăn người nấy no, ai uống
người đó hết khác”.
Vì niềm tin dân gian
nên đến đây có người vẫn còn tin rằng chắc có địa ngục thật hay
có một vị Bồ Tát thật tên là Địa Tạng, chúng tôi trích đăng
nguyên văn lời giới thiệu của thầy Viên Pháp về kinh Địa Tạng
Mật Nghĩa do Cụ Chánh Trí Mai Trọ Truyền thuyết giảng tại chùa
Xá Lợi năm 1957 để quý vị tư duy thẩm chiếu. Quý Phật tử có thể
đọc toàn bộ kinh Địa Tạng Mật Nghĩa này trong trang nhà:
www.thuvienhoasen.org vào phần kinh điển giảng giải.
ĐỊA TẠNG MẬT NGHĨA
Chánh Trí Mai Thọ Truyền
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964
Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái
Xuất Bản 1985
Thay Lời Tựa
Tôi Đi Nghe Giảng Kinh
Địa-Tạng
Thể theo sự đòi hỏi
của một số đông giáo-hữu, Hội Phật-Học Nam-Việt tổ chức, vào mỗi
buổi chiều thứ bảy, từ 8g30 tối, một khóa giảng Kinh.
Thứ bảy tuần rồi,
9-11-1957, Đạo-hữu Chánh-Trí đã mở đầu khóa giảng với bộ Kinh
Địa-Tạng, trước trên ba trăm thính giả, phần đông là học thức,
của đủ các hạng tuổi.
Dưới đây, xin ghi lại
những điều nghe thấy và cảm tưởng của chúng tôi đối với buổi
giảng đầu tiên.
Viên-Pháp
Trước hết, xin nói
ngay là buổi giảng rất hào hứng và linh động, làm cho đa số
trí-thức thính giả mắt sáng lên, lòng đầy hoan hỷ, ngồi nghe
trót hai giờ đồng hồ mà không biết chán mỏi, vì sung sướng thấy
bao thắc mắc, nghi ngờ của mình về vấn đề địa ngục, Địa-Tạng,
được giải thích rành mạch.
Về Địa ngục, thường
chúng tôi thấy có hai thái độ khác nhau trong hàng Phật-từ:
- Một đàng thì tin có
địa ngục, nhưng tin một cách mù mờ, sai lạc, vì thế không dứt
đặng nhân địa ngục, để khỏi cái quả địa ngục, cho nên không bao
giờ thoát ly đặng cái khổ địa ngục.
- Một đàng thì phân
vân bất quyết, không biết phải tin hay không, vì vậy trong
trí-quán không có gì dứt khoát và trong hạnh tu không có gì nhứt
định.
Đối với Địa-Tạng
Bồ-Tát cũng có hai luồn tư tưởng khác nhau:
- Một hạng tin rằng đã
có ngài Địa-Tạng phát nguyện cứu độ tội vong ra khỏi U-minh địa-
ngục, thì ta cứ "làm ăn" như ai, rũi ro có bề nào sẽ có ngài đùm
bọc. Ngài lại còn nguyện "Địa ngục chưa trống không, ta quyết
không thành Phật", thì dầu ta còn phải đọa địa-ngục lâu xa thế
mấy đi nữa, cũng còn có ngài cứu thoát, không đến nỗi nào mà sợ.
Hạng này còn tin đức
Địa-Tạng có quyền lực dẫn vong vào cảnh Tây-phương tự tại, vô
ngại. Hễ có ngài dẫn, thì không có một quỉ sứ nào dám bắt đem
nạp cho Diêm-vương phán xét. Hơn nữa, ngài lại còn có quyền lực
phá ngục thả tội mà chẳn có ông Diêm-vương nào dám cản trở. Do
những tin tưởng này, mới có việc mướn làm chay với cảnh thầy cả
đội lốt Địa-Tạng phá ngục giải phóng tội vong. Ôi thôi! Kể sao
cho xiết những quan niệm sai lầm như thế về Bồ-tát Địa-Tạng và
về quyền năng của ngài! Ròng rã là những sự tin tưởng thần
quyền, ỷ lại tha lực, làm hoen ố Phật giáo nước nhà!
- Một hạng khác lại
suy nghĩ: không lẽ lại có một ông Bồ-tát "cải Trời" cho đến bỏ
luật nhơn quả, làm vì cảm tình với người sống mà làm việc bất
công là thả tội hộ vong. Vì suy nghĩ như thế, họ mất lòng chánh
tín đối với vị Bổn-tôn Bồ-tát và thối bộ, không bước được vào
cửa Phật tu hành, để thâu hoạch lợi ích cho mình. Thật đáng phàn
nàn cho hạng này, vì họ là bậc có trí, biết suy nghĩ và có đạo
tâm, chỉ vì không ai chỉ bảo thành ra hiểu lầm, nghi sái.
Nay đạo-hữu Chánh-Trí
đem kinh Địa-Tạng ra giảng, lại dám trình bày bạo dạn và vạch rõ
phân minh những chổ bí ẩn trong kinh, để phô bày cái bí nghĩa
chân thực, hiển phát cái chân lý Đại thừa, thật đạo hữu đã giúp
ích rất nhiều cho những ai chưa thấu triệt. Có vạch rõ như thế
những ẩn ý của Phật, mới lìa đặng ngón tay mà thấy đặng mặt
trăng, không thì cứ ôm dính ba cái chữ, rồi tối vẫn hoàn tối.
Diễn-giả đã theo đường
lối nào để đưa thính giả tới chổ diễn-giả muốn dắt đến?
Vô đầu, đạo-hữu
Chánh-Trí thanh minh rằng kinh Địa-Tạng thuộc về quyền giáo,
khác với những bộ kinh thuộc về Thực-giáo, trực chỉ Chơn-lý. Có
thể xem kinh Địa-Tạng như một bài ngụ-ngôn trường thiên, trong
đó Phật dùng ngụ-ý (paraboles) để ám chỉ một chơn-lý đáng phát
minh, như những bài ngụ ngôn của các hiền-triết Đông Tây mà cốt
yếu là để dạy những nguyên tắc luân lý, hoặc những truyện đời
xưa, những truyện giải buồn, do văn-nhơn, hiền-sĩ đặt ra vì
thiết tha với thế sự, muốn hoán cải nhơn tâm.
Kế đó, dựa theo những
đọan kinh văn, diển-giả giải rằng đức Địa-Tạng không phải là một
nhơn vật lịch sử (personnage historique), có một đời sống ở thế
gian như đức Phật Thích-Ca, mà là một nhơn-vật tượng trưng
(personnage symbolique), đặt ra để tiêu biểu cho những đoạn-đức
cương quyết, nguyện-lực dồi dào và hành-động linh tiệp. Địa-Tạng
cũng chỉ cái gì cực tôn cực quí trong người (Bổn tôn), đủ năng
lực đả phá vô-minh, trực tiếp cứu vớt con người ra khỏi cảnh
ngục-thất tối đen dày bịt (đại thiết vi), thoát vòng tội lỗi khổ
đau, và dẫn con người trở về sùng bái cái cực tôn cực quí ấy là
Chơn Tâm của mỗi chúng ta vậy.
Để chứng minh điều
mình quả quyết, diễn-giả dẫn câu "Địa ngôn: kiên, hậu, quảng hàm
tàng" và nói: Tại sao dùng hai chữ Địa-Tạng để ám chỉ Chơn Tâm?
Cứ xem câu vừa trích trong bài tán ở đầu quyển kinh đủ thấy. Địa
là chỉ cái gì kiên cố bất diệt, sâu dày không thể đo lường
(hậu), và rộng chứa không gì bỏ ra ngoài (quảng hàm tàng). Thế
có phải chỉ Chơn Tâm hay Như-Lai-Tạng không? Vì ai đập vỡ Tâm
được mà không bảo là kiên cố, ai đo được cái vô cùng tận của Tâm
mà không bảo nó sâu dày không thể đo lường, và có gì ngoài Tâm
được mà không bảo nó ngậm chứa tất cả?
"Lại nữa, diễn-giả nói
tiếp, nếu không ám chỉ Chơn Tâm, thì làm sao cắt nghĩa được
câu":
Tam thế Như-Lai đồng
tán ngưỡng
Thập phương Bồ-tát
cộng quy-y?
"Không lẽ ba đời chư
Phật (quá khứ, hiện tại, vị lai) lại đi khen ngợi, ngưỡng mộ một
vị Bồ-tát, còn mười phương Bồ-tát lại quy-y với một người đồng
đẳng với mình? Thật rõ là ám chỉ cái Chơn-lý bất diệt là Chơn
Tâm, mà không ai (kể luôn chư Phật, Bồ-tát) được phủ nhận, vì
phủ nhận là còn sống trong vô-minh mà hễ còn sống trong vô-minh
thì làm sao có Phật và Bồ-tát? Nói một cách khác, nhờ thể nhận
được Chơn Tâm, tán thán ngưỡng mộ Chơn Tâm, nên Phật mới thành
Phật, và cũng nhờ biết quay về an trú nơi Chơn Tâm, sống theo
tiếng gọi của Chơn Tâm, nên Bồ-tát mới thành hạnh Bồ-tát."
Đến hai câu:
Thủ trung kim tích,
chấn khai địa-ngục chi môn.
Chưởng thượng minh
châu, quang nhiếp Đại-thiên chi giới.
Diễn-giả giải thích:
"Đó là một lối dùng
biểu tượng (symbole) để diễn tả những công năng của Chơn Tâm.
Tích trượng (gậy sắt), tượng trưng cho cái ý-chí cương quyết
(volonté de fer) bẻ xiềng xích, phá ngục tù của những người thức
tỉnh, tức là đã trở về với Chơn Tâm. Đó cũng là sức mạnh vô song
của Chơn Tâm, biết diệu dụng thì không việc thiện nào là không
làm được, còn không biết diệu dụng thì nó cũng có thể đưa con
người đến chổ tội lỗi không bờ bến. Vì sao? Vì cái cương quyết
làm phải ở người tốt và cái cương quyết làm sái ở người xấu,
đồng một mãnh lực như nhau.
Tuy hai mà trên căn
bản vẫn một, tại chỗ dùng có khác mà một xem tuồng như hai, thí
như con dao bén có thể dùng giúp ta xắt cải xắt rau, mà cũng có
thể trợ cái giận của ta trong việc chém người hại vật. Còn viên
ngọc (minh châu) sức sáng rọi khắp ba ngàn thế giới kia cũng là
một lối nói để ám chỉ cái Đại trí huệ, hay Trí Bát-nhã sẵn có ở
mỗi người, linh tiệp vô cùng, không đâu chẳng thấy, không gì
chẳng biết, bao xa cũng soi tới, bao sâu cũng chiếu suốt. Mà Trí
và Tâm không phải sai khác, cho nên nói Đại trí minh châu cũng
là nói Chơn Tâm vậy."
Còn mấy câu:
Diêm vương điện thượng
Nghiệp cảnh đài tiền
Vị Nam-phù-đề
chúng-sanh
Tác đại chứng-minh
công-đức chủ
thì theo đạo-hữu
Chánh-Trí, là tả những cái dụng khác của Chơn Tâm, cái dụng hồi
quang phản chiếu, quay cái sáng, rọi trở lại đời sống hằng ngày,
từ ngoài cho đến trong, như người Pháp nói "xét lòng" (examen de
conscience). "Thật vậy, diễn-giả nói, ai xét ta và luận ta cho
bằng lương-tâm ta, vì biết bao nhiêu tội lỗi ta đã tạo mà
Công-lý nào biết được! Do đây, bài tán mới vì Địa-Tạng (Chơn
Tâm) là ông vua cõi Diêm-la, ngồi trên điện cao để phán xét tội
trạng của ta. Còn tự ta muốn biết nghiệp lành, nghiệp ác của ta
ư? Thì cứ ngó trở lại vào lòng, cái "gương lòng" sẽ phản chiếu
cho ta thấy tất cả. Gương ấy là Chơn Tâm Địa-Tạng đó, nên gọi là
Nghiệp cảnh (cái kiếng soi nghiệp). Chơn Tâm ta đã là ông Tòa,
ông Diêm vương xét tội, thỉ Chơn Tâm ấy cũng là người chứng kiến
và ghi chép những công đức của ta. Thế nên nói Địa-Tạng làm
người chứng minh các công đức (mérites) của chúng sanh cõi
Nam-diêm phù-đề, tức là cõi thế-gian này vậy."
Tóm lại, diễn-giả chỉ
rằng: Địa-Tạng là Chơn Tâm hay Như-Lai Tạng-tâm, đủ cả Tánh-thể,
Tánh-cụ và Tánh-dụng. Tánh-thể là Bổn tôn, nên "Tam thế Như Lai
đồng tán ngưỡng, thập phương Bồ tát cộng quy y". Về Tánh-cụ (có
sẵn) thì "kiên, hậu, quảng hàm tàng, từ nhơn, tích thiện, thệ
cứu chúng sanh" sẵn đủ cả Đại-nguyện (grande volonté), Đại-hạnh
(grande activité), Đại-thệ (grande détermination). Vì vậy Kinh
chia ra ba phần hay ba quyển: Địa-tạng bổn nguyện, Địa-tạng bổn
hạnh, Địa-tạng bổn thệ. Rốt hết là Tánh-dụng. Hai Tánh trước đã
lớn lao và đầy đủ vô cùng thì cái Dụng của Chơn Tâm cũng vô
cùng, do đó mà chúng-sanh trong quá khứ, hiện tại, vị lai, nếu
biết quy-y Tâm thì được ra khỏi địa-ngục vô-minh, tức là được
cứu độ như Kinh nói.
Đạo-hữu Chánh-Trí
giảng đúng với giáo nghĩa của Đại-thừa. Theo lý tuyệt-đối
(đệ-nhất nghĩa đế), ngoài Tâm không pháp, cho nên sự sự đều là
Tâm, vật vật đều là Tâm. Tâm tác Thiên đường, Tâm tạo địa ngục,
ba cõi chỉ đều do Tâm, mười cõi chỉ đều do Tâm, tất cả đều do
Một Tâm (duy Nhứt Tâm), không gì ngoài Nó. Cho nên, có chúng
sanh thọ khổ địa-ngục nơi Tự Tâm (en Soi), thì Địa-Tạng Bồ-tát
cũng cứu độ trong Tự Tâm. Ngoài Tâm, không có địa ngục, chúng
sanh nào khác; ngoài Tâm, không có Địa-Tạng phá ngục dẫn vong
nào khác. Đây là cái lý bí ẩn của kinh Đại-thừa mà chúng ta cần
khám phá và khai thác để tự lợi, lợi tha. Dùng ông Bồ-tát
Tự-Tánh mà cứu độ chúng sanh của Tự Tâm, lửa đó, nước đó, thật
là muôn phần linh tiệp và diệu dụng.
Đạo-hữu Chánh-Trí đã
đem lại cho thính giả một niềm tin tưởng vững chải, phấn tấn, vì
mình có tự tin ở mình có ông Bồ-tát biết dùng hột minh-châu
Đại-trí-huệ chiếu phá vô-minh, tiêu trừ những nỗi lòng đen tối,
cỡi mở những quan niệm sai lầm, đập phá ngục tham, sân, si,
ái... thì mình mới khỏi cầu ai xa lạ, viễn vong, vừa khó khăn,
vừa không chắc, khỏi mắc phải cái tánh ỷ lại thần quyền, mơ hồ
và tai hại.
Lại nửa, nếu tự hay
nơi mình có Chơn Tâm linh minh sáng suốt làm quan Tòa, thường
ngồi tại bàn án, chiếu gương soi
nghiệp,
xét nét vô tư những điều ẩn khuất nơi cõi lòng, thì chắc chắn
đời người sẽ có sự hoán cải, dứt ác làm lành, đổi đen ra trắng.
Dù rằng, từ trước đến
đây, diễn-giả đã dẫn kinh để chứng tỏ rằng Địa-Tạng chỉ là một
lối tượng trưng để chỉ Chơn Tâm, trong hàng thính- giả hình như
còn có người chưa tin. Đạo-hữu Chánh-Trí nói thêm: "Tìm hiểu
Địa-Tạng Bồ-tát có thật hay không, không quan hệ bằng tìm biết
kinh Địa-Tạng có ích gì cho chúng ta trong việc tu hành.
"Đạo-hữu nói
rất có lý, nếu chúng ta nhớ lại Phật thuở xưa kia cũng có lần
bác những kẻ đến hỏi Ngài thế giới có hay không có, hữu hạn hay
vô biên, v.v.. Phật bảo: Nên hỏi ngay làm sao đặng hiện tiền
giải thoát, vì hỏi như vậy mới thiết thực hơn, còn hỏi như trên
thì phải sa lầy trong cái đầm lý thuyết.
Có lẽ nhờ lời dạy của
Phật vừa nhắc lại, nên diễn-giả hay moi tìm trong kinh điển để
khám phá, lượm lặt, những gì có ích lợi cho đời sống thực tế và
khai thác những phát minh thực dụng, hầu giúp nhiều bạn đồng đạo
cũng hưởng. " Đọc kinh phải cầu lý, đạo-hữu Chánh-Trí nói. Cầu
lý là tìm coi Phật muốn nói gì, chỉ gì, chớ không nên thấy chữ
đâu hiểu nghĩa đó mà cho là đủ. Nếu nhận nghĩa do nơi chữ, chúng
ta sẽ gặp nhiều mâu thuẩn có khi buồn cười, làm cho chúng ta sẽ
hoang mang, không làm sao có lòng tin tưởng sắt đá.
“Thật là một
lời khuyên có giá trị đối với thế-hệ hiện nay của trí óc khoa
học (esprit scientifique), luôn luôn bất phục trước những cái gì
mù mờ.
Tuy đạo-hữu Chánh-Trí
đã đem hết sức mình ra giải thích rành mạch, vẫn còn có người
thắc mắc, cho rằng nếu theo diễn-giả mà phủ nhận vị Bồ-tát hiện
đang hành sự ở cõi U-minh, cứu-độ vong linh thọ tội mà nhiều
người đang tin tưởng, thì sẽ làm mất chổ trông cậy của họ. Chúng
tôi nghĩ, nếu tin mà lầm lạc, thì thà đừng tin còn hơn, vì lầm
lạc còn khổ hơn không tin. Nếu có kẻ không giữ vệ sinh, không
biết ngừa bệnh độc, ăn càn ở bậy, ỷ y có thầy hay thuốc giỏi,
thử hỏi tin tưởng như thế có lợi hay có hại?
Lại có người cho
diễn-giả quá thiên về lý mà bỏ sự. Sao lại nghĩ thế? Sự, lý nào
phải hai cái khác nhau mà tưởng có thể bỏ sự theo lý. Đã nói
kinh Địa-Tạng thuộc về quyền giáo, mà hễ quyền giáo thì toàn là
sự, như nói nào là có ông Bồ-tát danh Địa-Tạng ở cõi U-minh, làm
việc độ vong, nào là có ba ngục lớn chúng sanh trong đó bị các
quỉ sứ đầu trâu mặt ngựa đánh khảo đủ điều, v.v… Nhưng sự, lý,
không thể chia hai, thì cố nhiên trong những sự vừa kể phải có
cái lý, những cái lý mà rất tiếc chưa ai từng vạch, nên nay
đạo-hữu Chánh-Trí mới vạch, để thức tỉnh những ai cho kinh
Đại-thừa thiếu căn bản Phật giáo, nói truyện hoang đường.
Để khỏi thiếu sót,
chúng tôi xin thêm lời diễn-giả giải về ý ẩn của đoạn sau đây
trong bài tán, bắt đầu từ câu: "Nam phương thế giới dõng hương
vân... chí câu: Phật ngôn: Địa-Tạng Bồ-tát chí." (xin xem Kinh).
Đạo-hữu Chánh-Trí nói:
"Hể Chơn Tâm phát hiện nơi ai (Bồ-tát Địa-Tạng đến), thì từ nơi
thân tâm người ấy phát tiết ra ngoài một cái gì mà trông đến
gương mặt là ta cảm thấy một ánh sáng diệu hiền, khiến ta phải
kính phục, nghe đến lời nói là ta cảm nhận một cái gì đẹp đẻ,
thơm tho, khiến ta ngây ngất, chẳng khác ta tắm mình trong một
đám mưa thơm, một đám mưa hoa, v.v… Cứ trông gương mặt, ngắm xem
cử chỉ, lắng nghe lời nói của những bực chân tu thạc đức, ta sẽ
thấy và sẽ cảm như vừa nói. Các nhà tâm-lý-học Âu Tây đều công
nhận cái sáng hiển lộ ra ngoài như thế này của những tâm hồn
trong sạch, hiền hòa, mà họ gọi là "irradiation".
Nói một cách khác,
diễn-giả đã đề cập đến ảnh hưởng hết sức thơm tho lành điệu,
sáng sủa êm đềm, của những tâm hồn đã trở về với đời sống giải
thoát.
Buổi giảng đầu tiên đã
chứng tỏ nơi diễn-giả, không phải một sức học uyên thâm, mà một
thực nghiệm tu học khá công phu, chúng tôi tin rằng đạo-hữu
Hội-trưởng sẽ không phụ lòng thính giả ở những buổi giảng tiếp.
Viên-Pháp
(Trích Tạp-chí
TỪ-QUANG số 70, tháng 11 năm 1957)
Cước chú: Tác-giả viết
bài này lúc còn là một cư-sĩ. Mấy năm sau, tác-giả đã xuất gia,
giữ nguyên pháp hiệu và đã viên tịch.
5.Tôi huân tập cái
tánh nghe, nghe vào tự tánh. Tánh thấy, tánh ngửi, tánh nếm,
tánh xúc, biết cũng vậy, khiến chúng sinh đang khi bị hại dao
mác, vũ khí gãy rơi từng khúc chẳng xúc phạm.
Nghe vào tự tánh tức
là năng quán nghĩa là nghe tất cả những việc thiện ác, soi chiếu
tự tâm của mình để thấy rõ, không còn bị mê lầm vọng chấp. Khi
tâm đã thanh tịnh thì tất cả những thứ như nói lưỡi hai chiều,
nói lời độc ác, nói thêu dệt, nói gian dối, lòng buồn, lòng giận
cũng không còn vì thế dao hai lưỡi, dao ưu sầu, dao tâm làm sao
sát hại mình được. Tánh thấy, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc,
tánh biết cũng vậy thì nghĩ ác, nói ác, làm ác cũng không còn.
Khi không còn ác tâm nghĩa là nguyên nhân của đấu tranh không
còn thì không lo sợ gì có sự tranh chấp, giết hại.
6.Tánh nghe, tôi huân
tập đến độ tinh thuần, sáng suốt trùm khắp pháp giới. Tất cả
những gì đen tối không tồn tại được, khiến cho chúng sinh dù ở
gần bên với ác quỷ: Dược xoa, cưu bàn trà, tỳ xá xà, phú đơn na…
mà chúng không
nhìn thấy.
Khi quán chiếu lòng
mình thì có được tâm thanh tịnh, an lạc, trong sáng do đó những
thứ âm u hắc ám như quỷ thô bạo, quỷ bất nghĩa, quỷ vô thường
làm sao hại mình được.
7.Tánh năng văn tôi
quán xoay vào, thanh trần đối tượng tiêu vọng, khiến chúng sinh
tránh xa tất cả gông cùm xiềng xích không vương chạm đến thân.
Khi xoay tánh nghe vào
trong để lắng nghe tiếng nói thanh tịnh của lòng mình thì những
âm thanh bên ngoài đâu còn lọt vào tâm của ta. Khi tu thiền định
thì họ cắt đứt những đối tượng nghe bên ngoài. Do đó khi tu
thiền định, hành giả nên tìm nơi thanh vắng yên tịnh thì dễ xoay
tâm vào bên trong mà không bị sở văn chi phối. Con người có sống
trong phiền não khổ đau cũng chỉ vì bị đối tượng sở văn lôi
cuốn. Nghe một bài ca hay, một tiếng đàn lưu loát, tiếng nói dịu
dàng, lời khen êm ái hay tiếng chửi xót xa…
tất cả đều là
đối tượng sở văn cả. Càng chạy theo tiếng nghe bên ngoài thì tâm
càng vọng động, không làm chủ được bản tâm của mình nên dễ rơi
vào vô minh phiền não mà phải gánh chịu bao nỗi ưu bi buồn
phiền. Ngược lại biết xoay tánh nghe vào trong thì bít hẳn sở
văn nên con người sống trong an nhiên tự tại thì gông cùm xiềng
xích làm sao đụng đến ta được.
8.Tôi diệt âm thanh
đối tượng, tánh nghe viên mãn sanh sức từ cùng khắp, khiến chúng
sinh đi qua đường hiểm mà giặc cướp không thể cướp được (giặc
phiền não có 6 tên túc trực phục kích ở mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ý).
Đối tượng âm thanh là
những tiếng nói ngọt ngào, tiếng thị phi phải quấy, lời chửi rủa
đắng cay…
Nếu con người đem
những đối tượng âm thanh này vào tâm thì dĩ nhiên vô minh phiền
não cũng vì thế mà phát sinh. Nên nhớ sáu căn: mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý tự nó thanh tịnh, không ô nhiễm, nhưng giặc vô
minh phiền não lúc nào cũng núp dưới sáu căn để chụp lấy cơ hội
mà hành hạ con người. Thí dụ lỗ tai thì thanh tịnh, không có chi
là xấu xa tội lỗi cả, nhưng tai vừa mới nghe tiếng khen thì tâm
liền phân biệt mà bám víu vào tiếng khen giả tạo này khiến con
người sống trong điên đảo, mộng tưởng ảo huyền, Ngược lại nghe
ai chê thì tâm bực bội, buồn phiền ray rức.
Bây giờ nếu diệt được
âm thanh đối tượng nghĩa là đóng kín thanh trần, không còn nghe
tiếng nghe bên ngoài mà xoay tánh nghe vào nội tâm để nghe tiếng
lòng thanh tịnh tức là diệu âm thì giặc phiền não làm sao đánh
phá ta được cũng như đi qua đường nguy hiểm mà giặc cướp chẳng
hại được mình. Nói cách khác cuộc đời nhiều phiền não rối tăm,
trăm điều bực bội nhưng nếu bây giờ con người lắng nghe tiếng
lòng thanh tịnh mầu nhiệm của mình để bỏ đi những đối tượng
phiền não giả tạo bên ngoài thì chính mình vượt qua được mọi
hiểm trở và giặc cướp phiền não không cướp được công đức lành
của mình.
Chúng sinh đừng nên
hiểu lầm đoạn kinh trên rằng mình mang trong người nhiều vàng
bạc quý giá, đi qua đoạn đường hiểm trở nên lo sợ niệm Đức Quán
Thế Âm thì Ngài phù hộ không cho giặc cướp đoạt vàng bạc nữ
trang. Trong thập niên 70, 80 có rất nhiều chiếc thuyền tỵ nạn
của người Việt Nam đi theo hướng Thái Lan đã bị bọn hải tặc cướp
bóc, giết người và hãm hại đàn bà con gái gây ra biết bao cảnh
tang tóc đau thương. Khi gặp cảnh oan trái dĩ nhiên có biết bao
người niệm Đức Quán Thế Âm thế thì tại sao bọn hải tặc vẫn cướp
của hại người mà Ngài không cứu? Do đó giặc cướp ở đây là giặc
phiền não để cướp đi những công đức của mình bởi vì có thanh
tịnh mới tạo được công đức ngược lại chạy theo phiền não là sống
trong điên đảo tức là tạo nghiệp để phải chịu quả khổ luân hồi.
Vì vậy làm chủ được sáu căn thì phá được giặc phiền não, hóa
giải được tham sân si và cuộc sống dĩ nhiên sẽ được thanh tịnh,
an vui và tự tại.
9.Do tôi huân tập tánh
nghe được thanh tịnh, tách khỏi trần tướng. Sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp không cám dỗ được, khiến cho những chúng sinh tà
dâm xa lìa được lòng tham dục nặng nề.
Huân tập tánh nghe
được thanh tịnh nghĩa là biết phản văn văn tự tánh để chỉ nghe
tiếng nói thanh tịnh của lòng mình. Đến đây thì thanh trần vẫn
còn đó, nhưng không hề nghe biết nữa. Nói rộng ra chẳng những
không còn nghe biết âm thanh bên ngoài mà ngay cả sắc, hương,
vị, xúc, pháp cũng biến mất trong tâm của ta. Nói cách khác khi
tâm không còn duyên với ngoại trần thì tất cả những gì thuộc về
ngoại trần như nhà cao cửa rộng, hương vị thơm tho, mùi vị béo
bở, cảm giác êm đềm, ý niệm nọ kia đều tan biến trong tâm của
mình. Do đó, cho dù thế gian vũ trụ vẫn còn sờ sờ ra đó, nhưng
đối với người biết huân tập tánh nghe thì thấy mà như không
thấy, nghe mà như không nghe, ngửi mà như chẳng ngửi thứ gì nên
lòng không tham đắm, si mê. Thí dụ mắt thấy người đẹp mà tâm
không thấy thì người nào cũng như vậy nên lòng tham dục không
khởi, tâm được thanh tịnh.
10.Tôi chỉ lưu lại
thuần một viên âm thanh tịnh, không còn đối tượng thanh trần,
căn cảnh viên dung, dứt đối đãi năng văn sở văn khiến chúng sinh
xa lìa được tham sân si phẩn nhuế.
Hằng ngày trong cuộc
sống, chúng sinh luôn đối diện với năng văn sở văn khiến tâm
phân biệt chạy tới chạy lui và vọng tưởng cũng vì thế mà sinh
khởi làm cho cuộc sống bất toại ý. Bây giờ biết xoay cái nghe
vào trong thì tiếng nghe bên ngoài biến mất nghĩa là nghe thì
cái gì cũng nghe mà như không nghe cái gì hết. Âm thanh trần
tướng không lọt vào nội tâm thì vọng động không còn. Đến đây
trong tâm chỉ còn lại một âm thanh huyền diệu thanh tịnh tức là
diệu âm. Tâm thanh tịnh thì những nhiễm ô tham, sân, si biến
mất. Ngày xưa Đức Phật và các vị A la hán ở những nơi rất yên
tĩnh để thiền định cho nên các Ngài không phải đối diện với
những đối tượng trần lao là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Khi được minh tâm kiến
tánh, giải thoát giác ngộ các Ngài mới vào đời cứu độ chúng sinh
mà không còn bị những chướng ngại trần duyên quyến rũ. Nên nhớ
khi đã thành Thánh thì không bao giờ trở lại làm chúng sinh trừ
khi họ phát nguyện tái sinh để độ đời. Nói chung, pháp tu thiền
định này nói thì dễ, nhưng rất khó thực hành bởi vì người Phật
tử tại gia thì còn bận bịu gia đình, vướng nhiều thế tục, còn
người xuất gia thì Phật sự đa đoan nên khó dứt được năng văn sở
văn. Phật sự tới đâu thì phiền não theo tới đó nên cả đời những
vị xuất gia tuy mang tiếng tu hành mà tranh chấp, hơn thua không
xã bỏ, viễn ly được. Nào là cảnh chùa to, Phật lớn, nào thiện
nam tín nữ ồn ào náo nhiệt, cầu nguyện van vái nên vọng tưởng
chấp trước cũng vì thế mà phát sinh. Vì vậy ngày nay người tu
thì nhiều mà người có an lạc giải thoát thì rất ít.
11.Tiêu diệt thanh
trần đối tượng tôi xoay cái nghe về tánh bản minh, thân tâm cảnh
giới trong sáng như lưu ly, chẳng vương chút trần ai vọng chấp,
khiến chúng sinh xiển đề mê tối xa lìa câm điếc tối tăm.
Thế nào là câm điếc
tối tăm? Con người hằng ngày nói rất nhiều và nghe cũng lắm,
nhưng thật ra cái nghe, thấy, biết này chỉ nằm trong vòng lẩn
quẩn của vô minh phiền não, của sự phân biệt đối đãi, của hơn
thua phải quấy lợi mình hại người. Do đó nói mà không đúng với
sự thật, không hợp với chân lý thì lời nói kia chẳng có giá trị
gì, đâu khác chi người câm. Còn tai chỉ muốn nghe lời ngọt diệu
êm đềm, thị phi hoặc khi nghe lời mắng chửi thì khó chịu, bực
mình. Nhưng trên đời hễ trung ngôn thì nghịch nhĩ, lời thật
thường mất lòng tức là thuốc đắng mới đả tật. Vì vậy người không
nghe nổi chân lý, không nghe được lời dạy của Thánh hiền thì tuy
có tai mà khác chi là người điếc.
Thêm nữa, chân lý là
sự thật vĩnh hằng, là ngọn đuốc tuệ soi sáng tâm chúng sinh cho
nên nếu không nhận biết được chân lý thì tuy là ánh sáng mặt
trời vẫn chiếu sáng, nhưng người đó có khác gì người đi trong
tăm tối. Trong kinh Pháp Hoa có đoạn nói rằng nếu có chúng sinh
chê bai, phỉ báng kinh Pháp Hoa thì sẽ bị quả báo là đui, điếc,
câm, ngọng, thân hình lở loét hôi tanh, miệng thúi, răng xéo…
là theo ý ở
trên chớ không phải là đui, điếc thật. Vì hiểu biết một chiều
nên có người lý luận rằng nếu không có Phật thị hiện ở thế gian
thì đâu có kinh Pháp Hoa để chúng sinh đọc mà không hiểu thấu
nên mới chê bai mà phải chịu quả báo đui điếc…
Lý luận như vậy chẳng
khác nào nói rằng Đức Phật Thích Ca truyền lại bộ kinh Pháp Hoa
làm cái bẩy để hại chúng sinh mang lấy bệnh tật sau này hay sao?
Nói thế thì làm sao giải thích cho đúng với chân lý được. Thâm ý
của kinh là cái thấy của một người mà không nhận thức đúng chân
lý, không thấy được con đường giải thoát giác ngộ thì tuy mắt
vẫn còn, nhìn rất rõ nhưng đây là cái thấy của vô minh, vọng
chấp thì có khác gì người đui. Lỗ tai không nghe chân lý, không
nghe nổi kinh liễu nghĩa thượng thừa thì lỗ tai tuy còn đó, nghe
rất rõ, nhưng không chịu nghe lời thiện thì khác gì người điếc.
Miệng tuy nói nhiều, nói rất hay, nhưng không nói lời thiện, nói
đúng theo chân lý thì khác gì người câm.
Một khi chúng sinh
biết xoay cái nghe về tánh bản minh để cho thân tâm được trong
sáng như lưu ly nghĩa là lìa xa cái nghe bên ngoài (sở văn) tức
là không còn vướng mắc vọng chấp mê lầm mà xoay vào để nghe
tiếng lòng thanh tịnh nhiệm mầu của mình thì sẽ có tâm hồn trong
sáng thanh tịnh.
12.Viên dung các hiện
tượng, tôi xoay tánh nghe trở về bất động. Hài hòa thế gian mà
không hủy hoại thế gian, cúng dường Như Lai mười phương như số
vi trần, tôi ở bên mỗi Phật làm Pháp Vương Tử, khiến trong pháp
giới những chúng sinh không con, cầu có con trai, sanh được con
trai phúc đức trí tuệ.
Trong 11 phần trước,
pháp tu thiền định khuyên chúng sinh lìa bỏ trần cảnh bên ngoài
mà xoay tánh nghe vào trong để nghe tiếng nói thanh tịnh của
lòng mình. Đến phần này tánh nghe không còn phải ngăn bít sắc
thanh hương vị xúc pháp nữa mà bất động nghĩa là những đoạn kinh
trước Bồ Tát dạy chúng sinh phải tránh né âm thanh đối tượng,
nhưng bây giờ không cần tránh né nó nữa nghĩa là đến đây chúng
sinh đã biết xoay cái nghe trở về với tánh nghe để nghe âm thanh
thanh tịnh của lòng mình rồi thì tuy có nghe cả âm thanh của thế
gian nhưng vẫn hài hòa với thế gian, không dính mắc nơi thế
gian. Một khi tâm đã thanh tịnh thì cái thế giới bên ngoài tuy
vẫn còn đó nhưng đối với người có tâm thanh tịnh thì có mà vẫn
như không nghĩa là nghe thì cái gì cũng nghe mà rốt cuộc như
không nghe cái gì hết. Tâm nhẹ nhàng thanh thoát, rỗng rang thì
có an vui tự tại.
Thế nào là cúng dường
chư Phật?
Khi chúng sinh phát
khởi một niệm giác ngộ để sống đúng với chân lý là mình đã cúng
cho một vị Phật. Phát khởi một niệm khác lợi ích cho chúng sinh
và sống đúng với chân lý là cúng dường cho hai vị Phật. Cứ như
thế mà nghĩ niệm lành, nói lời thiện, làm việc tốt cho chúng
sinh là mình đã cúng dường cho vô số chư Phật trong mười phương
rồi. Phải chăng chữ “Phật” muốn ám chỉ trong đoạn kinh này là
chúng sinh vì trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có Phật
tâm, Phật tánh như nhau, không sai khác. Trong Phật giáo, Pháp
cúng dường là hơn hết trong các cách cúng dường. Đó là chúng
sinh đúng theo lời Phật dạy mà tu hành để cúng dường. Làm lợi
ích cho chúng sinh để cúng dường. Nhiếp thọ chúng sinh để cúng
dường. Thay thế sự khổ ách cho chúng sinh để cúng dường. Siêng
tu căn lành để cúng dường. Chẳng bỏ hạnh nghiệp Bồ Tát để cúng
dường. Vì thế chúng sinh có đem vô lượng công đức của tài cúng
dường cũng không bằng một phần trăm, một phần nghìn của Pháp
cúng dường vậy.
Nếu có chúng sinh cầu
có con trai sẽ sinh được con trai nghĩa là nếu chúng sinh muốn
tu phước đức trí tuệ thì chắc chắn sẽ được phước đức trí tuệ.
Con trai ở đây là phước đức trí tuệ, là nguồn sống chân thật của
mình chớ một vị Đẳng Giác Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm đâu có giúp
chúng sinh tăng trưởng thêm lòng tham dục, muốn gì được nấy,
trái với luật nhân quả khách quan của thế gian vũ trụ.
Có một nữ Phật tử muốn
cầu con nên đến chùa gặp vị Ni cô dạy niệm Đức Quán Thế Âm thì
muốn con trai sẽ có con trai. Cô Phật tử làm y như vậy, tuần nào
cũng đến chùa cầu nguyện Đức Quán Thế Âm rất chân thành. Nhưng
đến khi sanh thì sinh con gái. Cô có vẻ bất bình tìm đến chùa để
chất vấn vị Ni cô. Sư cô biết được nên cố tránh né không muốn
gặp mặt. Dựa theo xác suất (probability) của toán học thì xác
suất để đạt được bất cứ vấn đề gì có thể tăng hay giảm, ít hay
nhiều, nhưng có thể xảy ra. Vì thế xác suất lời nói của Ni cô là
50% đúng nghĩa là cơ hội đúng rất cao. Ngay cả xác suất để trúng
lô độc đắc là rất nhỏ có thể là một trong hai trăm triệu, nhưng
tuy là rất nhỏ nhưng hàng tuần vẫn có người trúng.
Vậy khi trúng số không
phải là Phật, hay Bồ Tát ban cho mà phước đức của mình đến lúc
xuất hiện vậy thôi. Con cái, vợ chồng là do nhân duyên kết tập
từ những đời quá khứ nên gặp lại nhau trong đời này. Nếu đời
trước cha mẹ nợ nần thì đời này con cái đến đòi nợ cho nên cả
đời cha mẹ khổ vì con cái. Còn nếu đời trước con cái nợ nần cha
mẹ thì sang đến đời này nó đến để đền ơn trả nghĩa nên đó là
những đứa con hiếu để, biết thương yêu, lo lắng, chăm sóc cho
cha mẹ. Vì thế Bồ Tát không can dự vào chuyện ân oán nợ nần của
chúng sinh mà ban cho con trai, con gái hay bất cứ đứa con nào.
Giả sử nếu Bồ Tát ban
cho chúng sinh đứa con ngỗ nghịch, vào tù ra khám, giết cha hại
mẹ thì chúng sinh nghĩ sao về Ngài? Rất nhiều gia đình có liên
tiếp ba bốn đứa con trai. Lại có gia đình có liên tiếp bốn năm
đứa con gái. Nhưng phần lớn thì trai gái chen nhau là chuyện
thường. Thế thì không phải cầu nguyện, van vái để được cái này,
có cái kia. Có hay không có là do phước đức quả báo của mình đến
lúc xuất hiện hay chưa vậy thôi chớ Bồ Tát không cho hay ban
phát cho ai cái gì cả. Đạo Phật không dạy chúng sinh cầu nguyện
vì có cầu cũng chẳng được mà đạo Phật chỉ dạy chúng sinh tin sâu
vào nhân quả bởi vì chính Đức Phật cũng phải đi xin cơm tín
chúng thì lấy gì để Ngài cho.
Nếu Đức Phật và các
đại đệ tử của Ngài linh thì họ chỉ cần niệm Úm Ba La Bát Nhi
Hồng rồi phẩy cái phất trần thì đồ ăn, thức uống hiện ra trước
mặt, nhưng tại sao hằng ngày họ cũng phải đi hóa duyên? Do đó
không có vấn đề linh hay không linh trong Phật giáo bởi vì Đức
Phật Thích Ca chỉ là một đấng đạo sư vô thượng chớ không phải là
đấng thần linh. Ngài dạy chúng sinh lau sạch bụi vô minh phiền
não thì sẽ có thanh tịnh an lạc Niết bàn. Nếu y giáo phụng hành
thì đây là linh vậy. Do đó nếu hiểu kinh điển một bên hay hiểu
theo sự tướng bề ngoài thì rất nguy hiểm dễ rơi vào mê tín dị
đoan, khiến tâm bất tịnh.
13.Sáu căn tôi viên
thông, soi sáng không hai, khắp trùm thập phương thế giới, đứng
trước đại viên kính ở trong Như Lai Tạng, tôi vâng lãnh pháp môn
bí mật của thập phương Như Lai như vi trần không hề thiếu sót,
khiến cho trong pháp gới những chúng sinh không con, cầu con
gái, sanh được con gái tướng tốt đoan chính, phúc đức và dịu
dàng được nhiều người quý mến.
Khi tu hành chứng đắc
tức là trở về với căn bản trí tức là vô phân biệt trí của mình
thì tám thức sẽ chuyển thành bốn trí. Ý thức có tác dụng phân
biệt sẽ biến thành “Diệu Quan Sát Trí” tức là trí có năng lực
quan sát thâm diệu có thể thấy được hằng sa thế giới và thấy
được tâm niệm sở cầu trong mỗi chúng sinh. Nhãn thức, Nhĩ thức,
Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức tức là tiền ngũ thức sẽ biến
thành “Thành Sở Tác Trí” nghĩa là cái trí này có những công năng
vô cùng rộng lớn như thị hiện thần thông biến hóa. Thức thứ bảy
Mạt na thức có tác dụng chấp ngã sẽ biến thành “Bình Đẳng Tánh
Trí” nghĩa là trí có năng lực nhận thức tính bình đẳng của tất
cả vạn pháp. Thức thứ tám A lại da thức sẽ biến thành “Đại Viên
Cảnh Trí” tức là trí sáng như tấm gương lớn và tròn đầy cũng như
biển cả chơn như. Vậy đại viên kính ở trong Như Lai Tạng chính
là đại viên cảnh trí. Do đó người tu đạt đến trí tuệ viên mãn
thì trong lòng thanh tịnh, không còn phiền não ưu tư cũng như
người con gái có tướng tốt, lúc nào cũng đoan chính, phúc đức
dịu dàng và ai ai cũng kính quý.
14.Trong tam thiên đại
thiên thế giới này các Pháp Vương Tử đông như số cát 62 sông
Hằng. Trí tuệ và phương tiện giáo hóa chúng sanh mỗi Ngài đều
khác nhau. Vậy mà chúng sanh chấp trì một danh hiệu của tôi,
bằng ngang với công đức chấp trì danh hiệu số lượng Pháp Vương
Tử nói trên.
Nếu chúng sinh chấp
trì danh hiệu một Bồ Tát thì cũng như chấp trì hết thảy 62 hằng
hà sa Bồ Tát. Bởi vì chấp trì 62 hằng sa Bồ Tát là cốt để cho
thân tâm hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt và trí tuệ đạt đến đỉnh
cao. Nhưng nếu chấp trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm nghĩa là xoay
cái nghe trở vào để nghe tiếng nói thanh tịnh của lòng mình và
dứt bặt năng văn, sở văn thì cũng có thân tâm thanh tịnh và trí
tuệ trong sáng như vậy. Do đó chỉ cần niệm một danh hiệu Quán
Thế Âm Bồ Tát là đủ.
- Bạch Thế Tôn! Sở dĩ
tôi được những điều ưu việt như vậy là do tôi tu tập pháp “Văn
Huân Văn Tu Kim cang tam muội, cho nên tôi được tánh viên thông
chơn thật, gọi đó là 14 đức vô úy thí đem lại phúc lành cho tất
cả chúng sinh.
Văn huân là huân tập
cái nghe, Văn tu là tu tập dựa theo tánh nghe. Vậy Văn huân Văn
tu Kim Cang tam muội là pháp môn tu hành của Ngài Quán Thế Âm mà
theo đó Ngài huân tập cái nghe tức là xoay cái nghe trở về với
tánh nghe thanh tịnh và mỗi ngày huân tập một chút để hóa giải
thân khẩu ý dần dần cho được thanh tịnh thì sẽ có được chánh
định rắn chắc như Kim Cương.
Nếu chúng sinh biết
quay về nghe vào tự tánh của chính mình tức là quán chiếu cái âm
văn thì Quán Thế Âm Bồ Tát thể nhập vào thân của chúng ta rồi.
Đức Quán Thế Âm nhờ tu theo pháp môn “Vô tác diệu lực Văn huân
Văn tu kim cương tam muội” mà có được giải thoát tự tại cho nên
nếu chúng sinh nương theo pháp môn này mà thực hành thì cũng có
được an vui giải thoát, xa lìa khổ ách như Bồ Tát vậy. Bồ Tát
nhờ tu theo pháp môn này mà có được 14 thứ công đức vô úy không
có nghĩa là Bồ Tát thành tựu 14 công đức vô úy rồi đem 14 thứ
công đức đó mà cứu khổ cứu nạn chúng sinh. Huyền nghĩa của kinh
là Bồ Tát nhờ tu theo pháp môn Văn huân Văn tu mà thành tựu 14
thứ công đức vô úy do đó nếu chúng sinh tu pháp môn này đến chỗ
rốt ráo như Bồ Tát thì chính mình cũng có được 14 công đức vô úy
như các Ngài.
Người đệ tử Phật phải
sáng suốt nhận định rằng chính Đức Phật Thích Ca trong suốt 49
năm trời rày đây mai đó thuyết pháp độ sinh không ngừng nghỉ.
Ngài dùng biết bao phương tiện: Ngài nói rộng, nói hẹp, nói đốn,
nói tiệm, nói quyền, nói thật và sau cùng để lại cho Phật tử ba
tàng giáo lý thì nếu đây không là “Phật gia bì” hay “Tha lực
Phật” thì là gì? Nhưng trong Phật giáo không hề có chuyện van
vái, cầu xin thế này thế kia để được Phật hay Bồ Tát gia bì bởi
vì nó trái với quy luật nhân quả khách quan của hiện tượng vạn
hữu trong thế gian vũ trụ. Đức Phật không phải là đấng thần linh
vì thế “gia bì” hay “cứu độ” trong Phật giáo phải được hiểu là
thực hành đúng theo những giáo pháp của Như Lai đã dạy. Phương
pháp quán niệm “phản văn văn tự tánh” rất quan trọng vì thế
người đệ tử Phật khi tu học pháp tu này hãy gác qua tình cảm do
tập quán và truyền thuyết dân gian hời hợt. Chúng sinh hãy tìm
hiểu kinh điển qua sự thấy biết, tư duy vận động lý trí có tánh
khách quan thì mới có thể nhận chân giáo lý và mới có thể biết
được sự thật về những điều huyền diệu mà Đức Phật đã dạy chúng
ta.
QUÁN THẾ ÂM CÓ BỐN ĐỨC NHIỆM MẦU KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
Bạch Thế Tôn! Tôi được
viên thông vô thượng cho nên có bốn đức vô tác nhiệm mầu không
thể nghĩ bàn:
Trong giáo lý nhà
Phật, không thể nghĩ bàn tức là bất khả tư nghì. Không thể nghĩ
bàn không có nghĩa là siêu hình, ảo tưởng nhưng vì sự nhiệm mầu
nên không thể nói hay diễn tả được. Thí dụ có người uống một
tách trà thì chỉ có người đó là biết hương vị thơm tho và độ
nóng lạnh của tách trà chớ người ngồi kế bên cũng không hề biết
được. Vì vậy đối với Bồ Tát những đức tính nhiệm mầu là có thật,
nhưng đối với chúng sinh chưa đạt đến trình độ tu chứng như vậy
thì không thể nghĩ bàn được. Trong tiến trình tu chứng viên
thông của 25 vị A la hán và Bồ Tát dựa trên 6 căn, 6 trần, 6
thức và 7 đại thì Quán Thế Âm Bồ Tát là chứng đắc vô thượng
nghĩa là sự chứng đắc của Ngài là cao hơn hết trong số 25 vị kia
vì thế Ngài là Đẳng Giác Bồ Tát nghĩa là sự giác ngộ gần đồng
với Phật. Bồ Tát chỉ còn một chút sanh tướng vô minh rất vi tế
cần hóa giải thì Ngài sẽ thành Phật.
Do đó người đệ tử Phật
phải sáng suốt biết rằng một vị Đẳng Giác Bồ Tát không thể làm
những công tác từ thiện tầm thường như ai cầu con trai cho con
trai, ai cầu con gái cho con gái hoặc có người mang mấy túi vàng
bạc đi qua rừng hoang nhiều đạo tặc nên cầu Bồ Tát thì đi qua
được an toàn. Bồ Tát không bao giờ làm chuyện đó cho dù các Ngài
có muốn làm cũng không được vì nó trái với luật nhân quả khách
quan của vũ trụ và đi ngược lại với chân lý. Tin tưởng ảo huyền
như vậy chẳng những làm giảm đi giá trị cao siêu huyền diệu của
đạo Phật và vô tình biến đạo Phật từ một tôn giáo không có thần
linh trở thành tôn giáo tín ngưỡng, thần quyền.
Nói thế thì chắc chắn
có người thắc mắc rằng khi gặp chuyện khổ não, tai ương họ niệm
Quán Thế Âm thì tai bay họa gởi, hết lo sợ, buồn phiền. Vậy Bồ
Tát không linh thì là gì? Phật dạy rằng: “Vạn pháp duy tâm tạo”
nghĩa là thế gian vạn hóa đều phát xuất từ tâm. Khi gặp chuyện
bất bình thì tâm sân nổi dậy, gặp vật đẹp cao sang thì tâm tham
phát khởi muốn chiếm lấy…
vì thế trong
ngũ uẩn, hành thức là cội nguồn của tất cả luồng tư tưởng, trôi
chảy không ngừng trong tâm thức khiến con người chìm trong biển
khổ, bờ mê. Vì những người không thấu hiểu Phật Pháp nên họ
không tự chủ được bản tâm mà cầu Phật ở bên ngoài cho nên khi
gặp chuyện trắc trở thì họ cầu, họ niệm. Trong một giây nào đó,
tiếng cầu khẩn chân thành của họ đánh thức được bản tâm nên
những lo sợ, buồn phiền tức thì tan biến.
Thế thì không phải Đức
Quán Thế Âm hay Đức Phật Thích Ca linh thiêng cứu giúp họ mà
thật ra chính họ đã vô tình đánh thức Phật tâm, Phật tánh linh
thiêng huyền diệu của chính mình nên mới có sự an lạc trong nhất
thời đó thôi. Thí dụ khi gặp hoạn nạn con người kêu cứu cha mẹ
hoặc kêu van trời đất thì nỗi khổ cũng vơi được đôi phần. Đây
hoàn toàn thuộc về vấn đề tâm lý chớ không dính dáng gì tới Phật
trời cả. Tại sao? Bởi vì tâm của chúng sinh chất đầy vọng tưởng,
chạy theo tham đắm dục tình nên lo sợ, bất an. Bây giờ nếu nhất
tâm chuyên niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hay Phật A Di Đà thì
chính họ đã cột cái tâm vào một chỗ, không còn tán loạn vì thế
mới có sự an bình chớ không phải Bồ Tát hay Phật linh thiêng cứu
độ gì hết. Do đó nếu chúng sinh muốn có sự an lạc lâu dài mãi
mãi mà nhà Phật gọi là thanh tịnh Niết bàn thì ngay bây giờ nên
áp dụng pháp tu “phản văn văn tự tánh” của Ngài Quán Thế Âm. Lúc
ấy quý vị sẽ không còn sợ bất cứ cái gì trên trần thế nữa bởi vì
“tâm an thì có cảnh an, tâm bình thì thế giới bình” vậy.
1) Tôi xoay tánh nghe
để nghe tiếng mầu nhiệm của nội tâm. Tánh nghe này không chút ô
nhiễm. Tôi ngăn dứt tất cả âm thanh đối tượng của nhĩ căn, bấy
giờ tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết của sáu căn còn là một
tánh giác thanh tịnh có thể dùng thay thế cho nhau mà không ngăn
ngại. Tôi còn có thể hiện ra nhiều hình tướng và nói vô số chân
ngôn bí mật. Từ một đầu, 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu, 9 đầu, 11 đầu, 108
đầu, 1.000 đầu, 10.000 đầu cho đến 84.000 đầu. Tôi có thể hiện
ra 2 tay, 4 tay, 6 tay, 12 tay, 14 tay, 16 tay, 18 tay, 20 tay,
24 tay, 108 tay, 1.000 tay, 10.000 tay cho đến 84.000 tay uyển
chuyển. Tôi có thể hiện ra 3 mắt, 4 mắt, 9 mắt, 108 mắt, rồi
1.000 mắt, 10.000 mắt cho đến 84.000 con mắt thanh tịnh, hoặc
từ, hoặc uy, hoặc định, hoặc tuệ cứu độ chúng sinh được tự tại.
Xoay tánh nghe để nghe tiếng mầu nhiệm của tâm là tai đóng bít
âm thanh đối tượng để diệt bỏ năng văn sở văn thì chắc chắn
phiền não không còn. Nói cách khác, năng văn tức là lỗ tai nghe
những âm thanh đối tượng bên ngoài tức là sở văn nên vọng tưởng
mới phát khởi được. Có vọng tưởng tức là có phiền não. Thí dụ
nghe (năng văn) lời chỉ trích (sở văn) thì lòng không vui. Không
vui tức là buồn phiền, là phiền não rồi. Do đó, con người hằng
ngày thu nhận biết bao sở văn nên tâm dao động chẳng khác chi
sống trong bãi chiến trường. Còn các vị tu chứng thì họ biết
ngăn bít sở văn, nghĩa là nghe thì cái gì cũng nghe mà như không
nghe cái gì hết nên tâm họ rất bình yên, vắng lặng như sống
trong đất nước thanh bình.
Khi Bồ Tát đã dứt sạch
đối tượng, không còn nghe phải quấy, hơn thua, tốt xấu, ngon dở
thì lúc bấy giờ chẳng những tánh nghe được hoàn toàn thanh tịnh
mà các tánh nghe, thấy, ngửi, nếm, xúc, biết trở thành một tánh
giác thanh tịnh có thể dùng thay thế cho nhau mà không ngăn
ngại. Tâm tánh của chúng sinh vốn thanh tịnh sáng suốt nhiệm
mầu. Đó là thể tánh tịnh minh trong sáng không hề có phiền não
khổ đau chi cả. Vì thế một khi tánh nghe đã thanh tịnh thì tánh
thấy, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc đều thanh tịnh hết. Thể tánh
tịnh minh thì thanh tịnh bao la vô cùng vô tận, nhưng khi nó tác
động vào mắt thì có tánh thấy, tác dụng vào tai thì có tánh
nghe, tác dụng vào mũi thì có tánh ngửi, tác dụng vào lưỡi thì
có tánh nếm và tác dụng vào thân thì có tánh xúc.
Có nhiều tánh tức là
công dụng tuy có khác nhau nhưng cùng chung bản thể nghĩa là chỉ
có một tâm thanh tịnh. Vì con người bỏ tánh nghe mà theo cái
nghe nên các căn bị ngăn ngại, không còn tự tại. Bây giờ Bồ Tát
chận bít sở văn để xoay tánh nghe trở về với nội tâm thanh tịnh
thì lúc bấy giờ sáu căn trở thành một. Đây là trở về với thể
tánh tịnh minh trong sáng thanh tịnh của mình. Vì thế mà Bồ Tát
sử dụng căn nào cũng được, không ngăn ngại, căn này tức căn kia,
căn kia tức là căn nọ không khác gì nhau. Thí dụ dòng điện là
thể tánh tịnh minh, nhưng khi dòng điện gắn vào tủ lạnh thì có
công dụng riêng của tủ lạnh. Nếu gắn vào TiVi thì có công dụng
của TiVi, gắn vào bàn ủi thì có công dụng của bàn ủi…Công dụng
tuy có khác nhưng cũng cùng do dòng điện mà ra.
Quán Thế Âm Bồ Tát có
thể hóa hiện ra 84.000 cái đầu, 84.000 cánh tay và 84.000 con
mắt để cứu độ chúng sinh. Tại sao Bồ Tát lại có nhiều đầu, nhiều
tay, nhiều mắt như vậy? Nếu thật sự có thần thông diệu dụng thì
một đầu, một tay, một mắt cũng đủ sức biến hóa mà cứu độ chúng
sinh chớ đâu cần phải nhiều như thế? Vậy huyền nghĩa của kinh
như thế nào?
Vì chúng sinh mê mờ
tánh giác diệu minh nên mới xuất hiện 84.000 phiền não trần lao
khiến cho cuộc sống thêm điên đão, khổ đau. Do đó Phật, Bồ Tát
mới chế ra 84.000 phương pháp để đối trị. Đầu là biểu tượng của
trí tuệ, mắt là biểu hiện cho kiến tánh và tay là tượng trưng
cho diệu dụng cho nên nếu phiền não chướng của chúng sinh tới
mức nào thì Bồ Tát cũng có trí tuệ, kiến tánh và diệu dụng tương
ứng tới mức đó để giúp họ đối trị và thoát khỏi phiền não vô
minh và trở về sống với thể tánh tịnh minh trong sáng thanh tịnh
của chính mình. Nói cách khác sự huyền diệu nhiệm mầu là Bồ Tát
có đầy đủ thuốc để chửa lành tâm bệnh của tất cả chúng sinh. Nếu
hiểu theo Sự Tướng cạn cợt thì Quán Thế Âm Bồ Tát có ngàn đầu,
ngàn tay, ngàn mắt là để dễ dàng thấy nghe biết rõ mà cứu được
nhiều người.
Đức Phật Thích Ca sống
trong thế gian chỉ có một đầu, hai tay, hai mắt thì không có vị
Bồ Tát nào có nhiều đầu, nhiều tay, nhiều mắt như vậy được.
Nhưng nói theo Lý tánh thì nhiều đầu, nhiều tay, nhiều mắt là để
nói nên sự thức tỉnh trọn vẹn, trong sáng, nhìn thấu suốt và khả
năng cứu giúp chúng sinh vô bờ vô bến không ngăn ngại. Do đó nếu
chúng sinh tu hành chứng đắc viên thông thì kiến tánh này cũng
như có một ngàn (hay 84.000) vị Phật cho nên mới gọi là Thiên
Nhãn phóng ra hào quang sáng chói. Còn sống được với tự tánh
thanh tịnh bản nhiên cũng đồng diệu dụng như ngàn (hay 84.000)
vị Phật do đó mới gọi là Thiên thủ tác dụng và Trí tuệ vô cùng
vô lượng cũng ví như ngàn đầu. Vì thế khi chúng sinh sống được
với thể tánh tịnh minh thanh tịnh của mình thì cái chơn tâm
huyền diệu này loan tỏa khắp châu thân nên bất cứ trên người chỗ
nào cũng sáng suốt thì cũng như có ngàn, có vạn con mắt. Trí tuệ
bừng sáng cũng như có ngàn, có vạn cái đầu và có thần thông diệu
dụng cũng như có ngàn, có vạn cánh tay.
Còn nói cứu độ thì Đức
Quán Thế Âm cứu nhân độ thế bằng các nào? Cứu độ chúng sinh
không phải là người nghèo thì Bồ Tát cho tiền, ban bố tài vật.
Bồ Tát là người tu hành, buông bỏ tận cùng thì làm gì có tiền để
bố thí? Người cầu con trai Bồ Tát cho con trai, người cầu con
gái Bồ Tát cho con gái hay cầu gì thì được nấy. Bồ Tát tâm bình
đẳng thì làm gì còn phân biệt trai, gái. Con trai là ám chỉ cho
phước đức trí tuệ còn con gái là đoan chính, phước đức dịu dàng.
Cứu độ ở đây phải được hiểu là giúp chúng sinh nương theo Chánh
Pháp mà sống nghĩa là suy nghĩ thiện, nói lời lành, hành động
tốt và sau cùng dựa theo pháp tu “phản văn văn tự tánh” để có
giải thoát giác ngộ. Con người khổ vì chạy theo tư kỷ và làm nô
lệ cho tham-sân-si.
Bây giờ thấu hiểu
Chánh Pháp thì biết rằng vạn pháp giai không cho nên có hạnh
phúc hay không là chỗ biết sống, biết gói ghém, biết đủ chớ
không phải là quan tâm, lo lắng để tạo tác thêm cho những cái
chưa có. Có người nghĩ rằng mình nghèo khổ nên thiếu hạnh phúc.
Chính Đức Phật còn nghèo hơn quý vị mà tại sao Ngài là người an
lạc nhất trên thế gian? Vậy Bồ Tát cứu độ ở đây là truyền giao
Phật Pháp, giúp chúng sinh hồi đầu quay về sống với tự tánh
thanh tịnh bản nhiên của mình thì an lạc, Niết bàn tự hiển lộ.
Quán Thế Âm Bồ Tát là
biểu tượng cho đại từ đại bi cho nên việc Ngài có nhiều đầu,
nhiều tay, nhiều mắt là cách nói để xiển dương khả năng phát
triển tối đa tâm đại từ đại bi của chúng sinh đó thôi. Vì thế
nếu chúng sinh biết mở tâm đại từ đại bi để biết yêu thương, cứu
giúp người thì vào thời điểm đó Đức Quán Thế Âm đang ngự trong
tâm của ta rồi, ngược lại nếu con người sống ích kỷ, chạy theo
tham đắm dục tình cho riêng mình thì Ngài Quán Thế Âm biến mất
và trong tâm của ta được thay thế bằng cảnh tượng lo lắng, khổ
đau, địa ngục A tỳ. Nên nhớ “Văn dĩ tải đạo” nghĩa là “được ý
quên lời” tức là lời văn chỉ dùng để chuyên chở, truyền giao
Phật Pháp chớ lời văn không bao giờ là Phật Pháp được, đừng nên
hiểu sai lầm.
2) Tánh nghe và suy
nghĩ của tôi thoát ngoài sáu trần, như âm thanh luồn xuyên qua
vách. Do sức nhiệm mầu vô tác, tôi hiện nhiều hình tướng nói
nhiều chơn ngôn đem lại cho chúng sinh sức vô úy. Vì vậy cõi
nước trong mười phương nhiều như vi trần đều gọi tôi là vị Bồ
Tát “thí vô úy”.
Thông thường con người
nghe là do âm thanh dựa vào sắc thanh hương vị xúc pháp tác dụng
qua lại với nhĩ căn. Nói cách khác, tất cả âm thanh nghe được
đều dựa vào sáu trần cả. Nhưng Quán Thế Âm Bồ Tát thì ngược lại
bởi vì tánh nghe và suy nghĩ của Ngài không còn lệ thuộc sáu
trần. Chúng sinh vì còn duyên với trần tướng nên vọng thức phát
khởi liên miên khiến tâm bất tịnh, chạy theo tham đắm dục tình
mà kết quả là có nhiều phiền não khổ đau. Bây giờ nếu con người
biết làm chủ sáu căn của mình tức là nghe thì nghe tất cả mà như
không nghe cái gì hết, thấy thì cái gì cũng thấy mà như không
thấy gì hết thì cũng như đóng bít sáu trần nên tham dục, vọng
trần không lọt được vào tâm. Tâm lặng lẻ thì tự tánh hiện bày.
Đó chính là “kiến sắc phi can sắc, Văn hương bất nhiễm hương”.
Con người hằng ngày
nói rất nhiều: Chúng ta nói thiện, nói ác, nói xa, nói gần, nói
chuyện mình, chuyện người, chuyện không nói có, chuyện có nói
không, nói băm nói bổ, nói bấc nói chì, nói bóng nói gió, nói
cạnh nói khóe, nói dối nói đãi bôi, nói khoác nói láo, nói móc,
nói nhăng nói cuội, nói quanh nói co, nói trời nói đất… Nói càng nhiều thì tâm
càng bất tịnh, khiến vọng tưởng phát sinh mà nếm mùi đau khổ. Vì
vậy mà các người tu thiền họ chỉ ngồi (tọa thiền) hay đi thong
thả (thiền hành) để suy tư mà không nói.
Do đó Đức Quán Thế Âm
nói nhiều chân ngôn ở đây là muốn dạy chúng sinh thay vì nói
nhiều thì hãy đọc tụng thần chú để tâm quy tâm về một chỗ mà có
được sự thanh tịnh, an nhàn. Đối với những người tu Mật tông thì
họ thực tập tam mật tương ưng. Đó là miệng niệm thần chú, tay
bắt ấn tam muội, ý chỉ nghĩ về Phật nên bộ ba thân, khẩu, ý dần
dần được thanh tịnh cũng giống như (tương ưng) chư Phật vậy. Một
khi chúng sinh làm chủ tâm mình tức là biết rằng tâm mình chính
là tâm Phật thì còn sợ cái gì? Thân thanh tịnh thì không còn làm
điều sai trái, miệng thanh tịnh thì không còn nói lời bất tịnh,
thương tổn đến người và ý thanh tịnh nên không còn suy nghĩ về
tham-sân-si nữa tức là có sức vô úy rồi.
3) Sự tu tập của tôi
là phát huy căn bản thanh tịnh sẵn có nên tôi được “viên thông”
mầu nhiệm. Đi đến thế giới nào, chúng sinh cũng xả thân, hy sinh
trân bảo cầu được tôi thương xót.
Phát huy căn bản thanh
tịnh sẵn có là bồi dưỡng cái tánh giác diệu minh thường có trong
tất cả mọi chúng sinh, nghĩa là biết xoay tánh nghe để nghe
tiếng nói thanh tịnh của chơn tâm. Cũng như trong kinh Pháp Hoa,
Phật khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến tức là cái tri
kiến thanh tịnh, trong sáng nhiệm mầu của mình. Nói cách khác,
tri kiến Phật chính là chơn tâm, Phật tánh vậy.
Vì sự huyền diệu của
pháp tu “phản văn văn tự tánh” của Ngài Quán Thế Âm nên tất cả
chúng sinh nếu biết áp dụng rốt ráo thì ai ai cũng có thanh tịnh
an lạc Bồ Đề Niết bàn cả.
4) Tôi có được Phật
tâm, chứng ngộ đến chỗ cứu cánh cho nên có thể đem các thứ trân
bảo cúng dường thập phương Như Lai. Đến như lục đạo chúng sinh
trong pháp giới muốn cầu con được con, muốn cầu tam muội được
tam muội, muốn cầu trường thọ được trường thọ, cho đến cầu đại
Niết bàn cũng được đại Niết bàn.
Quán Thế Âm Bồ Tát
chứng ngộ đến chỗ cứu cách, Phật tâm hiển lộ nên Ngài đem các
thứ trân bảo cúng dường thập phương chư Phật.
Câu kinh này mới nghe
thì thấy có sự tương phản. Tại sao? Khi tu hành đến chỗ rốt ráo
sắp thành Phật thì Ngài làm gì có tiền bạc hay trân châu mà đem
đến cúng dường chư Phật. Đó là chưa kể chư Phật đâu có cần những
thứ giả tạm phù du này. Vậy ý của kinh là gì? Thâm ý của đoạn
kinh này là Quán Thế Âm Bồ Tát đem đến cúng dường thập phương
Như Lai bằng chính Phật tâm của chính mình bởi vì một khi có
được Phật tâm thanh tịnh thì nó còn quý hơn cả trân châu bảo
ngọc của thế gian. Vì thế đoạn kinh này nhắc nhở chúng sinh rằng
sự cúng dường cao thượng nhất, quý báu nhất cho chư Phật là bằng
chính bản tâm thanh tịnh của chính mình nghĩa là không có thứ
vật chất hay hoa quả nào trên thế gian này cao quý để cúng dường
chư Phật bằng Phật tâm, Phật tánh của mình cả. Do đó hằng ngày
chúng sinh cố gắng hóa giải bớt vô minh phiền não để có một phần
thanh tịnh Niết bàn thì đây chính là sự cúng dường chư Phật cao
thượng nhất vậy.
Quán Thế Âm Bồ Tát là
một vị Đẳng Giác Bồ Tát tức là (sắp) ngang hàng với Phật nghĩa
là Ngài là một vị Bồ Tát xuất gia chớ không phải là Bồ Tát tại
gia nên không thể lấy hình tướng của một cô gái Tàu mà gọi là
Phật (Bà) được,
mặc dù đối với Bồ Tát thì không còn tướng nam tướng nữ. Thêm
nữa, phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa và chương Quán Thế Âm nhĩ
căn viên thông của kinh Lăng Nghiêm thì Đức Quán Thế Âm trong
pháp hội này là người nam chớ đâu phải tướng nữ. Vì niềm tin
trong nhân gian, con người có thể gọi Đức Quán Thế Âm là Phật
Bà, nhưng người học Phật Pháp thì không thể gọi như vậy.
Tại sao? Vì trong ba đời chư Phật thì Phật quá khứ là Phật A Di
Đà, Phật hiện tại là Đức Thích Ca và Phật tương lai là Phật Di
Lặc chớ không còn vị Phật nào nữa. Còn tất cả các vị như Đại Thế
Chí, Quán Thế Âm, Văn Thù hay Phổ Hiền chỉ là Bồ Tát, nhưng họ
không phải là những vị Bồ Tát tầm thường mà là những đại sĩ Bồ
Tát vì tất cả đều chứng quả Đẳng Giác tức là họ đã thấu hiểu
chân lý gần tới 99% nên sắp thành Phật mà tiếng Phạn gọi là Ma
Ha tức là đại. Khi họ diệt được sanh tướng vô minh tức là cái vô
minh rất vi tế, cực nhỏ nghĩa là chứng ngộ chân lý 100% thì họ
sẽ thành Phật.
Chẳng những thế Phật
giáo Trung Hoa ngày nay còn vẽ hình tượng của Đức Quán Thế Âm,
Ngài Đại Thế Chí và ngay cả Đức Phật A Di Đà đều có đeo trân
châu, tràng phan, bảo cái trên người tạo ra sự hiểu lầm bởi vì
có người thắc mắc rằng tu hành là buông bỏ tận cùng mới chứng
được thánh quả thì tại sao Bồ Tát hay Phật lại còn dính mắc,
tham đắm vật đẹp cao sang? Thật ra, không có vị Bồ Tát hay vị
Phật nào đeo trân châu, bảo ngọc, áo lụa, tràng hoa cả vì những
hình tướng đó là do óc tưởng tượng ảo huyền của mấy ông họa sĩ
Trung Hoa chớ có ai thật thấy Đức Quán Thế Âm, Đại Thế Chí hay
ngay cả Phật A Di Đà đâu mà vẽ hình tạc tượng. Không hiểu mấy
ông họa sĩ Tàu nghĩ thế nào mà vẽ trên toàn thân thì cho mặc áo
lụa, quần là, đeo đầy trân châu bảo ngọc mà lại đi chân đất?
Nếu đã “giàu sang hóa”
thì phải giàu hết từ trên xuống dưới còn nếu nghèo thì phải
nghèo sát đất như Đức Phật Thích Ca và tất cả đệ tử của Ngài thì
mới gọi là Khất sĩ được chứ. Thí dụ trên bàn để trái chuối hay
trái cam mà năm người vẽ theo năm kiểu khác nhau bởi vì vẽ là
phác họa lại cảnh giới dựa theo kinh nghiệm hiểu biết của từng
người. Trái cam, trái chuối là vật vô tri, không thay đổi, nhưng
người họa sĩ cộng thêm cái ngã kiến của họ vào thành thử mới có
sự khác biệt. Nhưng Phật dạy “Pháp nhĩ như thị” nghĩa là vật thể
như thế nào cứ thấy biết trung thực như thế đó. Do đó Đức Phật
quấn y thì cứ vẽ quấn y chớ đừng sửa lại thành áo thụng. Nếu cho
rằng quấn y là xấu thì làm sao xứng đáng là đệ tử Phật được? Ứng
thân Đức Phật Thích Ca là người Ấn Độ, sống và nhập diệt tại Ấn
Độ chớ Ngài đâu có chọn Trung Hoa để đản sinh? Đức Phật Thích Ca
quấn y thì ai dám bảo đảm Đức Phật A Di Đà mặc áo thụng?
Ngày xưa Đức Phật còn
sinh tiền, Ngài đi chân đất, đầu đội trần, mình chỉ quấn một
chiếc y thế thì trân châu hột xoàn đeo ở đâu? Đây mới là hình
ảnh trung thực nhất của một vị Phật hay Bồ Tát. Không phải Đức
Phật không thể có, nhưng người đã giác ngộ thì không cần những
thứ này. Trước khi xuất gia, Ngài đeo đủ thứ ngọc ngà châu báu
mà cảm thấy như đeo còng đeo xích, u ám nặng nề. Sau khi xuất
gia, Ngài mình trần chân trụi mà thân tâm nhẹ nhàng thanh thoát,
an vui tự tại. Đây chính là nét đặc thù, thánh thoát thanh cao
của đạo Phật nói lên sự buông bỏ tận cùng.
Vì thế nếu không thấu
hiểu thì chắc chắn sinh ra biết bao chuyện mê tín hoang đường,
tin tưởng sai lầm, tăng trưởng lòng tham đắm si mê trái với giáo
lý nhân quả của nhà Phật. Thật ra Bồ Tát đâu có cần những thứ
phù du giả tạm đó cho nên Quang Nghiêm Đồng Tử Bồ Tát trong kinh
Duy Ma Cật đã dùng ánh sáng của trí tuệ và công đức để trang
nghiêm cho Pháp thân làm cho chúng sinh đều kính phục là vậy.
Bây giờ nếu dựa theo lý tánh tức là thâm ý của kinh thì trân
châu, bảo ngọc là muốn ám chỉ cho Phật tâm, Phật tánh thanh tịnh
chớ không dính dáng gì tới Kim Cương hột xoàn cả.
Thế nào là trường thọ?
Phải chăng đó là sống lâu, sống ngoài trăm tuổi? Ngày xưa tôn
giả La Hầu La chứng thánh quả lúc mới 20 tuổi và nhập diệt lúc
ngoài 50 vì thế nếu dựa theo định nghĩa của thế nhân thì Ngài La
Hầu La chắc chắn không phải là người trường thọ. Nhưng trong đạo
Phật thời gian là vô thường, không có ý nghĩa, giá trị gì hết
bởi vì một ngày ở những hành tinh khác có thể dài bằng một thế
kỷ ở địa cầu. Vậy thời gian nào là thời gian thật? Một người
chứng đạo tuy chỉ sống một ngày còn giá trị hơn một người thường
sống trên trăm tuổi. Thêm nữa, người hiểu đạo coi sống chết là
sự đi về, hợp tan là trò dâu biển nên chẳng có gì quan trọng.
Vậy trường thọ ở đây là chân lý vĩnh hằng, là sự thức tỉnh giác
ngộ để đem lại sự an lạc thanh tịnh Niết bàn chớ không phải là
tuổi thọ của con người. Vì thế mà Ôn Như Hầu cũng nói rằng :
“Trăm năm còn có gì
đâu
Chẳng qua một nấm cổ
khâu xanh rì”.
Khi nói về vợ chồng
con cái, kinh Bát Đại Nhơn Giác có câu: “Dính vào vợ chồng con
cái còn nguy hại hơn là ở tù bởi vì ở tù thì còn có ngày ra, còn
vướng vào chồng vợ là tự mang bản án chung thân, không có ngày
giải thoát”. Do đó đạo Phật không khuyến khích mà cũng không
chống đối việc dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, việc đó tùy ở
chúng sinh. Ngay cả việc xuất gia cũng tùy ở chúng sinh, nếu ai
có duyên với cửa Phật thì xuất gia vậy thôi. Vì thế không có
chuyện ai cầu con trai Bồ Tát cho con trai hay cầu con gái thì
Bồ Tát cho con gái. Đây là nói theo nghĩa đen của kinh (sự
tướng) chớ còn dựa theo lý tức là thâm ý của kinh thì con trai
đồng nghĩa với phước đức trí tuệ và con gái tức là đoan chính tứ
hảo cho nên cứ y theo kinh mà giải nghĩa là hàm oan cho ba đời
chư Phật và nếu hiểu kinh chỉ một bên thì tai hại vô cùng.
Khi chúng sinh biết
xoay tánh nghe vào trong để nghe tiếng nói thanh tịnh của tâm
mình thì sở văn bị ngăn bít nên tâm trở thành thanh tịnh tức là
có được Niết bàn. Do đó nếu áp dụng rốt ráo pháp tu của Bồ Tát
thì có Niết bàn là vậy chớ không phải cầu cho mình có được Niết
bàn mà tham-sân-si không hóa giải, tánh tham tật đố không chừa
thì cho dù có cầu đến muôn kiếp cũng không bao giờ có được Niết
bàn.
Bạch Thế Tôn! Nay Phật
hỏi nguyên nhân chứng đắc “viên thông” xin thưa rằng : Tôi từ
cửa ngõ “nhĩ căn” quán chiếu đến tột cùng viên mãn về “âm văn”
(nghe và tiếng) mà được tam muội. Đối với tôi, tư duy và quán
chiếu tánh nghe và tiếng của nhĩ căn là ưu việt nhất.
Bạch Thế Tôn! Đức Quán
Thế Âm Như Lai từ thuở xa xưa ấy đã khen tôi khéo được quán viên
thông, ở trong đại chúng, Phật thọ ký cho tôi danh hiệu Quán Thế
Âm bởi vì tánh nghe và thấy tròn sáng châu biến mười phương,
danh hiệu Quán Thế Âm cũng phổ cập trong lục đạo chúng sinh mười
phương thế giới.
Nhĩ căn có đủ 1200
công đức bởi vì cái nghe thì không ngăn ngại bởi vật chất nên ở
trong cũng nghe, ở ngoài cũng nghe, bên trên cũng nghe, ở dưới
cũng nghe. Nói chung,
tai có thể nghe được âm thanh bất cứ từ nơi nào. Hễ có âm thanh
là tai nghe được. Ngược lại nhĩ căn cũng có đủ 1200 điều kiện
khiến chúng sinh tạo nghiệp nếu họ không tự chủ được cái nghe
nghĩa là để cái nghe chạy theo thanh trần vô minh phiền não.
Ngoài ra nhĩ căn có ba đức tính là Viên, Thông và Thường. Thứ
nhất “Viên” tức là viên mãn nghĩa là ở đâu mà có âm thanh thì
tai có thể nghe được. Đức tính thứ hai của tai là “Thông” tức là
không bị ngăn bít. Thí dụ một người đánh trống ở căn nhà kế bên
mà chúng ta có thể nghe tiếng trống rất rõ ở trong nhà mình. Đức
tính thứ ba là “Thường” tức là lúc nào cũng nghe. Thí dụ như có
âm thanh thì nghe tiếng tức là nghe động. Còn không có âm thanh
thì tai nghe tĩnh. Vì thế khi tham thiền nhập định, tuy rất yên
lặng, không có tiếng động, nhưng hành giả vẫn có thể nghe rất xa
và rất rõ những âm thanh huyền diệu mà được gọi là Diệu Âm.
Pháp tu “phản văn văn
tự tánh” là một pháp môn tu thiền định rất huyền diệu giúp hành
giả đạt được tam muội tức là có chánh định và tiến về con đường
giải thoát giác ngộ là thành Phật. Quán Thế Âm chỉ là nhân cách
hóa một pháp môn mà trong đó hành giả lấy tự Tánh sẵn có làm
định tức là cái định viên mãn, bền chắc nhất sẵn có của tự tâm
chớ không dụng công phu tu tập lâu ngày theo phương pháp
Chỉ-Quán.
Cái khả năng tu Định
này không nhất thiết chỉ có trong Ngài Quán Thế Âm mà thật ra nó
có trong tất cả mọi chúng sinh vì thế nếu người đệ tử Phật biết
thực hành rốt ráo để xoay tánh nghe trở về nghe tiếng nói thanh
tịnh phát xuất từ trong bản tâm của chính mình tức là lìa xa đối
tượng thanh trần (sở văn) thì sẽ nghe được Diệu Âm huyền diệu
nhiệm mầu và sau cùng chứng đắc viên thông tự tại. Khi nào hành
giả nghe được tiếng diệu âm đó thường xuyên liên tục ở trong tâm
mình thì 32 ứng thân, 14 đức vô úy và 4 diệu đức nhiệm mầu cũng
chỉ là sự biểu hiện của “vô tác diệu lực” nghĩa là hành giả
không cần dụng công tác ý mà nó tự biến hiện một cách trong sáng
thanh tịnh cũng như ánh sáng mặt trời lúc nào cũng chiếu sáng.
Nói tóm lại, pháp tu
“phản văn văn tự tánh” hay được gọi là “Tự tánh bổn định” của
Ngài Quán Thế Âm là dùng nhĩ căn để tu. Một khi thực hành lối tu
này, hành giả tuyệt đối phải chấm dứt tất cả mọi tri giải tức là
sự hiểu biết, suy luận, không nên bận tâm vào bất cứ vấn đề gì
để giữ cho thân tâm được thanh thản an nhiên. Hành giả phải định
tâm trong pháp giới tánh vô vùng vô tận của tánh nghe mà không
được quan tâm đến mọi hiện cảnh trước mắt cũng ở như trong tâm.
Khi đã cô động ở tánh nghe thì tất cả những hiện tượng ngoại
cảnh không còn chi phối được nữa.
Nói cách khác hành giả
phải diệt hết tâm thức để chỉ còn duy nhất tánh nghe bởi vì tâm
thức và tánh nghe cũng ví như tấm gương và hình ảnh rọi vào. Khi
thức phát khởi thì gọi là nhớ biết cũng như hình ảnh hiện vào
tấm gương và khi thức diệt thì gọi là quên cũng như hình ảnh mất
đi. Tuy hình ảnh có đến, có đi nhưng ánh gương không bao giờ
mất. Vì thế tâm thức có thay đổi nhưng tánh nghe không hề gia
giảm. Khi hành giả nắm được thể tánh chiếu diệu của tánh nghe
thì tiếp tục khởi công tu luyện “vi mật quán chiếu” nghĩa là
xoay tánh nghe về nghe được tiếng nói của bản tâm thanh tịnh
nhiệm mầu “Diệu Âm”. Nên nhớ tự tánh bổn định là cái định sẵn
có, thường hằng, không ngoài tự tánh bất động, viên dung. Đây
mới thật là một pháp môn thù thắng vi diệu cho tất cả mọi người
đang đi trên con đường giải thoát giác ngộ.
Thêm nữa, tuy chúng
sinh có diệt hết tất cả những điều thấy, nghe, hay, biết nhưng
trong tâm vẫn còn giữ cái u nhàn tịch tịnh thì bóng dáng của
pháp trần phân biệt chưa diệt được bởi vì các pháp vốn là
“không” nên nếu bỏ ngoại trần mà nương vào nội tướng thì chẳng
khác nào cảnh giới bên ngoài vẫn còn hiện trong gương nghĩa là
trong ức niệm vẫn còn tồn tại những chủng tướng ngoại vật. Vì
thế giữ cái u nhàn tịch tịnh tức là cái hình bóng pháp trần vẫn
còn đó, chưa thể diệt được. Tại sao?
Bởi vì cảnh là pháp
trần duyên với tâm mới có sự phân biệt cho nên cảnh và tâm không
thể rời nhau. Mà có phân biệt là có vọng động thì làm sao có
thanh tịnh. Định của Thủ Lăng Nghiêm là tự tánh bổn định nên
thường hằng, lúc nào cũng có. Cái định này khác hẳn với định có
xuất có nhập nghĩa là nhập thì có định, xuất thì định mất cho
nên định đó vẫn không thoát khỏi luân hồi sinh diệt. Lục Tổ ngày
xưa nói rằng: “Có xuất, có nhập thì không phải là đại định” là ở
chỗ này. Do đó, những pháp tu Chỉ Quán, tham thiền hay niệm Phật
gián đoạn chỉ có thể đạt đến cái “định” nhất thời, có đến rồi
đi. Ngược lại Định Thủ Lăng Nghiêm là đại định phát huy từ trong
bản tánh của mọi chúng sinh nên cái định này mới thật sự bền
chắc, trường tồn và vĩnh viễn ở với chúng ta.
PHẦN TÓM LƯỢC PHÁP TU QUÁN THẾ ÂM NHĨ CĂN VIÊN THÔNG.
Vì sự huyền diệu của
pháp tu phản văn văn tự tánh nên một lần nữa chúng tôi cố gắng
nhắc lại những điểm quan trọng trong kinh để quý Phật tử chú tâm
hạ thủ công phu ngỏ hầu có thể chứng đắc được viên thông tự tại.
Phản văn văn tự tánh
là chuyên nghe trở lại tự tánh của chính mình. Thông thường
chúng sinh nghe bằng nhĩ căn (lỗ tai) và hiểu biết bằng nhĩ
thức, nhưng tánh nghe trong nhĩ căn là cái lý thể vô phân biệt
nghĩa là cho dù có âm thanh hay không thì tánh nghe vẫn sáng tỏ
rõ ràng cũng như tấm gương dù có hình hay không lúc nào cũng
sáng tỏ. Đừng hiểu lầm là khi không có âm thanh thì không nghe
gì hết bởi vì có âm thanh là nghe động, còn không có âm thanh
thì nghe tĩnh.
Nhưng trước khi có thể
nghe được tánh nghe, hành giả phải lìa xa tất cả vọng niệm nghĩa
là nghe tất cả mà như không nghe gì hết, không đem bất cứ ý niệm
nào cho dù đó là thiện ác, tốt xấu vào tâm thì thể tánh thanh
tịnh của tánh nghe mới có thể hiển hiện được. Hành giả tĩnh tọa
(ngồi yên thanh tịnh để tĩnh tâm chớ không nhất thiết phải ngồi
kiết già) cho đến lúc một niệm cũng không sanh thì tánh nghe
trong sáng, chiếu diệu và không còn ngăn ngại bắt đầu phát hiện
cho đến lúc bên ngoài không còn tiếng động thì tánh nghe lúc ấy
sẽ lan rộng cùng khắp, không còn giới hạn. Đây là giai đoạn khó
nhất bởi vì nó đòi hỏi hành giả phải kiên trì công phu để hồi
quang phản chiếu vào tự tánh của mình cho đến một niệm cũng
không còn dấy khởi.
Hành giả chú tâm vào
tự tánh thanh tịnh thì gọi là nhập lưu còn nếu vọng ngoại theo
âm thanh bên ngoài thì gọi là xuất lưu. Vì thế, nếu hành giả
không chú tâm vào âm thanh bên ngoài mà chỉ hướng vào trong tánh
nghe thanh tịnh thì tất cả những phân biệt thô thiển sẽ không
còn và lúc bấy giờ tánh nghe sẽ hiện rõ trong sáng như mặt trăng
trong suốt. Ngược lại nếu trong một thoáng giây hành giả lưu tâm
đến âm động bên ngoài thì tánh nghe sẽ mờ mịt, không còn sáng
suốt nữa. Do đó dựa theo Bát Nhã thì động tịnh đều “Không” nên
hành giả không còn quan tâm đến động tịnh thì mới thấy được “tự
tánh bổn định” của mình. Trong thời gian hạ thủ công phu, hành
giả càng ít nói, ít động càng tốt.
Vì tánh nghe lặng lẽ
thanh tịnh nên có người lầm tưởng tịnh trần (cảnh giới yên tịnh)
là tánh nghe. Thanh trần gồm có hai phần là động tức là âm thanh
và tĩnh tức là vắng lặng. Tánh nghe là bản tâm còn tịnh trần là
cảnh. Tâm là linh tri bất muội còn cảnh là vô tri nên rất dễ
phân biệt. Đến đây hành giả lần lần đi sâu vào định, phải tập
thu nhiếp niệm thành định rồi từ sức định đó sẽ cảm biết bao la
rộng lớn. Nhưng đây cũng vẫn còn là cảnh giới yên lặng của tịnh
trần. Cứ tiếp tục đi sâu vào định thì đến đây không cần nhiếp
niệm mà không còn niệm tức là đến chỗ Vô tác diệu lực nghĩa là
lắng nghe âm thanh, tiếng lòng thanh tịnh của mình đến trình độ
không cần loại bỏ những tâm niệm xấu ác nữa mà tự nó đã xóa sạch
hết những điều xấu ác, bất thiện thì tịnh trần cũng không còn.
Hành giả lúc bấy giờ sẽ ngộ được tự tâm và thấy rõ tánh nghe vô
cùng thanh tịnh, không do nhiếp niệm mà thành, không nương vào
ngoại cảnh mà có. Cứ tiếp tục hạ thủ công phu, càng đi sâu vào
định thì tánh nghe càng tỏ và dĩ nhiên động và tịnh trần biến
mất. Một khi thanh trần bị diệt thì những trần còn lại là sắc,
hương, vị, xúc, pháp cũng đều bị diệt. Hành giả tu đến đây là
chứng được sơ quả của Nhị thừa là Tu Đà Hoàn.
Cái âm thanh bên ngoài
tức là sở văn đã bị diệt thì cái nghe tức là năng văn không còn
đối tượng để duyên cho nên căn và trần cũng không còn. Căn không
còn, sở không còn thì lấy gì lập năng sở cho nên năng sở cũng
không. Căn trần dứt, năng sở tiêu tan thì tất cả những thấy biết
sai lầm và tập nghiệp của Kiến hoặc và Tư hoặc đều chấm dứt và
hành giả chỉ còn một Pháp Tánh gọi là Nhơn không. Tu đến đây là
chứng được thánh quả A la hán.
Nên nhớ căn diệt,
nhưng tánh vẫn còn cho nên khi hành giả không còn bị căn trần
chi phối thì sở giác (cảnh được ngộ) hiện ra. Có sở giác thì lập
tức trí ngộ, trí chứng được thành lập tức là năng giác. Tuy là
giác mà có năng có sở thì tâm lại khởi phân biệt nên hành giả
phải tiếp tục đi vào định để loại bỏ cả năng lẫn sở bởi vì nếu
hành giả cố giữ ý niệm về giác thì cũng không được mà phải xóa
bỏ luôn ý niệm năng giác về mình và sở giác là đối tượng giác mà
mình cố giữ gìn, bám víu vào đó.
Đến đây trí năng giác
và cảnh sở giác đều rỗng lặng, không còn đối đãi nên lìa được
pháp chấp và dứt được tất cả những vi tế phiền não. Sau khi đã
xóa bỏ hoàn toàn năng giác, sở giác thì tâm rỗng rang lặng lẽ và
thấy vạn pháp như rỗng Không. Rỗng Không là thấy vạn pháp là đối
tượng “sở không” còn trí của mình là “năng không” nên mới có sự
phân biệt năng không, sở không. Sau cùng hành giả phải diệt hết
cái biết trống không tức là đừng bám víu vào cái giác tri rỗng
không ấy tức năng không, sở không cũng bỏ hết, chẳng còn gì để
phân biệt. Năng Không và Sở Không đều diệt mất tức là đã giải
thoát khỏi “pháp” tức là đạt được “Pháp Không”. Đến đây thì thể
tánh chơn quang hiển lộ và tất cả trần sa hoặc đều bị tiêu trừ.
Sau cùng ý tưởng về
sanh diệt cũng diệt luôn nghĩa là dù biết thế giới là sinh sinh
diệt diệt, nhưng hành giả phải diệt đi cái quan niệm sinh diệt
của vạn pháp chớ đừng thấy vạn pháp sinh mà vui mừng, tham đắm,
say mê và vạn pháp diệt thì phiền não, khổ đau. Hành giả tiếp
tục vào định thì chỉ một thời gian ngắn thì lý tánh sẽ hiển lộ
và sau cùng thoát ly được diệt tướng. Sanh diệt đã diệt thì Tịch
Diệt hiện tiền nghĩa là tự tánh Bồ Đề hiển hiện tức là vào
Tam-ma-đề, chứng vô sanh pháp nhẫn và viên thông tự tại.
Thủ Lăng Nghiêm đại
định là định rất kiên cố, vững chắc nhất để phát sinh vô lượng
trí tuệ. Có cái định này thì tâm lúc nào cũng “như như bất động,
liễu liễu thường minh” nghĩa là cho dù thế gian vũ trụ có biến
đổi, hấp dẫn, quyến rũ cách mấy thì tâm người có định này vẫn
yên lặng, thanh thản, không bị ngoại trần chi phối và họ lúc nào
cũng sống với tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu. Đó chính là
“Kiến sắc phi can sắc, Văn hương bất nhiễm hương” vậy.
Tóm lại pháp tu Quán
Thế Âm nhĩ căn viên thông có thể tóm gọn như sau :
1) Diệt ĐỘNG thì TỊNH
sanh
2) Diệt TRẦN thì CĂN
sanh
3) Diệt CĂN thì GIÁC
sanh
4) Diệt GIÁC thì KHÔNG
sanh
5) Diệt KHÔNG thì TỊCH
DIỆT sanh tức là có thanh tịnh Niết bàn.
Một khi chơn tâm, Phật
tánh hiện tiền thì sơn hà đại địa sẽ chuyển hóa thành tri giác
vô thượng và từ đó thần thông diệu dụng phát sinh.
Từ khi Đức Phật Thích
Ca thành đạo đến nay, chỉ có một pháp tu Quán Thế Âm nhĩ căn
viên thông tức là lối tu “phản văn văn tự tánh” của kinh Thủ
Lăng Nghiêm mà không hề có lối tu Quán Thế Âm nào khác. Trong
Phật giáo, không có lối tu tắt hay sự chứng đắc, thành đạt là do
bất cứ ai trao tặng mà tự mình phải đi bằng chính đôi chân của
mình, bằng tất cả sự nỗ lực tinh tấn công phu của mình. Vì thế
nếu có pháp môn Quán Âm nào khác thì đây chắc chắn là của tà
đạo, không dính dấp gì đến pháp tu Quán Thế Âm nhĩ căn viên
thông của Phật giáo cả. Người đệ tử Phật rất dễ dàng phân biệt
rằng những người chứng đắc viên thông của Phật giáo tất cả đều
là Khất sĩ nghĩa là họ đã từ bỏ tất cả những dục vọng
tham-sân-si, tâm hằng thanh tịnh nên họ có được Bồ Đề, Niết bàn
tự tại. Còn yêu ma tà đạo thì ngược lại, miệng nói giải thoát mà
tay cứ muốn ôm vô thêm, dạy người bố thí còn mình thì lại thu
vào.
Khi đã thâm hiểu hạnh
nguyện của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát thì chúng sinh từ nay chỉ
đảnh lễ trước tôn tượng của Ngài với tấm lòng kính ngưỡng chớ
không còn cầu nguyện, van xin cái gì cả bởi vì đạo Phật không
phải là đạo tín ngưỡng mà là đạo thực hành vì có thực hành rốt
ráo mới có thực chứng để đạt đến những thành quả nhiệm mầu và
biến cuộc sống đang phiền não khổ đau trở thành thanh tịnh an
lạc Niết bàn. Vì sao đạo Phật chỉ dạy chúng sinh tin sâu vào
nhân quả mà không dạy cầu nguyện? Bởi vì cầu nguyện chỉ có thể
giúp con người có được sự an bình trong nhất thời, trong giây
phút chớ không thể giúp chúng sinh thật sự giảm bớt hay vĩnh
viễn thoáy ly được tất cả những hệ lụy của phiền não khổ đau mà
họ đeo mang từ vô thỉ đến nay.
Thật ra luật nhân quả
rất công bằng, hợp lý, không lệ thuộc vào không gian thời gian,
không chỉ áp dụng cho riêng một ai, một sắc dân nào hay cho
riêng tín đồ của bất cứ một tôn giáo nào cả. Ngày nay trong tiến
trình khám phá của khoa học, luật nhân quả được xem như là tiền
đề để giải quyết những khó khăn, những khám phá mới. Những tôn
giáo ngoài Phật giáo cũng nhìn nhận ảnh hưởng trung thực của
luật nhân quả trong đời sống của họ. Vậy có thể nói không riêng
gì Phật giáo, luật nhân quả là một quy luật chung cho toàn thế
gian vũ trụ.
Vì vậy không có việc
cầu nguyện để được tai qua nạn khỏi vì không có Phật trời nào
làm chuyện bất công bình để giúp đở những người cầu nguyện hay
trừng phạt những ai không cầu nguyện mà thật ra con người có
thoát khỏi tai họa là do những phước báu mà họ đã tạo tác từ
trước. Do đó, thay vì cầu nguyện, con người nên nỗ lực tạo dựng
vun bồi thêm phước đức. Nếu chúng sinh luôn nghĩ thiện, nói lời
thiện và làm việc thiện thì chắc chắn cuộc sống sẽ vô cùng an
vui tự tại mà không cần phải nguyện cầu chi hết.
Chúng sinh không cần
phải có túc mạng thông để biết tiền kiếp của mình đã tác tạo
những gì hay lo lắng tương lai mình sẽ đi về đâu mà chỉ cần nhìn
cái kết quả mình đang thọ báo và cái nhân mình đang gieo thì
biết rất rõ. Con người tạo cái nhân bao nhiêu thì chỉ gặt hái
chừng ấy kết quả chớ đừng mơ ước ảo huyền bỏ ra một đồng mà đòi
trúng lô độc đắc nghĩa là tham-sân-si không bỏ, tập khí không
chừa mà cứ muốn thành Phật.
Vì vậy, nếu chúng sinh
hiện đang sống khỏe mạnh, làm ăn phát đạt, gia đình hạnh phúc ấm
no, con cái nên người, trên thuận dưới hòa là họ đang thọ hưởng
“KẾT QUẢ” của phước báo từ nhiều đời nhiều kiếp trước do chính
họ tạo tác chớ không phải do Phật trời ban phát và chắc chắn
cũng không
phải do cầu nguyện mà
được.
Ngược lại, nếu chúng
sinh hiện đang gặp nghịch cảnh, luôn đối diện với phiền não khổ
đau trái ý nghịch lòng thì họ đang gánh chịu “HẬU QUẢ” của
nghiệp báo do chính họ tạo tác từ nhiều đời nhiều kiếp chớ không
do Phật trời giáng họa cho và dĩ nhiên cũng không do cầu nguyện
mà tránh khỏi được.
Một khi đã hiểu thấu
đáo sự công bình của luật nhân quả, chúng sinh sẽ mạnh dạn hơn,
can đảm hơn, dám nhận lãnh “hậu quả” do chính mình tạo tác hay
an nhiên thọ hưởng “kết quả” tốt lành cũng do chính mình tác tạo
mà không còn than trời oán Phật nữa.
Nên nhớ rằng chúng
sinh tạo nghiệp chớ nghiệp chẳng tạo chúng sinh. Cho dù “nghiệp
tánh bổn không” nghĩa là nghiệp vốn không phải là có sẵn tự bao
giờ mà nó chỉ xuất hiện do chúng sinh mê lầm chấp trước tạo ra.
Nếu thật sự nghiệp không có thật, không có chủ thể thì tại sao
lại có quả báo? Khi nói nghiệp tánh vốn không là đối với người
đã có giải thoát giác ngộ không còn tạo nghiệp thì làm gì có quả
báo. Trong khi đó chúng sinh còn tạo nghiệp thì dĩ nhiên còn thọ
báo, có gây nhân thì phải chịu kết quả vì thế nếu giữ bộ ba
thân, khẩu, ý thanh tịnh thì nghiệp không sanh nên cuộc sống trở
thành thanh tịnh an nhàn. Phật dạy: “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ”
nghĩa là nếu chúng sinh nỗ lực vun bồi thật nhiều thiện nghiệp
và đừng gây thêm nghiệp mới thì những nhân duyên tốt này sẽ giết
chết dần những chủng tử bất thiện đã gây ra khi xưa.
Trọng tâm cứu khổ của
Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một
khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành
mạnh. Có sức khỏe thì tất cả mọi giá trị vật chất sẽ có ở tầm
tay. Tâm kinh dạy rằng vật chất không ngoài tinh thần và dĩ
nhiên tinh thần không ngoài vật chất bởi vì tinh thần vật chất
tác động hữu cơ, bất tức bất ly. Vì thế, tất cả sự cứu độ của
Ngài Quán Thế Âm phải được hiểu là ban cho tinh thần, cho những
gì thuộc về lãnh vực giải thoát giác ngộ của tâm tư và ý thức.
Ngài Quán Thế Âm không bao giờ ban cho chúng sinh vật chất hữu
vi vì như vậy chẳng khác nào đẩy chúng sinh vào con đường khổ ải
triền miên không lối thoát. Con người hãy thức tỉnh mà tìm thấy
cho mình con đường sáng diệu dụng nhiệm mầu để tự mình giải
thoát ra khỏi mọi gông cùm của phiền não khổ đau.
Phải biết rằng tham
dục trần thế là vô hạn, nhưng con người lại không có khả năng
nhận ra chúng cho nên khi tham dục không được thỏa mãn thì sẽ
gây khổ đau cho mình và cho người. Cái đà thỏa mãn tham dục cũng
ví như chiếc xe đang chạy xuống dốc, càng xuống dốc thì xe càng
chạy nhanh. Khi chưa thỏa mãn những dục tính thì con người luôn
có khuynh hướng tiếp tục theo đuổi chúng cho đến khi được thỏa
mãn nghĩa là càng đeo đuổi thì tham dục càng tăng và càng gây
thêm đau khổ. Chúng sinh chỉ có thể nghiệm được chân hạnh phúc
và an nhiên tự tại khi có ít tham dục. Đây chính là một trong
những bước lớn hướng về giải thoát giác ngộ.
Được như vậy là thực
hành rốt ráo câu:
“Đa dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại…”
Đức Phật dạy rằng:
“Tham dục chính là nguồn gốc của khổ đau. Mọi vật rồi sẽ thay
đổi vì thế không nên luyến ái hay vướng víu vào một thứ gì. Nên
nhiếp tâm thanh tịnh tìm chân lý và đạt đến hạnh phúc vĩnh
hằng”. Con người biết tri túc thiểu dục là biết diệt trừ tham
dục nghĩa là họ biết thỏa mãn với những điều kiện vật chất khả
dĩ giúp họ có đầy đủ sức khỏe để sống và để tu đạo. Đây chính là
phương cách hữu hiệu nhất để cắt đứt lưới tham dục làm cho thân
tâm được thanh thoát nhẹ nhàng và dĩ nhiên có nhiều cơ hội để
giúp đở tha nhân. Thế nhân thường vui thích theo ái dục, ưa dong
ruổi lục trần vì thế tuy họ có hướng cầu an lạc mà vẫn bị quanh
quẩn trong chốn trầm luân. Vì thế những người say đắm theo ái
dục cũng như tự lao mình trong lưới buộc như nhện giăng tơ. Chỉ
có những ai dứt được sự ràng buộc, không còn dính mắc thì sẽ xa
mọi thống khổ mà tâm sẽ được an vui tự tại.
Nên nhớ thuyết nhân
quả chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa, giáo lý sinh diệt. Còn giáo
lý liễu nghĩa thì thiện ác là một, phiền não là Bồ Đề, sinh tử
là Niết bàn để giúp chúng sinh tiến thẳng về cứu cánh tột đỉnh
là giải thoát giác ngộ tức là sống với chơn tâm thường trú và
thể tánh tịnh minh của mình. Cho nên:
“Tâm không vạn sự đều
không
Tâm chơn vạn Pháp cũng
đều quy chơn”
|
|