Sắc bị vọng tưởng tác
động vào thanh trần làm mất đi cái hồn nhiên như thị khách quan
của sự vật, khó mà tu chứng “viên thông”.
Sắc là nói cho tất cả những vật thể có hình tướng của thế giới
hữu vi. Thí dụ như đóa hoa, cái nhà, cái xe, ngọn núi… Còn trần
là biểu tượng của nhiễm ô, không trong sạch. Nếu một người tâm
bất tịnh tức là còn nhìn đời bằng ánh mắt của tham đắm dục tình
thì nhìn cái gì cũng mê cũng thích, cũng muốn chiếm lấy nên sắc
bây giờ bị thanh trần làm nhiễm ô theo. Bởi vì chúng sinh nghĩ
rằng trong cái sắc có sự quyến rũ hấp hẫn lòng người khiến con
người hành động bất thiện. Nhưng nghĩ kỹ lại thì vật chất là vô
tri vô giác, tự tánh thanh tịnh bản nhiên chớ có quyến rũ ai
đâu. Cái mà con người gọi là hấp dẫn là bởi tại cái nhìn của họ
có tham đắm si mê chớ vật thể tự nó đâu có tham đắm si mê. Vì
vậy đối với những bậc đạo cao đức trọng thì sắc bây giờ không
còn là trần nữa vì cái nhìn của họ đối với thế gian là huyễn nên
chẳng có cái gì làm họ động tâm.
Do đó đối với họ thì “Kiến
sắc vi can sắc, Văn thanh bất thị thanh” nghĩa là tuy có thấy
sắc nhưng con mắt không chạy theo sắc và tai nghe âm thanh mà
cũng như không nghe gì hết, không bị lôi cuốn của âm thanh của
nhạc điệu. Vì vậy nếu sắc không bị vọng tưởng tác động thì không
thành “trần” cho nên người biết đạo thì sắc không thể gọi là
trần được.
Thanh âm kết hợp bỡi ngữ ngôn, biểu hiệu cụ thể của âm thanh là
danh ngôn và cú nghĩa. Tác dụng của âm thanh còn phiến diện khó
mà tu chứng “viên thông”.
Tất cả vật thể trên thế gian chỉ là vật thể do duyên khởi tác
tạo mà thành, nhưng con người lại đặt cho nó tên nầy tên nọ để
gọi. Thí dụ, nhìn vào vườn hoa thì nào là hoa huệ, hoa cúc, hoa
hồng, nhưng người Mỹ thì gọi là lily, mums hay rose thế thì cũng
một loài hoa nhưng mỗi nước gọi khác nhau thì đâu có ngôn ngữ,
lời nói nào là đúng hay đồng nhất? Con người thì có tên Minh,
tên Hoàng, tên John, tên Susan. Nhà thì có nhà lầu, nhà trệt,
nhà chọc trời, nhà tranh, nhà lá… Vì thế cái tên mà con người
dùng để gọi chỉ là âm thanh, ngôn ngữ, là pháp sinh diệt chứ
chẳng có gì là thật, là phản ảnh đúng hình tướng đó cả. Do đó
nếu dựa vào âm thanh sắc tướng làm nhân địa tu hành thì khó mà
chứng đắc được viên thông.
Hương có mùi hợp mới thành
tác dụng, nếu để ly ra, dù hương có cũng như không. Hương trần
không tương tục hiện hữu, khó mà tu chứng “viên thông”. Nếu mùi
hương có tác dụng với mũi mới thành Tỷ thức mà có sự phân biệt.
Nhưng mùi hương thì không phải lúc nào cũng có bởi vì bình
thường thì tuy mũi có thở nhưng không ngửi mùi vị gì hết. Thí dụ
khi đi ngang qua đống rác, chỉ cần nín thở vài phút thì đâu có
ngửi mùi xú uế do vậy hương trần mà không tác động với mũi thì
chẳng có phản ứng gì. Thêm nữa, hương trần không liên tục tác
dụng vào Tỷ căn nên cảm nhận tương đối rất ít cho nên nếu lấy
hương trần làm nhân địa tu hành thì khó chứng đắc viên thông.
Vị không phải đương nhiên
tự có, cần phải nếm mới biết có vị. Đối với giác cũng không liên
tục nên khó mà tu chứng “viên thông”. Ở đây vị giác cũng vậy.
Nếu không cắn trái ớt thì làm sao biết trái ớt cay đến mức nào.
Do đó vị cần phải nếm mới có giác mà con người hằng ngày chỉ ăn
uống có mấy lần thì vị giác cũng chỉ phát hiện chừng ấy cho nên
nếu lấy vị giác làm căn bản để tu thì cũng khó chứng đắc viên
thông.
Xúc có vật chạm mới biết,
nếu không cái biết xúc không thành. Xúc trong lúc hợp, chẳng xúc
được lúc ly, nên khó mà tu chứng “viên thông”. Xúc tức là sự
đụng chạm mà có. Thí dụ nếu không cầm cục nước đá thì tay đâu có
biết lạnh. Tay không sờ cái áo lông thì không biết mềm. Nếu
không có người đánh vào mặt thì mặt đâu có đau. Nhưng bình
thường thì thân ít tiếp xúc với xúc trần nên thân thức cũng ít
sanh khởi. Do đó nếu lấy xúc trần làm nhân địa tu hành thì khó
chứng đắc được viên thông.
Pháp còn gọi là nội trần.
Trần là đối tượng “Sở tri”. Năng, sở không là một, khó mà tu
chứng “viên thông”. Những hình ảnh, âm thanh, nếm, xúc,
biết đã xảy ra trong quá khứ khiến cho con người bây giờ nhớ lại
để có thương ghét, hờn giận, tốt xấu, hơn thua, phải quấy, bằng
lòng hay không bằng lòng thì gọi là pháp trần. Vậy pháp trần là
bóng dáng của âm thanh, sắc tướng, nghe ngửi, nếm xúc biết của
quá khứ mà bây giờ con người hồi tưởng lại chớ không phải những
hiện tượng đó hiện tại đang xảy ra. Thí dụ như hiện tại mình
đang ở Mỹ, nhưng nhớ lại mấy tháng trước những sinh hoạt với
thân nhân bạn bè ở Sài Gòn. Trong Phật giáo, pháp trần được xem
như là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra vọng tưởng
khiến con người sống trong điên đảo. Vì thế Đức Phật dạy chúng
sinh đừng quan tâm đến quá khứ tức là đừng khơi lại đống tro tàn
của ký ức mà phiền não có cơ hội phát tác. Sau cuộc đổi đời năm
1975, rất nhiều vị có quyền cao chức trọng, giàu sang phú quý mà
bây giờ cũng phải chạy cơm ngày hai bửa nên họ quay về sống với
quá khứ để hồi tưởng lại những kỷ niệm êm đềm.
Càng nhớ càng lưu tâm về
quá khứ thì càng luyến tiếc, càng ưu phiền chớ có ích lợi gì.
Nhớ càng nhiều về sự nghiệp, tình yêu, thù hận thì càng ray rức,
càng tê tái cõi lòng và dĩ nhiên càng có nhiều vọng tưởng thế
thôi. Bất cứ ai cũng trải qua lứa tuổi đôi mươi thơ mộng, nhưng
nó đã qua rồi thì cứ an vui ở bất cứ lứa tuổi nào vì nó chỉ đến
có một lần. Quá khứ đã qua đi thì làm sao nắm bắt lại được cho
nên muốn có hạnh phúc thì hãy sống với những giây phút hiện tại
mình đang có ngay bây giờ. Trong sáu trần thì sắc, thanh, hương,
vị, xúc là ngoại trần tức là những trần cấu ở bên ngoài tác tạo
với nội căn để phát sinh ra vọng tưởng. Duy chỉ có pháp trần là
nội trần vì nó phát hiện từ nội tâm nên nó rất tai hại bởi vì
không cần đối tượng trước mặt mà con người vẫn có buồn vui,
sướng khổ, giận hờn như thường. Hễ có nhớ là còn khổ, còn luyến
tiếc, còn vọng tưởng. Nhưng cái biết do ngoại cảnh nên gọi là
“sở tri” để phát khởi cái biết tự trong tâm tức là “năng tri”.
Một khi có năng có sở là có sự phân biệt nên chúng sinh khó lấy
đó làm nhân địa tu hành mà chứng đắc được viên thông.
1) NHƯỢC ĐIỂM CỦA NĂM
CĂN:
Tánh thấy rỗng rang bao quát nhưng chỉ thấy được phía trước,
chẳng thấy được phía sau. Bốn hướng tám phương mất đi một nữa,
nên khó mà tu chứng “viên thông”.
Tuy mắt là một trong hai căn nhạy bén nhất, nhưng cái thấy của
mắt bị ngăn ngại, không thông suốt. Mắt chỉ thấy phía trước mà
không thấy được phía sau, thấy gần nhưng không thể thấy xa nên
công dụng bớt đi mất phân nửa.
Mũi thở ra thở vào, chặng giữa không có thở, không dung thông,
còn cách trở, khó mà tu chứng “viên thông”.
Hơi thở của mũi cũng không đều, có lúc thở ra có lúc hít vào, có
lúc nín thở, có khi thở dài và cũng có khi thở ngắn. Người tâm
định thì hơi thở rất bình thường đều đặn, khi tập thể dục hay
chơi thể thao thì hơi thở rất mạnh và người đau yếu thì hơi thở
thoi thóp. Thế thì hơi thở không nhất định, lúc cao lúc thấp, có
lúc không nên khó dung thông.
Lưỡi không vị, tánh nếm không thành. Vị không phải lúc nào cũng
sẵn có nên khó tu mà chứng “viên thông”.
Lưỡi bình thường thì không có vị. Bên ngoài của lưỡi được cấu
tạo bởi rất nhiều tuyến để nhận biết, phân biệt mùi vị, nhưng tự
thể những tuyến này là trung dung, không mùi vị. Nhưng con người
đâu phải lúc nào cũng ăn uống cho nên lưỡi chỉ làm việc gián
đoạn, không liên tục.
Thân biết xúc, nhưng phải có đối tượng. Năng sở xúc không thường
liên tục thì khó mà tu chứng “viên thông”.
Thân có cảm xúc là do sự va chạm. Thí dụ cầm ly nước trà thì cảm
thấy nóng, cầm cục nước đá thì thấy lạnh và tay sờ cái áo lông
thì cảm thấy mềm mại êm đềm. Đi hay chạy bộ thì cảm thấy gió
mát. Ai tát vào mặt thì xót xa đau đớn còn ai nựng vào má thì
hạnh phúc yên vui. Nhưng nói chung thân có biết thì cần phải có
xúc, nhưng hằng ngày sự tiếp xúc cũng giới hạn, gián đoạn nên
cái biết của thân cũng không thường liên tục.
Ý căn thường xen với vọng tưởng. Loạn tưởng dừng thì chẳng thấy
biết gì. Tưởng niệm không dễ gì dứt bỏ thì khó mà tu chứng “viên
thông”. Khi thấy một người vào nhà thì biết có người vào
thì cái biết này là nhãn thức, chưa có sự phân biệt. Nhưng nhìn
kỹ thì đây là người đàn ông, ở tuổi ba mươi, là người bà con thì
từ nhãn thức chuyển qua ý thức phân biệt rõ ràng. Vì thế ý căn
là sự tiếp nạp những luồng tư tưởng từ năm căn gởi đến để phân
biệt tạo thành vọng tưởng. Nếu không có những ý niệm từ các căn
gởi đến thì ý căn tự nó không biết gì hết và chẳng có gì để phân
biệt đối đãi. Mà ý tưởng thì tuôn chảy không ngừng, khó dứt cho
nên vọng tưởng cũng vì thế mà sinh sôi nẩy nở mạnh trong tâm.
2) NHƯỢC ĐIỂM CỦA SÁU
THỨC:
Cái thấy của mắt phải có
căn trần. Cạn xét tột cùng nó không tự thể, không tự thể thì
không nhất định nên khó mà tu chứng “viên thông”.
Muốn có cái thấy thì phải có mắt, có trần tức là có đối tượng để
thấy và dĩ nhiên phải có tánh thấy. Nếu thiếu một thì cái thấy
không thành tựu. Vì cái thấy tùy thuộc vào ba nhân duyên là mắt,
trần và tánh thấy nên cái thấy không có tự thể cho nên cái thấy
lúc có lúc không, không nhất định thành thử rất khó dựa vào đó
mà tu chứng đắc viên thông.
Sử dụng cái nghe, nghe suốt mười phương, hạng sơ tâm không dễ
dàng thực hiện nên khó mà tu chứng “viên thông”.
Tuy cái nghe có thể nghe suốt, không ngăn ngại và có ba đức tính
là Viên, Thông và Thường. Thứ nhất “Viên” tức là viên mãn nghĩa
là ở đâu mà có âm thanh thì tai có thể nghe được. Đức tính thứ
hai của cái nghe là “Thông” tức là không bị ngăn bít. Thí dụ một
người ca hát ở căn nhà kế bên mà chúng ta có thể nghe tiếng hát
rất rõ ở trong nhà mình. Đức tính thứ ba là “Thường” tức là lúc
nào cũng nghe. Tuy nhiên pháp tu “phản văn văn tự tánh” đòi hỏi
hành giả phải vào thiền định nên những bậc sơ cơ khó thực hiện
nếu không có sự hướng dẫn.
Quán điểm trắng ở tỷ căn đó chỉ là quyền phương tiện, nhằm thu
nhiếp để trụ tâm. Trụ mà trở thành “sở trụ” thì khó mà tu chứng
“viên thông”.
Đây là pháp tu thiền định mà hành giả ngồi ngay ngắn rồi nhìn
thẳng vào điểm trắng ở sóng mũi của mình. Hành giả quán hơi thở
và chỉ định tâm nơi mũi thì có thể thu nhiếp vọng tưởng để quy
tâm về một chỗ. Nhưng đối với người không thực hành thiền định
lâu thì họ chấp nơi sóng mũi là “sở trụ” còn tâm của mình duyên
ra sóng mũi thành ra “năng trụ”. Một khi có năng có sở thì rất
khó mà tu chứng đắc viên thông. Thuyết pháp vận dụng âm thanh
văn tự chỉ khai ngộ cho những ai Phật chủng đã trồng sâu. Danh
cú, văn tự không phải là vô lậu thì khó mà tu chứng “viên
thông”.
Trong kinh Kim Cang, Phật dạy rằng: “vô pháp khả thuyết gọi là
thuyết pháp” nghĩa là không có pháp để cho Như Lai thuyết bởi vì
cái mà nói được thì nằm trong vòng lẩn quẩn tương đối, sinh diệt
còn chân lý là pháp tuyệt đối, vô hình vô tướng, bất sinh bất
diệt thì làm sao nói được. Dó đó “có” hay
“không” chỉ là phương tiện để đối trị với bệnh chấp của chúng
sinh. Đức Phật chỉ dùng phương tiện để giúp chúng sinh tự mình
thấy được chân lý chớ kinh điển, thuyết pháp không phải là chân
lý. Vì thế khi nghe thuyết pháp thì người trí chỉ dựa vào âm
thanh thuyết pháp để nghe cái gì chứa đựng bên trong. Ví như
người nương theo ngón tay để thấy mặt trăng, còn nếu chấp ngón
tay là mặt trăng thì cả đời cũng không bao giờ biết mặt trăng
như thế nào.
Phật Pháp là bất định pháp
nghĩa là có những bài thuyết pháp rất huyền diệu tuyệt vời,
nhưng nó chỉ dành riêng cho một thành phần nào đó chớ không phải
cho tất cả mọi người cho nên Phật mới nói cao, nói thấp và nói
84.000 bài thuyết là vậy. Do đó ngôn ngữ văn tự chỉ pháp là sinh
diệt, là hữu lậu nên nếu chúng sinh không có chủng tử Phật thâm
sâu mà chỉ nương theo tâm hữu lậu làm nhân địa tu hành thì không
bao giờ đạt được pháp vô lậu thanh tịnh Niết bàn. Nói cách khác
trong tất cả chúng sinh đã có sẵn chủng tử Phật Pháp, nhưng lý
do họ không thấu hiểu là vì bị màn vô minh che lấp cho nên nếu
mình có thể đánh tan màn vô minh hắc ám đó thì chủng tử Phật
Pháp từ từ hiển lộ mà không cần Phật hay Bồ Tát thuyết. Màn vô
minh càng vén thì Phật tánh càng hiển bày cũng như mây tan thì
trời sáng tỏ. Đó là tại sao tuy Đức Phật thuyết pháp độ sanh
suốt 49 năm ròng mà Ngài nói “Ta chưa hề nói một chữ” là vậy.
Giữ giới chỉ câu thúc cái
thân, ngoài cái thân lấy gì câu thúc? Giới và thân vốn không
cùng khắp thì khó mà tu chứng “viên thông”. Giữ giới là để
câu thúc tức là kiềm chế cái thân. Thí dụ giữ giới sát sinh nên
tay không giết hại súc vật. Hành động của thân thì có giới hạn
nên có thể câu thúc được. Nhưng tâm ý thì tuôn chảy như dòng
thác, liên tục bất tận thì làm sao câu thúc? Vì thế nhà Phật gọi
giữ giới là “biệt biệt giải thoát” nghĩa là chúng sinh giữ được
phần nào thì có giải thoát chừng ấy.
Giới là vì chúng sinh đi
ngược lại với chơn tánh của mình, chớ nếu biết sống đúng với
tánh giác diệu minh thì chẳng có giới gì để giữ cả. Thí dụ nhơn
thừa thì có 5 giới và các vị Tỳ kheo thì có 250 giới. Con đường
chúng sinh đi là Giới-Định-Tuệ nghĩa là có giới hạnh viên mãn
thì tâm mới định và một khi tâm định thì chắc chắn trí tuệ sẽ
sinh. Ngược lại các vị Bồ Tát hay chư Phật thì họ đã có trí tuệ
viên mãn nên tâm hằng thanh tịnh. Mà tâm đã thường định thì
chẳng thấy có giới gì để giữ. Tuy không giữ giới mà đây mới thật
là giữ giới vẹn toàn. Vì giới và thân có giới hạn, không cùng
khắp nên cái gì có giới hạn thì không phải là chơn tâm vô cùng
vô tận nên đây không phải là pháp có thể nương tựa để chứng đắc
viên thông.
Thần thông do tập nhân từ
trước, không dính dáng với ý thức phân biệt pháp trần. Niệm lự,
không rời sự vật thì khó mà tu chứng “viên thông”. Pháp trần
luôn phát sinh những luồng tư tưởng của ký ức trong tiềm thức do
đó mà ý thức hoạt động, tác tạo không ngừng khiến vọng tưởng
cũng vì thế mà tăng trưởng. Thêm nữa, ý thức là do sự tổng hợp
của nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức nên
nếu không có đối tượng thì ý thức cũng không còn phân biệt được.
Vì ý niệm phải cần có đối tượng nên ý thức lúc nào cũng dấy
khởi, không ngừng nghĩ cho nên nếu dựa theo ý thức mà tu thì rất
khó có được chứng đắc viên thông.
3) NHƯỢC ĐIỂM CỦA BẢY
ĐẠI :
Đất, tánh của nó là ngăn ngại, nếu quán cái tánh của địa đại thì
không thể thông suốt. Vả lại pháp hữu vi không là giác tánh thì
khó mà tu chứng “viên thông”.
Tuy sáu căn, sáu trần, sáu thức và bảy đại đều là những dữ kiện
để tu chứng đắc viên thông, nhưng tánh của đất là ngăn ngại,
không thông suốt nên khó dựa theo đó mà tu chứng. Thêm nữa, đất
là pháp hữu vi mà không có giác tánh nên đòi hỏi hành giả phải
có định lực cao, công phu bền chắc thì mới có thể đạt đến trình
độ như như bất động liễu liễu thường minh được.
Nước do quán mới thấy. Nếu quán thủy đại cần vận dụng nhiều quán
trí. Đã là quán trí thì không phải là chơn, chưa đạt đến “như
như phi giác quán” thì khó mà tu chứng “viên thông”.
Trong đạo Phật có rất nhiều cách quán chẳng hạn như quán vô
thường, quán khổ, quán vô ngã, quán bất tịnh, quán không… Ở đây
nước là do quán mới thấy, nhưng muốn đạt đến trình độ đó thì
hành giả đã thuộc vào hạng căn cơ cao, nội lực mạnh chớ hạng căn
cơ hạ liệt chắc chắn không thể làm nổi. Đối với tất cả chúng
sinh thì nên quán “Như huyễn Tam-ma-đề” để thấy biết rằng vạn
pháp duyên sanh như huyễn thì cuộc đời sẽ dễ chịu, bớt tham cầu,
giảm si mê bởi vì thế gian chẳng có cái gì là chân thật cả, thấy
đó rồi mất đó nên tâm dễ hướng về cõi tự tại. Lý do chúng sinh
không thấy “như huyển” là tại vì trong họ chấp ngã còn nặng nên
thấy cái gì cũng thật, nhìn vật gì cũng si mê say đắm nên phải
giữ gìn, chấp thủ.
Lửa đem so sánh với nỗi của dâm tâm, nếu quán hỏa đại để trừ lửa
dâm ở nội tâm, đó chỉ là người chán cái khổ hoành hành, chưa
phải là viễn ly chân thật. Đó là phương tiện không phải phát
xuất bởi tâm ban đầu nên khó mà tu chứng “viên thông”.
Quán về lửa trong đoạn kinh này là lửa lòng, lửa dâm phát khởi ở
nội tâm để sai sử con người dấn thân vào vòng sa đọa. Do đó
người có thể quán hỏa đại để biến thành lửa tam muội mà đốt cháy
tâm dâm thì dĩ nhiên đây là hạng có nội lực cao.
Ông Ô Sô Sắc Ma nhờ Đức
Phật Không Vương Như Lai dạy cách quán hơi nóng trong cơ thể
cùng khắp tứ chi để biến tâm háo dâm trở thành trí tuệ, sáng
suốt. Ông Ô Sô Sắc Ma bị tâm dâm hành hạ, tâm trí bị dâm dục
hoành hành nên rất đau khổ mà cái khổ của ông chỉ là một giọt
nước trong biển khổ của thế nhân. Vì thế ý nghĩa chữ “diệt khổ”
của nhà Phật là diệt tất cả chớ không phải chỉ một nỗi khổ nào
bởi vì diệt được nỗi khổ này thì những nỗi khổ khác lại hiện ra.
Gió thì lúc động lúc yên,
nếu quán cái tánh của phong đại thì đó chỉ là pháp đối đãi. Còn
đối đãi thì không là tánh giác minh vô thượng, khó mà tu chứng
viên thông. Gió thì không phải lúc nào cũng có, khi có khi
không, lúc mạnh lúc yếu, không liên tục. Có khi gió thành cuồng
phong bảo tố, có khi yên tĩnh như tờ nên gió là pháp đối đãi. Mà
đã có năng có sở là có vọng tưởng chớ không phải là tánh giác
chân thật.
Không thì rỗng suốt chẳng
có gì, nếu quán cái tánh của không đại thì đồng như vô tri vô
giác. Vô tri vô giác trái với Bồ Đề thì khó mà tu chứng “viên
thông”. Không của hư không là cái không rỗng suốt chẳng có
gì vì thế nếu người đệ tử Phật tu quán “vạn pháp giai không” để
thấy thế gian rỗng không, chẳng còn cái gì hết thì hoàn toàn đi
ngược lại với giáo lý nhà Phật. Càng tu theo lối này thì càng đi
sâu vào vòng mê muội. Tại sao? Bởi vì chúng sinh chán cái khổ vì
có mà mong mỏi đi tìm cho được cái không thì cũng khổ như nhau.
Cảnh giới, danh xưng tuy có khác nhưng cái khổ đâu có khác cũng
ví như sợ chết đuối mà lại chạy vào lửa thì có khác gì. Vì thế
người tu thiền cố ngồi suy tư quán chiếu để biến tất cả thế gian
thành ra không thì đây không phải là thiền của Phật giáo, càng
tu càng khổ càng mê muội. Thế gian, nhà cửa, xe cộ, nam thanh nữ
tú sờ sờ ở đó mà quán thành không, chẳng còn gì hết thì thế gian
còn cái gì để sống, để tu.
Cái không của nhà Phật là
“không chẳng khác sắc” nghĩa là “không là sắc và sắc là không”.
Nói cách khác tất cả mọi vật thể trong thế gian này dù to lớn
như mặt trời, mặt trăng hay nhỏ như hạt cát đều do duyên khởi
tác tạo mà thành chớ không vật nào tự nó sinh khởi hay tồn tại
được cho nên vật thể là vô ngã, không có tự thể nên tuy là có,
là thấy sờ sờ ở đó nhưng một ngày nào đó nó sẽ bị biến hóa, tiêu
hoại nên gọi là không. Vì thế cái không của Phật giáo là không
tham đắm, si mê, không chấp thủ chạy theo hình sắc sinh diệt chớ
không phải dùng thần thông hay quán làm biến đi tất cả. Ngày xưa
Đức Phật cũng sống trong cái thế giới có đầy đủ vật chất như
chúng ta hiện nay, nhưng dưới mắt của người giải thoát giác ngộ
là tuy có nhưng tất cả đều là không nên Ngài không dính mắc vào
bất cứ cái gì ngay cả Bồ Đề, Niết Bàn. Vì vậy chán cái khổ vì có
nên cố tìm cầu cái không thì kết quả cũng khổ như nhau tức là
vẫn còn chấp bên này bên kia, chưa tự tại.
Thức thì sanh diệt không thường, nếu quán cái tánh của không đại
chỉ là quán sự phân biệt diệt sanh hư vọng, khó mà tu chứng
“viên thông”.
Tuy Ngài Di Lặc Bồ Tát tu pháp quán duy thức mà tỏ ngộ được tất
cả sự vật, nhưng thức là do phân biệt ứng hiện, không phải có
không phải không nên thức có rất nhiều phân biệt hư vọng chớ
không phải là vô phân biệt vì thế mà Ngài Văn Thù lựa bỏ pháp
môn này, cho là không thích hợp.
Kiến là tánh thấy, kiến đại biểu hiện qua tưởng niệm. Tất cả các
hành đều vô thường, tưởng niệm vốn trong vòng sanh diệt. Đem
nhân sanh diệt, cầu được quả chân thường bất diệt, khó mà tu
chứng “viên thông”.
Ngài Đại Thế Chí tu pháp niệm Phật, luôn luôn phát ra những
tưởng niệm giác ngộ huân tập tự tâm nên Ngài mới chứng ngộ viên
thông. Còn đối với hạng sơ cơ phát tâm tu về pháp môn này thì dễ
dính mắc vào sự tướng, mắc vào các tưởng niệm sinh diệt vì họ
không biết niệm cái vô niệm, niệm cái vô sinh diệt. Nói cách
khác khi chúng sinh niệm hồng danh Phật A Di Đà thì tâm họ dính
mắc nơi sáu chữ A Di Đà, miệng niệm mà tâm không niệm nên không
thể có giải thoát được. Do đó nếu chúng sinh còn tu theo âm
thanh sắc tướng nghĩa là lấy nhân sinh diệt mà tu thì sẽ khó mà
đạt được quả chân thường bất diệt, vô vi thanh tịnh. Vì thế Chơn
tâm thường trú không sinh diệt hư hoại nên gọi là “Thường” và
thể tánh tịnh minh sáng suốt là “Quang” và tâm thanh tịnh vắng
lặng là “Tịch”. Do đó cảnh “Thường, Tịch, Quang” Tịnh độ
chỉ ở nơi chơn tâm ta chớ không đâu khác.
Thêm nữa, chơn tâm không hoại diệt là “Phật Vô Lượng Thọ”,
chơn tâm chiếu soi vô tận là “Phật Vô Lượng Quang” và đó tức là
“Thanh tịnh diệu Pháp thân” của Phật A Di Đà.
Vì vậy người niệm Phật đến khi hết vọng, ngộ nhập chơn tâm rồi
thì Phật A Di Đà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ nơi tâm mình hiện ra,
chớ không phải ở đâu xa. Vì thế nên kinh dạy rằng : “Tự tánh Di
Đà, duy tâm Tịnh độ” là vậy.
4) SỰ ƯU VIỆT CỦA NHĨ
CĂN:
Tôi nay kính bạch Thế
Tôn:
Phật ra đời ở cõi Ta bà
Trong cõi này giáo môn thích ứng
Hiệu quả tốt ở: Nói và Nghe
Muốn thành tựu được Tam ma đề
Phải vận dụng “tánh nghe” mà nhập
Chúng sinh sống trong thế giới Ta Bà thì phải cam tâm nhẫn chịu
biết bao tham, sân, si, mạn, nghi, hơn thua phải quấy, vui mừng
hờn giận, tốt xấu, thật giả… ngay cả hài lòng hay không hài lòng
cũng phải chấp nhận. Vì thế sáu căn, sáu trần, sáu thức và bảy
đại là những điều kiện để cho người đệ tử Phật dựa vào đó mà sửa
trị, hóa giải tâm tánh của mình. Trong hai mươi lăm môn viên
thông thì pháp môn nào cũng là bậc nhất. Cũng ví như mỗi người
có mỗi căn bệnh khác nhau. Nếu thuốc nào trị được bệnh ấy thì là
bậc nhất. Do đó con người có thể chọn lựa cho mình bất cứ pháp
môn nào thích hợp nhất, hợp với khế cơ thì pháp môn ấy là bậc
nhất bởi vì pháp môn chỉ là phương tiện mà giải thoát giác ngộ
mới là cứu cánh. Tuy có rất nhiều pháp môn để cùng đạt đến chỗ
giải thoát giác ngộ viên thông, nhưng pháp môn uu việt nhất đối
với người căn cơ thấp thì vẫn là “nhĩ căn viên thông” của Ngài
Quán Thế Âm. Pháp tu phản văn văn tự tánh là xoay tánh nghe trở
vào trong để nghe tiếng nói thanh tịnh của tâm mình mà chứng
được chánh định.
Lìa khổ được giải thoát
Hay thay Quán Thế Âm
Kiếp số như cát sông Hằng
Vào cõi nước vi trần Phật độ
Sức tự tại không thể nghĩ lường
Vô úy bình đẳng thí chúng sinh
Quán Thế Âm Bồ Tát nhờ tu theo pháp môn này mà có được 14 thứ
công đức vô úy không có nghĩa là Bồ Tát thành tựu 14 công đức vô
úy rồi đem 14 thứ công đức đó mà cứu khổ cứu nạn chúng sinh. Mà
huyền nghĩa của kinh là Bồ Tát nhờ tu theo pháp môn Văn huân Văn
tu mà thành tựu 14 thứ công đức vô úy do đó nếu chúng sinh tu
pháp môn này đến chỗ rốt ráo như Bồ Tát thì chính mình cũng có
được 14 công đức vô úy như các Ngài. Vì sự diệu dụng đó mà Ngài
thị hiện vào vô số cõi Phật để giúp chúng sinh thấy con đường
giải thoát mà tu.
Quán Thế Âm là Diệu Âm
Quán Thế Âm tức Phạm Âm
Quán Thế Âm, Hải Triều Âm đó
Cứu thế vững an khang
Xuất thế hằng thường trú
Tôi kính bạch Như Lai
Thế nào là Quán Thế Âm? Quán là quán chiếu, suy tư. Thế là
thường xuyên liên tục và Âm là âm thanh, âm ba trong tâm vọng
lên chớ không phải âm thanh bên ngoài. Do đó Quán Thế Âm là lắng
nghe những âm ba, âm thanh của lòng mình thường xuyên liên tục
để nhắc nhở chúng sinh về Giới-Định-Tuệ giải thoát, giải thoát
tri kiến trên con đường Bồ Đề Niết Bàn. Diệu Âm là những tiếng
trong sáng mầu nhiệm. Khi chúng sinh ở những nơi rất yên tịnh
rồi xoay cái nghe của mình vào trong thì có thể nghe biết bao âm
thanh huyền diệu nhắc nhở mình trút bỏ vô minh, phiền não, dứt
bỏ ái dục để tiến lên con đường giải thoát biểu hiện qua con
đường đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã thì tiếng nói đó chính là
Diệu Âm vậy. Vì thế Ngài thị hiện thành muôn hình vạn tướng
trong tâm của tất cả chúng sinh chớ không nhất thiết chỉ là hình
tướng của một phụ nữ. Đó là bất cứ chúng sinh ở bất cứ tầng lớp
nào trong xã hội hay bất cứ ở nơi nào, giống dân nào mà tâm mình
thiện để độ đời thì chính lúc ấy Đức Quán Thế Âm đang thị hiện
trong tâm của ta rồi.
Quán Thế Âm là Phạm Âm nghĩa là những âm thanh, tiếng nói
thánh thiện của lòng mình để khuyến khích chúng sinh làm lành,
tích thiện cứu đời độ thế và sau cùng tiến thẳng về cứu cánh
giải thoát giác ngộ. Quán Thế Âm là Hải Triều Âm là tiếng Pháp
huyền diệu cũng như tiếng sóng ào ạc đang thoi thóp nổi lên từ
trong lòng của chúng sinh để nhắc nhở con người mở lòng từ bi,
cứu độ chúng sinh.
Như lời Quán Âm nói
Ví như ngồi chỗ tĩnh
Mười phương cùng đánh trống
Mười hướng thảy đồng nghe
Đấy là “viên chơn thật”.
Cách vách nghe âm hưởng
Xa gần có thể nghe
Năm căn không sánh được
Thông chơn thật, nhĩ căn
Tiếng không, tánh nghe không diệt
Tiếng có, chẳng phải mới sanh
Có không, không quan hệ
Thường chơn thật của nhĩ căn.
Nhĩ căn có ba đức tính là Viên, Thông và Thường. Thứ nhất “Viên”
tức là viên mãn nghĩa là ở
đâu mà có âm thanh thì tai có thể nghe được. Đức tính thứ hai
của tai là “Thông” tức là không bị ngăn bít. Thí dụ một người
đang hát ở căn nhà kế bên mà chúng ta có thể nghe tiếng hát rất
rõ ở trong nhà mình. Đức tính thứ ba là “Thường” tức là lúc nào
cũng nghe. Thí dụ như có âm thanh thì nghe tiếng tức là nghe
động. Còn không có âm thanh thì tai nghe tĩnh. Vì thế khi tham
thiền nhập định, tuy rất yên lặng, không có tiếng động, nhưng
hành giả vẫn có thể nghe rất xa và rất rõ những âm thanh huyền
diệu mà được gọi là Diệu Âm. Khi có âm thanh thì nghe tiếng, còn
lúc yên tịnh thì nghe tĩnh chớ không phải không nghe cái gì hết.
Nhưng tánh nghe thì lúc nào cũng có, thường trụ cho dù có nghe
tiếng hay nghe tĩnh. Vì thế chúng sinh có thể nghe những âm
thanh huyền diệu trong lòng ta bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Đây
là tánh thường chơn của tánh nghe.
Dù có đang say ngủ
Chẳng vì ngủ không nghe
Tánh nghe ngoài suy nghĩ
Thân ý chẳng so bằng
Hiện tại cõi Ta bà
Thanh Luận được biểu dương
Mê muội đối với tánh nghe
Bị thanh trần cuốn theo dòng lưu chuyển
Khi ngủ nếu có ai giơ tay tát vào mặt thì tánh thấy không phát
hiện được. Ngược lại trong khi ngủ nếu có người gọi tên thì
chúng ta thức giấc ngay vì thế tánh nghe thì lúc nào cũng có,
cũng có thể nghe được. Vì sự nhạy bén đó cho nên nếu chúng sinh
không tự chủ được nhĩ căn của mình thì sẽ bị thanh trần cuốn con
người vào vọng trụy lạc khổ đau.
Dùng tánh nghe trú trì Phật Pháp
Hãy tự mình nghe lấy tánh nghe
Xoay tánh nghe thoát khỏi thanh trần
Tánh nghe ấy là tánh nghe thường trú
Một căn đã xoay về bản tánh
Thì năm căn sẽ được giải thoát theo
Sắc thanh… trần như bệnh lòa huyễn
hóa
Ba cõi dường hoa đóm trong không
Khi xoay tánh nghe vào trong để nghe tiếng lòng thanh tịnh của
mình thì thanh trần không còn ảnh hưởng nghĩa là cho dù tai có
nghe tất cả nhưng mà như không nghe gì hết. Một căn đã thanh
tịnh thì năm còn lại cũng thanh tịnh theo. Lúc ấy ngoại trần
“sắc, thanh, hương, vị, xúc” và nội trần “pháp” tuy có mà như
không, chẳng còn tác dụng làm con người đau khổ thì tâm sẽ được
như như bất động, liễu liễu thường minh. Tâm thanh tịnh thì làm
gì còn dục giới tức là cảnh giới của tham dục, thực dục và dâm
dục. Tuy còn sống ăn ngủ trong thế gian, nhưng con người không
còn lưu luyến, đam mê cái thế giới hữu hình này thì chúng ta đã
lìa xa được cõi sắc rồi.
Sau cùng, nếu chúng sinh
không gởi gấm tâm hồn mình vào nơi vô định, lên đồng nhập cốt,
xuất hồn đi nơi này nơi khác, lo sợ âm ty địa ngục là con người
đã vượt thoát cõi vô sắc. Phật giáo khẳng định là không bao giờ
có âm ty địa ngục mà chỉ có địa ngục tự tâm nghĩa là chúng sinh
tự đày mình vào thế giới âm u của địa ngục tham-sân-si để phải
chịu cảnh khổ. Đức Phật Thích Ca và biết bao đệ tử của Ngài cũng
sống trong thế giới này, nhưng các Ngài đã ra khỏi tam giới,
không còn vướng bận nên tâm hằng trụ Niết bàn. Vì thế dục giới,
sắc giới và vô sắc giới đều từ tâm biến hiện. Thiên đàng, địa
ngục cũng từ tâm cho nên nếu chúng sinh biết chuyển tâm để sống
đúng với chân lý, đúng với chánh Pháp thì sẽ vượt thoát tam giới
mà có giải thoát tự tại ngay trong đời này, thế giới này.
Xoay tánh nghe là trừ hết bệnh lòa
Trần tưởng diệt, giác tâm hiển hiện
Tột thanh tịnh trí quang thông suốt
Tịch như mặt trời chiếu tợ thái dương
Quay nhìn xem hiện tượng thế gian
Như vật sắc chiêm bao chẳng khác
Ma Đăng Già hà không là mộng huyễn
Thì còn ai quyến rũ! Hởi A Nan?
Nếu chúng sinh biết xoay tánh nghe để lắng nghe tiếng lòng thanh
tịnh của mình thì những vọng tưởng sinh diệt không còn phát
sinh. Những tư tưởng, ý niệm hơn thua, phải quấy, tốt xấu, lấy
bỏ không còn dấy lên nữa thì lúc bấy giờ tánh giác thanh tịnh
của mình bắt đầu hiển hiện. Khi tâm đã định thì trí quang bừng
sáng cũng như vầng mây đen tan thì ánh sáng mặt trời chiếu sáng.
Lúc ấy nhìn lại thế gian sinh sinh diệt diệt, có rồi lại không,
hợp rồi lại tan chẳng khác nào như giấc chiêm bao chớ có chi là
bền chắc. Khi đã quán chiếu để biết rằng thế gian là huyễn hóa,
là do duyên khởi tạo thành nên thấy đó rồi mất đó thì lòng không
còn tham đắm si mê. Tâm thanh tịnh thì phiền não không còn,
tham-sân-si biến mất thì nàng Ma Đăng Già làm sao quyến rũ được.
Đó chính là tâm chuyển vật. Ngược lại nếu tâm mình bất tịnh thì
vật chuyển tâm khiến cho con người dễ rơi vào hố thẳm của tội
lỗi đau thương.
Như các huyễn sư khéo tạo hình người
Giỏi trang điểm làm ra trai hay gái
Dù có căn cơ cử động rung rinh
Do cái máy dật dây điều khiển
Động cơ “nghỉ” tứ chi người “tê liệt”
Trò múa men đến lúc trở thành không
Tư duy kỹ, sáu căn người cũng thế
Phát xuất từ một thể tánh tịnh minh
Chia ra thành sáu thứ “hợp” “hòa”
Một đã tịch thì sáu căn đều thanh tịnh
Đối với tuệ nhãn của Bồ Tát thì thế gian này chẳng có cái gì là
thật cả. Vì do nhân duyên hòa hợp nên con người mới được tạo tác
mà có hình dáng, tiếng nói, giọng cười. Bởi do duyên khởi tạo
thành nên con người là giả tạo, không bền không chắc. Tuy tay
chân có hoạt động là bởi do thần thức điều khiển cũng bởi do các
duyên giả hợp tạo thành. Khi duyên tan, thất đại tan rã thì con
người cũng mất, mỗi đại về lại với bản thể của nó. Xét cho cùng
tánh giác diệu minh khi tác động vào con người mà có tánh thấy,
tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc và tánh biết vì thế nếu
chúng sinh biết quán chiếu tu tập để có một căn thanh tịnh thì
năm căn kia cũng đều thanh tịnh như nhau.
Trần cấu còn thì gọi là học vị
Giác tột cùng thì gọi đó Như Lai
Hởi A Nan! Và đại chúng hiện tiền
Hãy chỉ tức nghe thanh trần điên đảo
Xoay tánh nghe, nghe tự tánh của mình
Nghe tự tánh là thành Vô Thượng Giác
Xin đảnh lễ Như Lai Tạng tánh
Gia bị cho mạt thế chúng sinh
Đủ khả năng làm chủ lấy Nhĩ Căn
Giàu nghị lực sống với Viên, Thông, Thường ba chơn thật tánh.
Còn phiền não vô minh thì
gọi là chúng sinh, hàng hữu học. Đến khi dứt hết trần cấu, điên
đảo vô minh thì gọi là Như Lai tức là thành Phật. Do đó tu chứng
là do chúng sinh nỗ lực để diệt trừ trần cấu mà trở về với tánh
giác diệu minh vốn hằng có sẵn trong tâm của mình chớ không do
ai trao tặng. Vậy tất cả chúng sinh hãy cố gắng chấm dứt nghe
những âm thanh, tiếng nói điên đảo bên ngoài mà chú tâm lắng
nghe tiếng nói thanh tịnh tự đáy lòng tức là nghe được tự tánh
thanh tịnh bản nhiên thường có của mình thì tức khắc trở thành
người giác ngộ.
Nếu đứng trên phương diện bản thể thì căn, trần, thức, đại đều
là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai Tạng nên tất cả đều là tự
tánh thanh tịnh bản nhiên, không có gì là căn nguyên của tội lỗi
xấu xa cả. Tuy nhiên, bây giờ nếu đứng về phía hiện tượng mà nói
thì căn, trần, thức, đại mỗi thứ tác động qua lại khác nhau cho
nên công dụng biểu hiện cũng không đồng mà từ đó mới có ưu, có
khuyết. Người tu Phật phải biết rằng tuy căn, trần, thức, đại có
khác nhau trên phương diện tu chứng viên thông nghĩa là căn cơ,
bổn nguyện của chúng sinh có khác nên sự chọn lựa để thích hợp
với căn cơ của họ cũng không giống nhau, nhưng cứu cánh vẫn là
một, là giải thoát tự tại.
Sáu căn, sáu trần, sáu thức và bảy đại là những điều kiện để cho
người đệ tử Phật dựa vào đó mà sửa trị, hóa giải tâm tánh của
mình. Trong hai mươi lăm môn viên thông thì pháp môn nào cũng là
bậc nhất. Cũng ví như mỗi người có mỗi căn bệnh khác nhau. Nếu
thuốc nào trị được bệnh ấy thì là bậc nhất. Do đó con người có
thể chọn lựa cho mình bất cứ pháp môn nào thích hợp nhất, hợp
với khế cơ thì pháp môn ấy là bậc nhất. Nên nhớ rằng pháp môn
chỉ là phương tiện mà giải thoát giác ngộ mới là cứu cánh.
Nhưng sau khi phân tích rõ chỗ ưu khuyết của 25 pháp tu thì sau
cùng Văn Thù Bồ Tát chọn Nhĩ Căn viên thông của Ngài Quán Thế Âm
Bồ Tát là ưu việt nhất để cho ông A Nan và đại chúng đời sau
nương theo đó làm nhân địa tu hành ngỏ hầu có được chứng đắc
viên thông tự tại.
SỰ CHUYỂN BIẾN TỐT SAU
KHI NGHE VÀ NHẬN THỨC TÁNH ƯU VIỆT CỦA NHĨ CĂN
Ông A Nan và đại chúng
được sự hướng dẫn rõ ràng của Bồ Tát Văn Thù, mọi người cảm thấy
khinh an sảng khoái, tâm trí bừng sáng, nhận thức rõ: Rằng Bồ Đề
Niết bàn Phật là gia bảo chung của tất cả chúng sinh, mọi người
đều có quyền thừa hưởng. Từ lâu mình tự bỏ cha bỏ nhà đi hoang,
biến mình thành những kẻ lạc loài cùng khổ, xa quê hương rời
nguyên quán, đánh mất gia tài cự phú vô tận của cha ông. Nay đại
chúng nhận rõ: Rằng dù họ chưa về nhưng đã biết đường về và tin
ở khả năng trở về của họ. Họ xác định rõ cái quyền thừa hưởng
của họ đối với sự nghiệp vĩ đại của ông cha mình.
Hàng hữu học vô học nhị thừa, hàng sơ phát tâm Bồ Tát đông như
số cát mười sông Hằng, xa lìa trần cấu được pháp thân thanh
tịnh. Vô lượng chúng sinh phát tâm cầu Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác.
Đức Phật thị hiện giáo hóa chúng sinh, chuyển bánh xe pháp cũng
không ngoài mục đích muốn chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến tức
là thể nghiệm và sống được với chơn tâm của mình. Vì thế Phật
mới dạy rằng: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai
kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều
có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Nhưng nếu chúng sinh đều có
Phật tánh thì tại sao đến nay chúng ta vẫn chưa thành Phật? Cũng
chỉ vì tâm của chúng sinh chất đầy vọng tưởng, chấp trước. Vậy
chúng ta chấp cái gì? Chấp “cái ta” tức là bản ngã và cái “của
ta” tức là ngã sở hữu cho nên không buông bỏ được những hưởng
thụ vật chất trong thế gian.
Con người luôn níu kéo, nắm
bắt mãi, càng có thì càng chấp trước thêm và ham thích hưởng thụ
nên chưa thể thành Phật. Cho nên Đức Phật mới dạy rằng: “Do vọng
tưởng và chấp trước mà tất cả chúng sinh không thể chứng đắc,
không thể thành Phật”. Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tánh như
nhau tức là có khả năng thành Phật cho nên trong kinh Pháp Hoa
Đức Phật thọ ký chẳng những cho hàng vô học, chứng thánh quả mà
Ngài còn thọ ký cho tất cả chúng sinh ngay cả những người chưa
từng quy y Tam Bảo. Do đó Bồ Đề Niết bàn là có sẵn trong tất cả
mọi chúng sinh chớ không phải do Phật hay Bồ Tát ban tặng cho
nên nếu chúng sinh hóa giải một phần vô minh thì có một phần Bồ
Đề, hóa giải một phần phiền não thì có một phần Niết bàn cho đến
khi hóa giải hoàn toàn vô minh phiền não thì thành Phật.
Trí tuệ của chúng sinh là thật tánh để có khả năng trực nhận
chân lý mà Tự tánh thanh tịnh hay Phật Tánh là có sẵn trong tất
cả mọi người. Tự tánh luôn vắng lặng thanh tịnh thì cần gì phải
chứng đắc Niết bàn. Bồ-đề, Phật Tánh là có sẳn chớ đâu phải tu
hành đắc đạo mới có. Khi mê vọng điên đảo thì không biết mình có
Phật Tánh thanh tịnh. Lúc thức tỉnh thì nó hiện ra cũng như
trong túi luôn có viên ngọc quý Ma ni mà không biết, chỉ cần thò
tay vô lấy thì sẽ hết nghèo đói, điên đảo khổ đau ngay. Trong
tánh Không tức là Tự Tánh thanh tịnh bản nhiên thì không có trí
tuệ hay chứng đắc gì cả. Vì thế Tâm Kinh mới có câu: “Vô trí
diệc vô đắc” và “Dĩ vô sở đắc cố” là vậy. Trong Chân Không Diệu
Tánh, Phật Tánh thì luôn sẳn có cho nên chứng đắc chỉ là cách
nói, là giả danh để tìm thấy được con người thật tức là Bản Lai
Diện Mục của mình mà thôi.
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật Thích Ca dạy rằng “Như Lai không
chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác gì cả”. Sở dĩ Ngài
không chứng mà thế gian đều tôn trọng Ngài là vì Như Lai không
có tướng ngã, không có tướng nhơn, không có tướng chúng sinh và
cũng không có tướng thọ giả. Như Lai nhìn vạn pháp đều bình đẳng
không thương, không ghét, không giận không hờn, không thiên
không vị. Và Như Lai luôn sống trong thiện pháp chớ không lọt
vào trong quỹ đạo của ác pháp cho nên người đời gọi Như Lai
chứng quả Vô thượng Bồ-đề chớ thật ra Như Lai có chứng đắc gì
đâu. Tuy Như Lai nói không chứng đắc mà thật ra Như Lai có chứng
đắc.
Cái chứng đắc nầy là vô
thực và vô hư tức là không phải thật và cũng không phải là
không. Tại sao không là thật? Bởi vì cái mà Như Lai chứng đắc
thì không có hình tướng, không có màu sắc, không có kích thước,
nặng nhẹ, không có văn tự ngôn ngữ để diễn tả. Thế thì cái mà
Như lai chứng đắc là không thật có. Nhưng nếu không thật thì
phải là hư. Vậy mà cái quả chứng đắc của Như Lai lại là vô hư.
Tại sao? Là vì Như Lai có đầy đủ trí tuệ để nhận thức chân lý
hoàn toàn đúng, đúng theo tự tánh Bồ-đề và tự tánh thanh tịnh
Niết bàn của sự vật hiện tượng, đúng theo Thật Tánh của con
người, đúng theo Pháp Tánh của vạn pháp cho nên Như Lai không
bao giờ có vô minh phiền não khổ đau, tâm luôn thường trụ Niết
bàn. Thế thì quả chứng đắc chính là vô hư tức là không phải là
không có. Cho nên Tâm Kinh mới có câu: “Sắc tức thị Không, Không
tức thị Sắc” có nghĩa là Có tức là Không và Không mới chính là
Có vậy.
Tu hành trong Phật giáo thì gọi là hồi đầu thị ngạn. Vì sao?
Phật ví như người đã ở trên bờ còn phàm phu chúng sinh thì vốn
cũng đã ở trên bờ như Phật nhưng họ vì sự tham đắm sắc dục và vô
minh che lấp trí tuệ nên đã lên thuyền vượt ra biển cả mênh mông
mà phải bị sóng dập gió biển trùng trùng. Bây giờ nếu nghe lời
Phật dạy, nương theo chánh pháp mà chịu quay thuyền trở lại thì
cũng có thể lên bờ và được an vui tự tại như Phật. Đó chính là
hồi đầu thị ngạn tức là có hồi thuyền mới có ngày đến bến. Người
học Phật nếu thấu hiểu đạo lý nầy để cảm nhận được chân lý huyền
diệu của Thế Tôn mà không rơi vào mê tín dị đoan. Tuy Phật và
Bồ-tát thương tất cả chúng sinh như con một của các Ngài, nhưng
chính chúng sinh phải tự mình thức tỉnh và biết áp dụng những
chân lý nhiệm mầu của Phật.
Đó chính là ba từng kinh
điển giáo pháp. Đừng hiểu lầm chỉ đường để chúng sinh quay về bờ
không có nghĩa là Phật ra biển đưa chúng sinh về bờ mà chúng
sinh phải tự mình chèo lái dựa theo tấm hải đồ mà Đức Phật đã
ban cho. Nói một cách khác là Phật không độ hiểu theo nghĩa cầu
nguyện, cúng lạy cho ai hết mà Phật chỉ độ hiểu theo nghĩa y
giáo phụng hành mà thôi. Chèo nhanh, chèo chậm là tùy theo căn
cơ, sở nguyện của chúng sinh, nhưng hễ có chèo là có ngày đến
bến. Tóm lại quả vị vô thượng Bồ-đề không phải dành riêng cho
Như Lai, nếu tất cả chúng sinh chịu hướng về với tự tánh thanh
tịnh tức là Phật tánh của mình thì sẽ có Bồ-đề ngay.
Vì thế tất cả trăm vạn phương tiện của Phật giáo cũng không
ngoài mục đích giúp chúng sinh hồi đầu thị ngạn để quay thuyền
trở lại bến xưa mà thấy được chơn tâm thường trú và thể tánh
tịnh minh vĩnh hằng trong ta. Thuyền về lại bến xưa thì chơn tâm
hiển bày, Phật tánh biểu lộ và từ đây chúng sinh sẽ sống rất
sáng suốt thanh tịnh an bình đầy phúc lạc.
HẾT QUYỂN SÁU DỰA THEO
HÁN KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Hồi Hướng
Chúng Sinh Vô Biên Thệ
Nguyện Độ,
Phiền Não Vô Tận Thệ
Nguyện Đoạn,
Pháp Môn Vô Biên Thệ
Nguyện Học,
Vô Thượng Phật Đạo Thệ
Nguyện Thành
|
|